Vấn đề sở hữu đất tại Việt Nam và cưỡng chiếm đất trong một nước độc đảng
Land Ownership in Vietnam and Land Seizure in One-party State
Vũ Quốc Ngữ (5e Forum Mondial des Droits de l’Homme)
Trần Huê chuyển dịch
03/01/2014 – Trong thời gian qua đã có liên tục nhiều tin tức về việc dân oan mất đất biểu tình ở Hà
Nội, ở Sài Gòn đòi công lý, đòi ruộng đất (Diễn Đàn Việt Nam 21 đã
loan tin trong mục Nhân quyền). Đây là một trong những vấn đề nhức nhối
của nước Việt Nam đầu thế kỷ 21, một vấn đề lẽ ra không còn được phép
tồn tại, nhưng ai quan tâm đến thời sự luôn bắt gặp hình ảnh những đoàn
dân oan kéo nhau đi đòi quyền lợi bị đánh cắp.
Đảng
CS độc quyền cai trị bỏ mặc cho nông dân bị cướp đất, đẩy họ ra đường
sống chết mặc bây, đất nông dân bị chiếm rồi quy hoạch thành khu kinh tế
này, khu du lịch nọ, dự án nhà ở cao cấp kia, và cả những cánh đồng
golf để các quan chức đại gia đi đánh golf trước khi đi tắm bùn v.v. …
Theo
thời gian Việt Nam càng ngày càng có rất nhiều quan chức và đại gia tỷ
phú với dinh thự nguy nga mà người dân liệt họ vào các “nhóm lợi ích”
trong khi con số dân oan mất đất nguời cày mất ruộng không giảm mà tăng.
Các “phòng tiếp dân” cũng được dựng lên nhan nhản như một sân khấu bi
hài kịch, nơi dân oan chỉ được tụ tập kêu gào khiếu nại chốc lát ở ngoài
cửa, còn quan chức vẫn tiếp tục bưng mắt! Chính vì thế mà “Tâm lý thù
ghét người giàu và giới quan chức cai trị ngày càng ăn sâu vào não trạng
của lớp nông dân mất đất, bị nghèo hóa và bị đẩy vào cảnh bần cùng” như
nhà bỏ đảng Phạm Chí Dũng nhận định.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bản
dịch tiếng Việt bài của Vũ Quốc Ngữ (Hà Nội) trình bày những sự kiện
tiêu biểu về tình trạng cưỡng chiếm đất đai ở Việt Nam ngày nay, nguyên
bản Anh ngữ là bài tham luận tại Diễn đàn Nhân quyền Thế giới kỳ 5 (*) tại Pháp vào tháng 5/2013. Hình ảnh do DĐVN21 thêm vào mà trong nguyên bản không có.
Diễn Đàn Việt Nam 21
Diễn Đàn Việt Nam 21
—-
Nhà của
tôi cũng là lâu đài của tôi. Tại các nước chấp nhận và tôn trọng nền
pháp trị thì bất kể người đó là nhân viên chính quyền hay không, nếu ai
làm chủ một bất động sản, người đó có quyền làm chủ và trọn quyền tùy
tiện sử dụng mảnh đất đó cho bất cứ một mục đích nào.
Tuy
nhiên, ở Việt Nam tình trạng hoàn toàn khác hẳn. Trong một nước cộng sản
tất cả đất đai đều thuộc về nhà nước, và người dân chỉ được thuê sử
dụng có hạn kỳ để canh tác ở cấp hộ. Khi kế hoạch của một quan chức cho
khu đất đó thay đổi thì yêu cầu của người công dân về quyền sử dụng mảnh
đất ấy có thể trở thành vô nghĩa trong khoảnh khắc.
Sở hữu đất đai ở Việt Nam
Việt
Nam trở thành quốc gia độc lập vào năm 1945 sau khi nhân dân nổi dậy
chống lại sự chiếm đóng hai tròng của Pháp-Nhật. Là một quốc gia mới
thành lập VN phải lao vào trận chiến chống Pháp để giành độc lập, cuộc
chiến kết liễu năm 1954 với sự chia đôi đất nước. Miền Bắc dưới sự cai
trị của cộng sản có Trung quốc hậu thuẫn trong khi miền Nam theo chế độ
cộng hòa và theo Tây phương.
