Những câu chuyện xưa
Vũ Trọng Khải
Vài lời phi lộTôi không có ý định viết hồi ký, với một lẽ đơn giản là đời tôi giản đơn! Hơn nữa, việc viết hồi ký đòi hỏi phải biết chính xác ngày giờ, địa điểm, bối cảnh xảy ra sự kiện, có thể “truy xuất” nguồn gốc của chúng, mà điều đó vượt quá khả năng của tôi. Người già sống bằng hoài niệm, những ký ức xưa, vui có, buồn có. Nhưng nay, nhớ lại, nó lại là niềm vui, sức sống của tuổi già. Do vậy, tôi cũng định khi bước sang tuổi 70, tức là sau ngày 15/04/2014, tôi mới khai bút. Nhưng ngày 27/10/2013, tôi có dịp trở lại hợp tác xã Mỹ Thọ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, nơi cách đây hơn 40 năm, chính xác là vào tháng 08/1973, tôi và các thành viên của tổ công tác chỉ đạo xây dựng mô hình quản lýmới tại hợp tác xã này, đãđến đây và ở lại trong suốt 3 năm liền. Và sự tái ngộ không báo trước này với những người ở địa phương đã gây trong tôi cảm xúc sâu đậm và bất ngờ. Do vậy, sợ để lâu sẽ mất cảm xúc, tôi đã khai bút sớm. Những câu chuyện của tôi được kể ởđây không theo trật tự thời gian mà theo “qui luật” của cảm xúc.Vậy thôi, mọi chuyện xảy ra đều ngẫu hứng và giản đơn như chính cuộc đời tôi.Ngày 7/11/2013Vũ Trọng Khải
Câu chuyện thứ nhất
“Hai kilogam thóc và bốn hào”
Sáng
27/10/2013, tôi và hai người bạn đồng môn của khoa Kinh tế Nông nghiệp,
Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khóa V (1963 – 1967) – anh Khúc Đình
Vạn (sinh 1941) quê ở xã Yên Mĩ, huyện Thanh Trì, Hà Nội, cựu chuyên
viên Kinh tế của Bộ Kế hoạch – Đầu tư và anh Phạm Huy Khảo (sinh 1945),
quê ở huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, Đại tá, cựu Phó Tổng biên tập Báo
QĐND – rời Hà Nội trên chiếc xe Laser 4 chỗ, mượn của Trường Cán Bộ Quản
Lý Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 1, qua đường cao tốc Pháp Vân –
Cầu Giẽ để đến hợp tác xã Mỹ Thọ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (trước đây
là Nam Hà và Hà Nam Ninh). Cảnh cũ không còn, người xưa chẳng hay ai
còn, ai mất, tôi phải hỏi đường mới đến được ngôi chùa ở làng Văn Phú,
xã Mỹ Thọ, mặc dù nó ở ngay sát đường sắt chạy từ Phủ Lý đến Nam Định.
Đến trước cổng chùa, tôi còn đang ngỡ ngàng vì ngôi chùa đã được xây lại
khang trang, chưa gặp được ai để hỏi thăm, bỗng có một người đàn ông
trạc tuổi U60, đi xe đạp ngang qua, hỏi với giọng hơi “hách”: “Các ông
đi đâu?”. Tôi trả lời: “Tôi đến chùa Văn Phú, nơi cách đây 40 năm, tổ
công tác của chúng tôi đã ở đây và làm việc”. Người đàn ông có vẻ “hạ
giọng”: “Bác Thảo?”. Không, tôi trả lời. “Bác Khải”, người đàn ông lại
nói. “Đúng thế, lúc chúng tôi ở đây, anh bao nhiêu tuổi”, tôi hỏi. “Tôi
17, 18 tuổi”. “Anh tên gì và làm gì?”, tôi hỏi. “Tôi là Bằng, trưởng
thôn Văn Phú”. (À, ra vậy nên anh ta mới có cái giọng hách dịch lúc ban
đầu gặp gỡ, tôi thầm nghĩ). Tôi hỏi tiếp: “Anh có nhớ gì về tổ công tác
chúng tôi không?”. “Hai cân thóc và bốn hào”, câu trả lời tức thì, không
cần suy nghĩ của người trưởng thôn 57-58 tuổi khiến tôi hết sức ngỡ
ngàng và xúc động. Hai người bạn của tôi cũng có phần nào hiểu và xúc
động trước câu trả lời ấy. Người ngoài cuộc và các bạn trẻ hôm nay, dù
là các chuyên gia giỏi về kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn
cũng không dễ gì hiểu được vì sao câu trả lời của người đàn ông này
khiến tôi xúc động và ngạc nhiên.
Vốn là thế
này: Thời đó, hầu như nông dân ở miền Bắc đều là xã viên hợp tác xã,
được xây dựng và hoạt động dựa trên chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất
và các tư liệu sản xuất cơ bản, như trâu bò cày kéo, với cái cày “51” và
bừa chữ “Nhi” [儿], cào cỏ 64A. Xã viên đi làm ruộng theo hiệu lệnh của
đội sản xuất (Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn – thơ Tố
Hữu), được trả thù lao bằng “công điểm”, cứ 10 điểm là 1 công; 1 ngày
lao động 8 giờ, tùy theo công việc được trả từ 8 điểm đến 16 – 20 điểm.
“Công điểm” như là một thứ “tiền nội bộ” của riêng mỗi hợp tác xã, cuối
vụ, cuối năm, quyết toán ăn chia, phân phối, xã viên mới biết giá trị
của 1 công (10 điểm) là bao nhiêu kg thóc và bao nhiêu tiền. Do “cha
chung không ai khóc”, hợp tác xã quản lý lỏng lẻo, nên tình trạng “phóng
công, rong điểm” tương tự như lạm phát tiền tệ vậy, diễn ra phổ biến và
nghiêm trọng. Do thế, ở phần lớn các hợp tác xã, với 1 ngày công (10
điểm), cuối năm, xã viên chỉ nhận được từ hợp tác xã vài ba lạng thóc.