Ðất
nước được thống nhất năm 1975 sau khi cộng sản ở miền Bắc dưới sự hổ trợ
kinh tế và quân sự của Liên xô và Trung quốc đánh chiếm Việt Nam Cộng
Hòa được Hoa Kỳ và các nước đồng minh viện trợ.
Trở về
năm 1946, Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử đầu tiên và bầu ra một quốc hội
đa đảng. Vài tháng sau đó, quốc hội cho ra đời bản hiến pháp đầu tiên
của đất nước mà trong đó không đề cập gì đến vấn đề sở hữu đất đai.
Sau khi
nắm quyền ở miền Bắc, người cộng sản dựng lên nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa và đưa ra một hiến pháp mới gọi là Hiến Pháp 1960 khẳng định
tất cả đất vô chủ đều thuộc về nhà nước.
Từ khi
thống nhất năm 1975 Việt Nam đã thay đổi hiến pháp hai lần. Bản Hiến
Pháp 1980 và bản Hiến Pháp sửa đổi năm 1992 thay đổi sâu rộng quyền sở
hữu ruộng đất – trao tất cả đất đai ở Việt Nam vào tay nhà nước và chỉ
cho nhân dân quyền sử dụng đất.
Trong
bản dự thảo hiến pháp đang thảo luận và dự kiến thông qua vào cuối năm
2013 chính quyền cộng sản cố giữ nguyên quyền sở hữu đất đai như hiến
pháp 1992 đã quy định.
Theo
luật đất đai hiện nay chính quyền có thể chiếm thu đất để dùng cho các
mục tiêu quốc phòng và an ninh quốc gia cũng như để phát triển kinh tế
xã hội. Ðiều này cho phép nhà cầm quyền ở nhiều tỉnh và thành phố đuổi
dân ra khỏi đất họ đang canh tác hoặc ở và giao khu đất đươc giải tỏa
cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện các dự án gọi là
phát triển ở địa phương.
Tịch thu đất ở Việt Nam ngày nay
Chiến dịch cưỡng chiếm
đất lớn nhất xảy ra trong những năm 1954-56 sau khi CSVN nắm chính
quyền ở Miền Bắc và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Cộng
sản VN thực hiện chính sách cải cách ruộng đất để khuyến khích người
nghèo ủng hộ chế độ xã hội chủ nghĩa của họ và chuẩn bị cuộc xâm chiếm
miền Nam. Duới sự giám thị của cố vấn Trung quốc CSVN đã mở một chiến
dịch đấu tố tàn bạo, tịch thu ruộng đất của địa chủ để phân chia cho dân
làng nghèo. Nhiều phú hào bị buộc tội đã bóc lột nông dân trong làng và
làm Việt gian cho Pháp. Hằng chục ngàn người bị kết án và xử tử trong
khi những người khác bị đánh đập tàn bạo. Tất cả tài sản của họ, kể cả
ruộng đất, bị tịch thu và giao cho nông dân qua các vụ xử án dàn dựng
bởi cán bộ nhà nước chưa từng đươc đào tạo gì về các cơ cấu pháp luật.
Trong các vụ đấu tố, nhiều địa chủ từng làm ăn chăm chỉ đã bị thân nhân
họ vu cáo với sự xúi dục của người CS, để được đền bù bằng một vài
thưởng vật nhỏ như mấy thửa đất nhỏ hoăc dụng cụ trong nhà.
Sau đó
CS Bắc Việt thừa nhận sai lầm và ngưng chính sách cải cách điền địa cũng
như có biện pháp sửa sai. Tuy nhiên, nhiều đia chủ Việt Nam đã không
tìm được sự công bằng cho cái chết của họ. Chỉ một số ít bị kết án nhẹ.
Trong
những năm 1960 và 70 ở miền Bắc Việt Nam và ở cả miền Nam sau khi CS
chiếm miền Nam thống nhất đất nước, VN thành lập các hợp tác xã nông
nghiệp và buộc tất cả nông dân phải giao ruộng đất của mình cho vào hợp
tác xã nhà nước. Nông dân chỉ đươc giữ một phần nhỏ đất của họ (5%) để
canh tác riêng , tự trồng lúa và rau cải.