Thế mà sau 1 năm chỉ đạo, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và mô hình quản lý
mới, xã viên hợp tác xã Mỹ Thọ không thể ngờ là mình nhận được “2kg thóc
và 4 hào” cho 1 ngày công (10 điểm). Bốn hào ngày ấy lớn lắm, với giá 1
kg thóc mà hợp tác xã bán cho nhà nước trong mức nghĩa vụ là 3 hào,
vượt nghĩa vụ là 9 hào (10 hào là 1 đồng). Lương của cử nhân kinh tế mới
ra trường chỉ có 51 đồng, sau 24 tháng tập sự mới được nhận 60 đồng.
Lương khởi điểm của người lao động phổ thông là 27 đồng/ tháng. Ba chúng
tôi và anh Bằng, trưởng thôn Văn Phú, cùng vui vẻ đứng chụp một kiểu
ảnh trước cửa chùa Văn Phù để kỷ niệm “40 năm, gặp lại” (người bấm máy
là một ni cô trong chùa Văn Phú).
Từ trái qua phải: ông Phạm Huy Khảo, ông Khúc Đình Vạn, ông Bằng - Trưởng thôn, và tôi – Vũ Trọng Khải |
11/2013
Câu chuyện thứ hai
Cấy giăng dây, thẳng hàng
Hồi
ấy, một tiến bộ kỹ thuật trong canh tác lúa nước do Tiến sĩ Nông học
Lương Định Của khởi xướng và được Bộ Nông nghiệp chỉ đạo áp dụng rộng
rãi là cấy lúa thẳng hàng để có thể sử dụng cào cỏ sục bùn 64A. Muốn
vậy, các xã viên phải tập cấy trên sân trước và phải giăng dây thì mới
đảm bảo cấy thẳng hàng. Kỹ sư nông học Lê Thảo (1938 – 1976), tổ trưởng
tổ công tác, người dày dạn kinh nghiệm trong việc chỉ đạo sản xuất nông
nghiệp (tương tự như cán bộ khuyến nông 3 cùng của công ty Cổ phần Bảo
vệ Thực vật An Giang bây giờ) đứng ra tập huấn. Chị em xã viên là lực
lượng cấy lúa (và 3 đảm đang nữa), tuổi đời phổ biến là trên dưới 40,
đều có chồng, con, nhưng phần lớn “phòng không”, vì chồng họ đi bộ đội
hoặc công tác ở xa quê nhà. Sau khi nghe và xem kỹ sư Lê Thảo hướng dẫn,
cấy thị phạm, các chị xã viên thuộc loại “nạ dòng”, không chịu thực
tập, cứ túm 5 tụm 3 cười rúc rích. Kỹ sư Lê Thảo kiên nhẫn nhắc nhở
nhiều lần, nhưng chị em vẫn không nghe lời. Bỗng có một chị tuổi sồn
sồn, nói lớn: “Này ông kỹ sư ơi, chị em chúng tôi biết cấy lúa từ lúc
lông l… còn lấm tấm cơ. Việc gì bây giờ chúng tôi phải tập cấy lúa trên
sân cơ chứ?”. Tất cả chị em đều cười ầm sau lời nói đó. Tôi thì đỏ mặt,
vì lúc đó mới U30, chưa vợ. Chỉ có kỹ sư Lê Thảo là lớn tuổi, có vợ con,
với bề dày kinh nghiệm chỉ đạo, vẫn bình thản nói: “Hợp tác xã trả công
10 điểm cho buổi tập cấy, ai không nghe lời tôi, sẽ không được chấm
công”. Thế là các chị em nghe lời răm rắp. Âu cũng là cái sức mạnh của
hợp tác xã kiểu cũ, của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã
từng tồn tại khá dài trong lịch sử phát triển nông nghiệp nước ta. Vụ
Đông Xuân 1973-1974 thắng lợi lớn, một phần cũng nhờ kỹ thuật cấy thẳng
hàng và làm cỏ sục bùn bằng bằng cảo cỏ 64A. Vì thế, mỗi ngày công xã
viên hợp tác xã Mỹ Thọ mới nhận được 2kg thóc và 4 hào.
12/2013
Câu chuyện thứ ba
Nelson Mandela và Thánh Gióng
Theo
thông tin của các phương tiện truyền thông đại chúng, tôi được biết, có
ít nhất 60 nguyên thủ quốc gia đến Nam Phi để tiễn cựu Tổng thống
Nelson Mandala về nơi an nghỉ ở quê nhà. Đặc biệt, ba vị tổng thống Mĩ:
Tổng thống đương nhiệm Barack Obama và hai cựu tổng thống Bill Clinton
và G. Bush (con) cũng đi Nam Phi dự lễ tang cựu tổng thống Mandela. Dinh
Tổng thống Mĩ (Nhà Trắng) sẽ treo cờ rủ. Quốc tang cựu Tổng thống
Mandela ở Nam Phi sẽ bắt đầu từ 10/12 đến 16/12. Trưa 15/12, lễ an táng
sẽ diễn ra tại quê ông.
Sự kiên cường, dũng cảm
đấu tranh và trải qua gần ba thập niên tù đày của ông đương nhiên rất
đáng kính phục, nhưng nhiều chiến sĩ cách mạng trong lịch sử loài người
cũng đã từng kiên cường, dũng cảm như vậy, vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc mình, trong đó có rất nhiều người Việt Nam chúng ta. Nhưng theo tôi,
cái làm nên sự vĩ đại, đáng kính phục và ngưỡng mộ nhất đối với Nelson
Mandela là tinh thần tha thứ và hòa giải, không “tham quyền cố vị”, thực
sự vì sự phát triển phồn vinh của đất nước, của dân tộc. Điều đó ít ai
trên thế giới, nhất là những người lãnh đạo quốc gia, làm được. Chính
nhờ tinh thần đó mà sau khi xóa bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc
(apartheid), đất nước Nam Phi mới phát triển theo con đường dân chủ và
hội nhập với thế giới văn minh của nhân loại tiến bộ. (Lúc đầu một số
người da trắng Nam Phi bỏ xứ ra đi vì sợ bị trả thù. Nhưng phần đông
người da trắng ở lại, họ nắm huyết mạch kinh tế ở Nam Phi, biết kinh
doanh hơn người da đen bản địa. Nhờ đó kinh tế Nam Phi không bị khủng
hoảng mà vẫn phát triển). Tinh thần tha thứ, hòa giải dân tộc và hội
nhập vào thế giới văn minh của Nelson Mandela là điều mà dân tộc Việt
Nam cần học tập nhất. Sự hận thù dai dẵng, lấy oán trả oán đã trở thành
cách ứng xử khá phổ biến nếu không muốn nói là một nét văn hóa ứng xử
của dân tộc ta. Điển hình là chuyện cổ tích Tấm Cám. Cô Tấm “thảo hiền”
đã âm mưu giết cô Cám, rồi lấy xác làm mắm gửi về cho mẹ cô Cám ăn để
trả thù xưa. Thế mà có thời, người ta đưa chuyện Tấm Cám vào sách giáo
khoa tiểu học!?. Thử hỏi bây giờ, có ông bà hay cha mẹ nào dám kể chuyện
Tấm Cám cho cháu, con mình không? Trên thực tế lịch sử, tuy rằng người
Việt Nam đã được dạy là phải lấy ân báo oán, nhưng việc lấy oán trả oán
vẫn diễn ra phổ biến suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, làm chia rẽ dân
tộc, nhấn chìm đất nước trong lạc hậu, nghèo nàn và lạc lõng giữa nhân
loại đang phát triển theo xu hướng dân chủ. Hồi đầu năm 2011, tôi sang
Cuba với tư cách là chuyên gia kinh tế nông nghiệp, giúp Bộ Nông nghiệp
Cuba cải cách chính sách phát triển ngành lúa gạo, hướng đến mục tiêu tự
túc về gạo ăn cho khoảng 10 triệu dân. (Lúc đó, sản xuất lúa gạo của
Cuba mới chỉ đáp ứng được khoảng 1/3 nhu cầu). Trong chuyến đi điền dã ở
nông thôn Cuba, tôi có đến thăm một ông chủ trang trại gia đình. Thực
ra theo tôi nghĩ, ông là một nghệ sĩ nhiều hơn là một ông chủ trang
trại. Vì ông có một lò gốm mỹ thuật, hoạt động với mục đích truyền nghề
cho thế hệ trẻ, không vì mục đích lợi nhuận. Ông có một bức tranh tường
khá lớn, vẽ một con bò sữa có bầu vú teo tóp và mồm đeo một cái khóa to
tướng với cặp mắt nhìn đau đáu vào bó cỏ tươi trước mặt. Tôi khen bức
tranh có nhiều ý nghĩa. Ông cười thích thú và thế là cuộc nói chuyện trở
nên cởi mở. Ông nói rằng, ông ngưỡng mộ và khâm phục Nelson Mandela
nhất, hơn tất cả các chiến sĩ đấu tranh giải phóng dân tộc khác. Bởi vì,
sau khi giành được quyền lực, ông đã hòa giải dân tộc, tha thứ cho
những kẻ đã đưa ông vào tù 27 năm, để đất nước Nam Phi phát triển theo
con đường dân chủ, hội nhập với nhân loại văn minh và chỉ làm tổng thống
trong một nhiệm kỳ 5 năm, chứ không làm tổng thống suốt đời như nhiều
nhà lãnh đạo khác. Nhân đó, tôi kể cho ông nghe câu chuyện Thánh Gióng
của Việt Nam. Sau khi lãnh đạo dân tộc Việt Nam đánh đuổi giặc ngoại xâm
phương bắc, Thánh Gióng bay về trời, chứ không ở lại trần thế để làm
vua theo truyền thống cha truyền, con nối, như những nhà lãnh đạo dân
tộc khác. Ông chủ trang trại Cuba cười và nói hai nhân vật này giống
nhau vì đều là huyền thoại, nhưng khác nhau ở chỗ: ông Nelson Mandela là
con người thực, con người trần tục, trở thành huyền thoại, không chỉ
của nhân dân Nam Phi, mà còn của cả loài người tiến bộ; còn Thánh Gióng
là con người huyền thoại được người dân thêu dệt nên để thể hiện khát
vọng của mình. Tinh thần tha thứ, lấy ân trả oán, hòa giải để hòa hợp
dân tộc, hội nhập vào thế giới dân chủ và văn minh là con đường đúng đắn
nhất, cần thiết nhất cho dân tộc Việt Nam lúc này hơn lúc nào hết.
10/12/2013
(Ngày Nhân quyền Quốc tế)
V. T. K.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Câu chuyện thứ 4
40 năm gặp lại
Cảnh
đã khác xưa nhiều lắm. Người còn thì ít, mà người mất hay lưu tán thì
nhiều. Dọc đường từ Hà Nội đến huyện Bình Lục, tôi thấy nhiều khu công
nghiệp “xôi đỗ”, xen giữa cánh đồng lúa - màu, băm vụn nó và các kết cấu
hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nhà xây 2 – 3 tầng khá phổ biến,
thay thế cho những ngôi nhà nền đất lợp mái rạ khi xưa, nhưng kiểu dạng
kiến trúc thì thô kệch; đường làng bằng gạch đinh ngày xưa được thay
bằng đường xi măng thô rám. Xóm làng ngổn ngang xây cất chẳng theo một
qui hoạch kiến trúc nào. Anh Bằng, trưởng thôn Văn Phú (xã Mỹ Thọ, huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam) dẫn chúng tôi đến thăm nhà ông Khoa, phó chủ
nhiệm hợp tác xã Mỹ Thọ khi xưa, gần chùa Văn Phù. Ông Khoa mất đã lâu,
chỉ còn bà Khoagần 80 tuổi, sống một mình trong ngôi nhà xây 1 tầng quá
cũ kỹ, với một mảnh vườn tạp trước nhà. Cây trồng nhiều nhất là bưởi, có
cả giống bưởi Diễn nổi tiếng. Các con bà Khoa đã trưởng thành và ra
thành phố sinh sống, làm ăn. Cô con gái út, theo bà kể, là chủ một tiệm
buôn bán, thuê 4 nhân viên, ở TP. Vũng Tàu, mời bà về ở để chăm sóc,
nhưng bà bảo “thích ở một mình, tự do hơn, lại có quan hệ hàng xóm láng
giềng thân tình, theo nét văn hóa cổ truyền Việt Nam”. Lúc mới gặp, bà
Khoa hơi ngỡ ngàng, rồi cũng nhận ra tôi. Bà mừng lắm, hái bưởi mời
chúng tôi ăn và nhất định buộc tôi phải mang chục quả bưởi về làm quà.
Bà cùng chúng tôi xuống thăm ông Vũ Đình Lãi, là chủ nhiệm hợp tác xã Mỹ
Thọ thời chúng tôi ở đây công tác. Ông Lãi đã ngoài 80 tuổi, bị xuất
huyết não, mất trí nhớ gần như hoàn toàn. Nhưng rất may là hôm 27/10 là
ngày gỗ bố ông Lãi nên các con, cháu và em gái, em rể của ông về đầy đủ.
Anh con trưởng Vũ Đình Thắng, tuổi ngọ (1954), thượng tá Quân đội nhân
dân đã về hưu, sống ở Hà Nội, gặp chúng tôi, nghe kể về cái thời của ông
Lãi (cùng tổ công tác xây dựng hợp tác xã Mỹ Thọ trong những năm 70 của
thế kỷ 20), thì mới ngộ ra nhiều về cuộc đời “oanh liệt” của cha mình.
Anh mừng lắm.
Thời ấy, hợp tác xã Mỹ Thọ có 413
ha canh tác với 2. 938 nhân khẩu, 984 xã viên tham gia lao động cho hợp
tác xã. Hằng năm, hợp tác xã Mỹ Thọ làm ra khoảng 1. 000 tấn thóc. Vụ
Đông Xuân 1973 – 1974 nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật với 60% diện tích cấy
giống lúa mới, thực hiện quy trình canh tác thâm canh tiên tiến và cung
cách quản lý mới, sản lượng thóc đạt 1. 450 tấn, bằng 137% sản lượng
lúa cả năm 1. 970, là năm được mùa lớn nhất. Cung cách quản lí mới được
áp dụng bằng một hệ thống qui chế trả lời được 6 câu hỏi cho từng vị trí
công tác, từ chủ nhiệm đến đội trưởng và từng xã viên: Làm gì? Ai làm?
Làm thế nào?Làm ở đâu?Làm lúc nào?Làm tốt hoặc không tốt thì sao? Nhờ
vậy, trong 3 năm áp dụng hệ thống quản lý mới và tiến bộ kỹ thuật, hợp
tác xã Mỹ Thọ đã được nhà nước tặng thưởng 2 huân chương lao động vào
năm 1975 và 1976. Bây giờ Ông Lãi ngồi yên tặng, không nhớ gì, không
nhận ra tôi, nhưng con cháu ông sum vầy chăm sóc ông tận tình. Và hôm
nay, con cháu ông được nghe kể về thời vàng son của ông và hợp tác xã Mỹ
Thọ trong những năm 70 của thế kỷ 20.
Rời hợp
tác xã Mỹ Thọ, chúng tôi đến thành phố Nam Định để gặp ông Nguyễn Trung
Kiểu, người được Thường vụ Tỉnh ủy Nam Hà và Bí thư Phan Điền phân công
chuyên trách trực tiếp chỉ đạo công tác cải tiến quản lý và áp dụng tiến
bộ kỹ thuật ở hợp tác xã Mỹ Thọ, cùng với 5 hợp tác xã thuộc khu B của
huyện Bình Lục thời đó. Ông Kiểuquê ở làng (thôn) Văn Phú, xã Mỹ Thọ, là
tỉnh ủy viên, Bí thư huyện ủy Bình Lục. Từ tháng 8 năm 1973, ông được
miễn nhiệm chức Bí thư Huyện ủy Bình Lục để chuyên trách chỉ đạo xây
dựng điển hình hợp tác xã Mỹ Thọ và khu B, của huyện Bình Lục. Để giúp
ông Kiểu, một tổ công tác được thành lập. Bí thưtỉnh ủy Phan Điền đề
nghị Bộ Nông nghiệp cử một nhóm kỹ sư về hợp tác xã Mỹ Thọ để giúp tỉnh
và ông Kiểu trực tiếp chỉ đạo điển hình cải tiến quản lý và áp dụng tiến
bộ kỹ thuật. Ông Trần Quang, quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Cây trồng
và ông Nguyễn Duy Hiền quyền Vụ trưởng Vụ Kế hoạch củaỦy ban Nông nghiệp
Trung ương lúc đó, sau này là Bộ Nông nghiệp, đã cử 4 chúng tôi vào tổ
công tác này, bao gồm: Kỹ sư trồng trọt Lê Thảo (1938 – 1976), tốt
nghiệp khóa 2 (1961), Đại học Nông nghiệp Hà Nội, người dày dạn “chiến
trường” chỉ đạo áp dụng tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp là tổ trưởng, tôi
là cử nhân kinh tế nông nghiệp, tốt nghiệp khóa V (1963 – 1967) của
trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, phụ trách xây dựng và chỉ đạo hệ
thống quản lý mới, cử nhân kinh tế Nguyễn Văn Kình tốt nghiệp khóa 9
(1964 – 1968) của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, phụ trách việc lập
và thực hiện kế hoạch sản xuất – kinh doanh kiểu mới trong hợp tác xã,
Đặng Phán cử nhân kinh tế, chuyên ngành Kế toán, tốt nghiệp trường Đại
học Tài chính Hà Nội năm 1970, phụ trách xây dựng và chỉ đạo áp dụng hệ
thống kế toán – thống kê mới trong hợp tác xã. Cả 4 chúng tôi đều không
phải là đảng viên, nên phải dấu huyện và xã để có uy trong chỉ đạo. Thời
đó, những vấn đề quản lý và chính sách nông nghiệp nếu không phải đảng
viên thì rất khó làm việc, không được dự các cuộc họp thường vụ đảng ủy
huyện, xã bàn về quản lý hợp tác xã. Để giúp sức cho tổ công tác, giáo
sư Bùi Huy Đáp, Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp, còn cử Phó tiến
sĩ Tiềm chuyên gia nông hóa – thổ nhưỡng, giúp việc phân tích đất và xác
định cơ cấu, số lượng phân bón các loại, đặc biệt là phân lân cho đất
vùng chiêm trũng với giống lúa IR5; hai giảng viên Ngọc và Uyển của
trường Nghiệp vụ Kinh tế Xuân Mai, thuộc Ủy ban Nông nghiệp trung ương
(sau này là Bộ Nông nghiệp), giúp xây dựng hệ thống kế toán – thống kê
mới. Khi có dịch bệnh gia súc, bác sỹ thú y Lăng của Viện Thú y cũng
xuống giúp chỉ đạo phòng chống bệnh trâu, bò, lợn. Ngoài ra, huyện còn
cử thêm 1 kỹ sư chăn nuôi và 1 kỹ sư thủy sản tham gia tổ công tác. Tổ
công tác đặt dưới sự chỉ đạo của ông Kiểu và Bí thưư Huyện ủy Bình Lục
Đặng Văn Ngự.
Đến thành phố Nam Định tôi hỏi
thăm khu tập thể của cán bộ tỉnh ủy, lần mò chừng 30 phút thì tìm ra nhà
ông Kiểu, nơi mà năm 1982 trước khi chuyển vào Nam công tác tôi đã đến
chào từ biệt ông Phan Điền và ông Nguyễn Trung Kiểu. Sau khi kết thúc
chỉ đạo khu B và hợp tác xã Mỹ Thọ, ông Kiểu được bầu vào Thường vụ Tỉnh
ủy, Trưởng ban Kinh tế của Tỉnh ủy Nam Hà, sau này là Hà Nam Ninh.
Người ta nói vui rằng, trong 4 chân ghế thường vụ của ông Kiểu có 3 chân
thuộc về hợp tác xã Mỹ Thọ và khu B, Bình Lục. Trong khu B, hợp tác xã
Mỹ Thọ là điểm. Kết quả chỉ đạo hợp tác xã Mỹ Thọ đã được nhân rộng ra 5
hợp tác xã còn lại thuộc khu B. Từ thực tiễn cải tiến quản lý hợp tác
xã ở khu B, Bình Lục, tỉnh Nam Hà sẽ chỉ đạo áp dụng mô hình quản lý mới
cho các hợp tác xã trong tỉnh. Năm 1976, tổng kết 3 năm chỉ đạo hợp tác
xã Mỹ Thọ, tổ công tác đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, các thành viên
của tổ lại trở về cơ quan của mình. Đặc biệt, năm 1982, tôi đã bảo vệ
thành công luận án Phó tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
với đề tài: “Quan điểm hệ thống đối với một mô hình cụ thể về tổ chức -
quản lý sản xuất -kinh doanh trong hợp tác xã nông nghiệp, qua thực tiễn
ở hợp tác xã Mỹ Thọ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam Ninh” do giáo sư Mai
Hữu Khuê, Hiệu trưởng và Phó tiến sĩ Hoàng Khoan, Trưởng khoa Toán Kinh
tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, hướng dẫn.
12/2013
Câu chuyện thứ 5
Tôi đã “tìm ra châu Mỹ” như thế nào
Đầu
thập kỷ 70 của thế kỷ 20, để xây dựng nền nông nghiệp sản xuất lớn
XHCN, các Bộ nông nghiệp, Bộ Nông trường Quốc doanh, Tổng cục Lâm nghiệp
và Tổng cục Thủy sản (2 tổng cục này trực thuộc chính phủ) được sáp
nhập thành Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương, do ông Hoàng Anh, bí thư Trung
ương Đảng, phó Thủ tướng Chính phủ, làm chủ nhiệm; hai Bộ trưởng Nguyễn
Văn Lộc, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Nghiêm Xuân Yêm, Bộ trưởng bộ Nông
trường Quốc doanh, đều là thành viên chính phủ, làm phó chủ nhiệm. Còn
Bộ Lương thực do ông Ngô Minh Loan làm Bộ trưởng không chịu sáp nhập,
(sic!). 12 ông thứ trưởng và tổng cục trưởng của các cơ quan trên trở
thành ủy viên Ủy ban Nông nghiệp Trung ương, hàm thứ trưởng. (Sau đó vài
năm, người ta lại tái lập Bộ Nông Nghiệp, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thủy sản,
để rồi ít năm sau lại nhập các bộ này với Bộ Thủy lợi thành Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày nay. Vì thế dân gian đã có câu: “Con
kiến mà leo cành đa, ủy ban nông nghiệp tách ra nhập vào; con kiến mà
leo cành đào, ủy ban nông nghiệp nhập vào, tách ra”). Bí thư thứ nhất
ban chấp hành trung ương đảng Lê Duẩn chỉ thị cho ông Hoàng Anh phải thí
điểm cơ giới hóa nông nghiệp để đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Một
tổ công tác được thành lập, do Ủy viên Ủy ban Nông nghiệp Trung ương
Hoàng Bá Sơn trực tiếp phụ trách, được cử xuống huyện Hưng Hà (do sáp
nhập 2 huyện Hưng Nhân và Duyên Hà) thuộc tỉnh Thái Bình, để triển khai
chủ trương này. Tôi được cử tham gia tổ công tác này, phụ trách các vấn
đề kinh tế của việc cơ giới hóa nông nghiệp, còn các thành viên khác đều
là các chuyên gia kỹ thuật cơ khí nông nghiệp và nông học. Ông Lê Kiểm,
Tổng cục phó Tổng cục Cơ khí Nông nghiệp, thuộc Ủy ban Nông nghiệp
Trung ương, trực tiếp chỉ đạo tổ công tác.
Thời
kỳ đó, ruộng đất thuộc sở hữu tập thể của các hợp tác xã nông nghiệp,
đã được xây dựng kết cấu hạ tầng thủy lợi, giao thông nội đồng, khá
thuận lợi cho việc sử dụng máy móc trong các khâu canh tác. Trạm máy kéo
thuộc sở hữu nhà nước, được trang bị các máy kéo lớn có công suất từ
25CV trở lên, với các máy công tác chủ yếu chỉ để làm đất. hợp tác xã
chỉ được sở hữu các máy kéo nhỏ, phổ biến là loại máy có công suất 12
CV, như máy kéo Đông Phong của Trung Quốc, máy Công Nông của Việt Nam,
bắt chước (copy) loại máy kéo Kubota của Nhật Bản. Loại máy này ở Việt
Nam được gọi là máy kéo tay, vì người lái không ngồi trên máy mà đi bộ
sau máy và 2 tay cầm 2 cái càng điều khiểu. Đi theo máy kéo này, thường
gồm các loại máy công tác, như phay đất, cấy lúa, bơm nước, tuốt lúa,
xay xát. Nó rất phù hợp với nền nông nghiệp qui mô nhỏ, đồng ruộng có
kết cấu hạ tầng về giao thông, thủy lợi như ở miền Bắc lúc đó. Nhưng,
dùng máy kéo này năng suất thấp hơn máy kéo lớn, nên không thể gọi là
“sản xuất lớn XHCN”. Vì thế, hợp tác xã có nhu cầu, nhưng lại không được
trang bị nhiều loại máy này. Máy kéo lớn do các trạm máy kéo quốc doanh
quản lý, biểu tượng cho lực lượng sản xuất tiên tiến của giai cấp công
nhân. Hợp tác xã phải thuê các dịch vụ canh tác của trạm ruộng kéo với
giá rẻ, thể hiện mối liên minh công – nông, giai cấp công nhân giúp giai
cấp nông dân đi lên sản xuất lớn XHCN, nên phát sinh quan hệ “xin –
cho”. Trạm máy kéo được trang bị phần lớn loại MTZ có công suất 50 – 52
CV, do liên xô sản xuất, bánh hơi, sơn màu đỏ. Mỗi khi máy kéo của trạm
máy kéo quốc doanh về cày đất cho hợp tác xã, ngoài việc trả phí chính
thức, hợp tác xã còn phải nuôi công nhân lái máy rất tốn kém, nhiêu khê,
nếu không muốn lỡ thời vụ. Do đó, ở nông thôn, người ta vẫn nói “Trâu
đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà”. Các hợp tác xã thường “ớn” (không thích) thuê
dịch vụ của trạm máy kéo quốc doanh, vẫn chủ yếu sử dụng sức kéo trâu
bò và các máy tĩnh tại như suốt lúa, bơm nước.
Tổ
công tác có nhiệm vụ chỉ đạo áp dụng cơ giới trong sản xuất nông nghiệp
bằng máy kéo lớn do các trạm máy kéo quốc doanh quản lý, tại các hợp
tác xã của huyện Hưng Hà. Tuy lúc đó, đàn ông trai tráng đều đi bộ đội
hoặc công tác xa, việc đồng áng đành phó mặc cho phụ nữ “3 đảm đang”,
nhưng các hợp tác xã không thiết tha với cơ giới hóa. Một phần vì các
loại máy lớn chưa thật sự phù hợp với điều kiện canh tác của các hợp tác
xã xét trên góc độ kỹ thuật, phần lớn các hợp tác xã không muốn sử dụng
máy móc vì lý do kinh tế. Sau mấy tháng nghiên cứu, điều tra, tôi mới
ngộ ra rằng:
- Thứ nhất: máy kéo lớn chủ yếu chỉ
mới thực hiện khâu làm đất trên những cánh đồng lớn, có đường giao
thông nội đồng thuận lợi, làm giảm được 90 ngày công lao động/ 1 ha gieo
trồng lúa, so với làm đất bằng trâu, nên chưa thể giảm số người lao
động nông nghiệp (canh tác lúa). Tính hệ thống của máy móc nông nghiệp
chưa được thiết lập để thực hiện đồng bộ các khâu canh tác, năng suất
lao động giữa các khâu canh tác sử dụng máy móc công suất lớn, nhỏ khác
nhau, kết hợp với lao động thủ công ở những khâu canh tác còn lại, nên
chúng không thích với nhau. Do vậy, việc cơ giới hóa nông nghiệp chỉ có
thể làm giảm công đầu tư trên 1 hecta gieo trồng, mà không làm giảm
người lao động cần có để đảm trách 1 hecta gieo trồng. Nói cách khác, cơ
giới hóa nông nghiệp chưa làm giảm sức lao động nông nghiệp.
-
Thứ 2: 90 ngày công được giải phóng khỏi công việc đồng áng phải được
đưa vào việc làm khác, tạo được một khoản thu nhập, chí ít cũng bằng chi
phí dịch vụ thuê máy làm đất của trạm máy kéo quốc doanh. Trên thực tế,
90 ngày công được giải phóng nhưng nông dân không có việc gì để làm,
nên đành chơi không, nhìn máy kéo chạy trên đồng. Điều đó làm giảm thu
nhập của hợp tác xã và xã viên. Hơn nữa thời đó, tuy phần lớn phụ nữ đảm
đang việc đồng áng, nhưng vẫn thiếu việc làm. Do đó, các nhà nông học
phải nghĩ cách để gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp bằng lao động
thủ công. Tất cả các hợp tác xã đều nuôi bèo hoa dâu trên vụ lúa chiêm –
xuân, trồng điền thanh “mô” trên ruộng lúa mùa (đắp mô đất trên ruộng
lúa nước để trồng điền thanh là loại cây trồng cạn). Bèo hoa dâu và điền
thanh là 2 loại cây phân xanh cung cấp đạm cho lúa, nhưng phải đầu tư
hàng trăm công lao động trên 1 ha canh tác lúa. Hơn nữa, người ta còn kì
công, lấy phân đạm hóa học, trộn với đất sét thành những viên nhỏ, dúi
vào từng gốc lúa để tiết kiệm phân bón, tăng năng suất lúa và gia tăng
thu nhập.
Vì thế, các hợp tác xã không muốn áp
dụng cơ giới hóa nông nghiệp. Tôi phải làm 1 bản báo cáo dài với số liệu
điều tra tỉ mỉ, phân tích kinh tế với hơn 30. 000 từ để lý giải vì sao
hợp tác xã không muốn sử dụng máy móc lớn, hiện đại của Liên Xô. Báo cáo
này đã được đăng trên tạo chí “Nghiên cứu kinh tế” trong 2 số tháng 10
và tháng 12 năm 1971. Thế nhưng người ta vẫn tiến hành cơ giới hóa nông
nghiệp để tiến lên “sản xuất lớn XHCN” bằng mọi giá. Thất bại là kết quả
đương nhiên, nhưng tôi lại “tự hào” là mình đã tìm ra “một lý thuyết
kinh tế mới” trong việc cơ giới hóa nông nghiệp, như Christopher
Columbus tìm ra châu Mỹ cách đây hơn 5 thế kỷ (1498). Mãi sau khi giải
phóng miền Nam, tình cờ đọc một cuốn sách vỡ lòng về kinh tế học (nay
không nhớ tên cuốn sách và tên tác giả), tôi mới ngộ ra rằng, trên thế
giới người ta đã biết điều đó cả trăm năm nay rồi và đã có thuật ngữ
chuyên môn và lý thuyết để giải thích vì sao hợp tác xã ở miền Bắc lúc
đó không muốn cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Đó là khái niệm và lý
thuyết về “chi phí cơ hội”. Thật là thảm hại cho cái “sự học” và “nghiên
cứu khoa học” của tôi trong nhưng năm 70 của thế kỷ 20. Còn người nông
dân Việt Nam không hiểu và cũng không cần hiểu gì về kinh tế học, nhưng
họ đã hành xử rất đúng với lý thuyết kinh tế học nói chung và lý thuyết
chi phí cơ hội nói riêng. Tôi đã “tìm ra châu Mỹ” trong kinh tế học nông
nghiệp XHCN như thế đấy (sic).
12/2013
Câu chuyện thứ 6
Vui, buồn chuyện chỉ đạo cải tiến quản lý hợp tác xã Mỹ Thọ
Trong
những năm 60 và 70 của thế kỷ 20, các bộ chuyên ngành chỉ có trách
nhiệm quản lý nhà nước về kỹ thuật sản xuất. Các ban của đảng chịu trách
nhiệm nghiên cứu đề xuất với Ban bí thư, Bộ Chính trị, hay Ban chấp
hành TW Đảng về đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, và
quản lý các xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã, rồi trực tiếp chỉ đạo thực
hiện đường lối, chính sách phát triển, quản lý xí nghiệp quốc doanh và
hợp tác xã. Trong nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp phụ trách nghiên cứu, chỉ
đạo kỹ thuật sản xuất, “nước, phân, cần, giống”. Ban Nông nghiệp TW Đảng
(lúc đầu gọi là Ban Công tác Nông thôn) phụ trách nghiên cứu và chỉ đạo
thực hiện đường lối, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, quản
lý nông, lâm trường quốc doanh, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Do
vậy, các cán bộ của các ban đảng các cấp ở TW và tỉnh phải là đảng viên.
Các hợp tác xã nông nghiệp trong những năm 60,
70 của thế kỷ 20 đều lâm vào tình trạng quản lý yếu kém, 1 ngày công
chỉ được trả vài ba lạng thóc, lúa chín ngoài đồng mà xã viên không muốn
đi gặt, tình trạng “cha chung không ai khóc”, “phóng công rong điểm”
diễn ra phổ biến. Dân gian đã biến khẩu hiệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“mỗi người làm việc bằng 2, vì miền Nam ruột thịt”, thành câu “mỗi người
làm việc bằng 2, để cho chủ nhiệm, (hợp tác xã) mua đài (Radio) mua xe”
hay “xây nhà, xây sân”. Hồi đó, cái xe đạp, radio, cái nhà xây (cấp 4),
sân lát gạch là cả một gia tài, không mấy ai dám ước mơ. Dân gian còn
kể rằng, ở hợp tác xã nọ, xã viên tố cáo chủ nhiệm hợp tác xã tham ô,
nhưng khi đại hội, xã viên vẫn bầu lại ông chủ nhiệm cũ. Cấp trên hỏi vì
sao, họ trả lời: bầu người khác, người ta lại xây nhà, mua xe, thì chết
xã viên à? Còn ông chủ nhiệm cũ đã có nhà, có sân, có xe, có đài rồi,
chắc không tham ô nhiều nữa. Cho nên, từ sau khi hoàn thành hợp tác hóa
nông nghiệp năm 1960, các đợt vận động nâng cao hiệu quả quản lý hợp tác
xã liên tục diễn ra mà không đạt hiệu quả mong muốn. Như cuộc vận động
“đưa điều lệ vào hợp tác xã” (Điều lệ tóm tắt do Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết, với khẩu hiệu: “Hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”), “cải tiến
quản lý hợp tác xã” lần 1 rồi lần 2… Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Trưởng
ban Công tác Nông thôn của Đảng lúc đó, phát hiện điển hình tiên tiến là
hợp tác xã Đại Phong (huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình), đã phát động
phong trào thi đua “Học tập, đuổi kịp và vượt hợp tác xã Đại Phong”. Vì
thế những năm cuối của thập kỷ 60 của thế kỷ 20, ông Kim Ngọc, bí thư
tỉnh ủy Vĩnh Phúc mới làm ra nghị quyết 68 của thường vụ tỉnh ủy về
“quản lý lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” mà thực chất là khoán
hộ, để rồi bị ông Trường Chinh, ủy viên Bộ Chính trị TW Đảng, phụ trách
lý luận, phê phán gay gắt, quyết liệt bằng bài viết đăng liên tục trên 2
số báo Nhân ân, mặc dù thực tiễn khoán hộ ở Vĩnh Phúc đã mang lại hiệu
quả rõ rệt. Điều này đã được phản ánh khá chân thật qua bộ phim truyền
hình “Bí thư Tỉnh ủy”.
Đầu những năm 70 của thế
kỷ 20, trăn trở với tình hình hợp tác xã, ông Phan Điền, bí thư tỉnh ủy
Nam Hà, chủ trương chỉ đạo thí điểm cải cách quản lý, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật ở hợp tác xã Mỹ Thọ và Khu B của huyện Bình Lục. Tháng 8 năm
1973, tổ công tác của chúng tôi gồm 4 người: kỹ sư nông học Lê Thảo, tổ
trưởng, cử nhân kinh tế nông nghiệp Vũ Trọng Khải, Nguyễn Văn Kình, cử
nhân kế toán Đặng Phán, được thành lập và về “nằm vùng” ở hợp tác xã Mỹ
Thọ “để giúp tỉnh Nam Hà chỉ đạo áp dụng mô hình quản lý mới trong hợp
tác xã nông nghiệp”. Thực ra, tổ công tác này được thành lập ngoài chủ
trương của Bộ Nông nghiệp. Nó được thành lập do mối quan hệ riêng giữa
ông Phan Điền, Bí thư Tỉnh ủy Nam Hà và ông Nguyễn Duy Hiền, quyền Vụ
trưởng Vụ Kế hoạch (thủ trưởng trực tiếp của tôi và anh Kình), ông Trần
Quang (thủ trưởng của kỹ sư Lê Thảo), quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Cây
trồng của Bộ Nông nghiệp (lúc đó gọi là Ủy ban Nông nghiệp Trung ương).
Vì thế, tổ công tác thường được mời dự các cuộc họp của ban thường vụ
huyện ủy Bình Lục khi bàn về việc chỉ đạo hợp tác xã Mỹ Thọ và 5 hợp tác
xã ở khu B Bình Lục. Ai cũng nghĩ chúng tôi, những kỹ sư được Bộ Nông
nghiệp cử về chỉ đạo cải tiến quản lý hợp tác xã, đương nhiên phải là
đảng viên đáng tin cậy về lập trường, tư tưởng, quan điểm… Giúp Bí thư
Tỉnh ủy Phan Điền là ông ông Nguyên Trung Kiểu, Tỉnh ủy viên, quê ở thôn
Văn Phú, xã Mỹ Thọ, trực tiếp cùng thường vụ huyện Bình Lục, với sự tư
vấn của tổ công tác, chỉ đạo hợp tác xã Mỹ Thọ và cả 5 hợp tác xã ở khu B
Bình Lục. Thực tế, do tin tưởng vào tổ công tác của Bộ Nông nghiệp với 4
kỹ sư “đảng viên trung kiên”, nên các kiến nghị của tổ đều được tỉnh và
huyên chấp nhận, còn chỉ đạo hợp tác xã Mỹ Thọ thực thì, hầu như do tổ
công tác đảm trách. Khi gặp những vướng mắc, cần đến huyện, tỉnh tháo
gỡ, tổ công tác báo cáo trực tiếp với ông Kiểu và ông Ngự (Bí thư Huyện
ủy Bình Lục), và được giải quyết ngay. Ví dụ như khi thấy ông Cát Bí thư
Đảng ủy xã Mỹ Thọ có vẻ không tán thành với mô hình quản lý mới, tổ
công tác báo cáo, lập tức Bí thư Huyện ủy ra quyết định cho ông Cát đi
học trường đảng của tỉnh trong 10 tháng. Khi ông ta trở về, thì mọi sự
đã “đâu vào đấy”. Ông ta bị vô hiệu hóa bằng các “chiêu” rất “truyền
thống” của đảng (!).
Sau hơn 1 năm chỉ đạo, hợp
tác xã Mỹ Thọ đã nổi tiếng, được thưởng huân chương lao động, vì bán
thóc vượt nghĩa vụ cho nhà nước 100 %. Ông Nguyễn Chương, Ủy viên Ủy ban
Nông nghiệp Trung ương (Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp), trên đường đi công
tác, ghé qua huyện Bình Lục. Sau khi nghe ông Bí thư Huyện ủy Đặng Văn
Ngự và kỹ sư Lê Thảo, tổ trưởng tổ công tác, báo cáo, ông Nguyễn Chương
khen đôi lời và kết luận “đề nghị huyện ủy Bình Lục kết nạp 4 kỹ sư của
tổ công tác vào đảng”, trước sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên của ông Kiểu và
của cả ban thường vụ huyện ủy Bình Lục. Thế là “bể mánh” (theo cách gọi
của dân Nam bộ). Cả 4 chúng tôi lo lắng, không hiểu tỉnh và huyện còn
tin tưởng chúng tôi như trước hay không. Sau mấy phút lặng yên, cuộc họp
giải tán để dự bữa cơm của huyện ủy chiêu đãi ông Nguyễn Chương. Không
hiểu các vị lãnh đạo địa phương nghĩ gì về chúng tôi. Chúng tôi vội báo
cáo chuyện này với thủ trưởng Trần Quang (quyền Tổng cục Trưởng Tổng cục
Cây trồng). Rất may là sau hơn 1 năm chỉ đạo thành công, nên lãnh đạo
địa phương vẫn hoàn toàn tin tưởng vào tổ công tác. Ông Trần Quang có kể
lại với chúng tôi là: ông Kiểu và ông Ngự có thắc mắc, hỏi ông Trần
Quang, vì sao chúng tôi không phải là đảng viên. Ông Trần Quang đã trả
lời: “Chính vì chúng nó không phải là đảng viên nên mới làm được như
vậy”! (ngụ ý là chúng tôi không bị vòng “kim cô” bóp nghẹt tư duy sáng
tạo). Tháng 10 năm 1982, trước khi chuyển vào Nam công tác, tôi đã đến
chào từ biệt ông Phan Điền và ông Nguyễn Trung Kiểu tại khu tập thể của
cán bộ tỉnh ủy ở thành phố Nam Định. Hàn huyên hồi lâu, đủ mọi chuyện,
rồi vẫn xoay quanh những trăn trở về hợp tác xã nông nghiệp, vì sao
không nhân được điển hình hợp tác xã Mỹ Thọ ra diện rộng… Khi tiễn tôi
ra cổng, ông Phan Điền mới hỏi tôi: “Cậu có phải là con Vũ Hồng Khanh
không?” Tôi trả lời “Nếu cháu là con ông Vũ Hồng Khanh thì giờ này chắc ỡ
Mỹ hoặc đi tù, chứ sao có thể làm việc như chú đã thấy”. “Thế mà lúc
cậu tham gia chỉ đạo hợp tác xã Mỹ Thọ, người ta nói với tôi: cậu là con
Vũ Hồng Khanh, không thể sử dụng được”. Ông Phan Điền đã bộc bạch như
vậy với tôi lúc chia tay. Không ngờ, đó cũng là lần cuối cùng tôi gặp và
tâm sự với ông.
Thế mới biết tầm và tâm của cụ
Phan Điền hơn hẳn mấy cái đầu của những đồng chí, đồng đội của ông lúc
đó. Cụ thật sâu sắc và kiên quyết thực hiện ý đồ của mình, không để tâm
đến những lời thị phi của người đời.
(Tôi còn nói rõ thêm về gia thế của mình, ông Phan Điền bảo có biết và quý trọng ba tôi).
Tất niên 2013
V. T. K.
Tác giả trực tiếp gửi cho BViệt Nam
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 09:34
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2014/01/nhung-cau-chuyen-xua.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001