Mô hình
canh tác theo hợp tác xã đã chứng tỏ không có hiệu năng, đưa đến tình
trang thiếu thực phẩm trầm trọng và phải lệ thuộc vào viện trợ thực phẩm
của nhiều nước, nhất là từ các nước trong khối xã hội chủ nghĩa thuộc
Liên xô và từ các nước Ðông Âu trước đây.
Ðến
những năm giữa thập niên 1980, CSVN nhận thấy mô hình canh tác hợp tác
xã không kết quả nên bỏ đi và phân chia đất cho từng nông dân. Nhưng đất
đai vẫn thuộc về nhà nước trong khi nông dân chỉ được quyền canh tác
trong một thời gian nhất định (tối đa đến 30 năm).
Việc
chiếm hữu đất đai bởi cấp dưới của nhà nước địa phương ở các tỉnh và
thành phố bắt đầu xảy ra sau năm 1986 khi VN thi hành chính sách gọi là
„Ðổi mới“. Trong tiến trình thành thị hóa và kỹ nghệ hóa đã có nhu cầu
lớn về đất đai để thực hiện các dự án kỹ nghệ, bất động sản và giải trí ở
các địa phương. Kể từ đó, chính quyền địa phương ở khắp nơi đã chiếm
lấy nhiều khu đất canh tác lớn của nông dân cho các nhà đầu tư trong và
ngoài nước để thực hiện các dự án.
Việc chiếm đất đã xảy ra từ Nam ra Trung , ngoài Bắc kể cả tại thủ đô Hà Nội.
Ðể
chiếm đất chính quyền địa phương bắt ép nông dân phải giao đất cho họ
với giá thật thấp so với giá thị trường và giá bán đất (thật ra quyền xử
dụng đất) cho những nhà buôn bán bất động sản thì cao hơn rất nhiều. Lẽ
dĩ nhiên, phần lớn lợi nhuận chạy vào túi của các quan chức tham nhũng
chứ không vào công quỹ ở địa phương.
Trong
vài truờng hợp, nông dân bị cưỡng bách bán đất với giá thật rẻ cho đồ án
phát triển thật sự. Sau đó họ phải trả giá gấp trăm lần cao hơn cho một
căn hộ được xây ngay trên chính đất của họ trước đây.
Khi
chính quyền địa phương thấy chuyện chiếm và bán đất của nông dân cho các
nhà khai thác là nguồn lợi thì những nông dân này không có cách gì để
từ chối, ngay cả trong trường hợp mảnh đất đó đã là nhà ở qua nhiều đời,
nơi đó có mồ mả ông cha và là nguồn sống của họ. Bởi vì trong một nhà
nước độc đảng, giới lãnh đạo địa phương nắm cả ba quyền – hành pháp, lập
pháp và tư pháp.
Chiếm đất của giáo xứ Cồn Dầu ở trung tâm thành phố Ðà Nẳng
Giáo xứ Cồn Dầu thuộc phường Hoà Xuân, quận Cẩm Lệ đã có 135 năm lịch sử, những người dân cư ngụ ở đó là giáo dân Công giáo.
Năm
2010, Ủy ban Nhân dân ở Ðà Nẵng quyết định lấy 440 mẫu đất thuộc giáo xứ
Cồn Dầu để làm trung tâm du lịch sinh thái Hòa Xuân. Nhiều ngôi nhà của
giáo xứ Cồn Dầu và nghĩa trang địa phương nằm trong khu vực dành cho dự
án trung tâm nghỉ mát này.
Bất kể
sự phản đối mạnh mẽ của những dân cư trong giáo xứ, chính quyền địa
phương bắt phải giải tỏa nghĩa trang đi nơi khác cũng như ra lệnh nhiều
ngườì dân ở đó phải dọn ra khỏi khu vực của dự án.
Tiền bồi thường đất bị chiếm chỉ bằng một phần 30 của giá một biệt thự trong khu vực nghỉ mát.
Dân
chúng Cồn Dầu không muốn giải tán nghĩa trang của họ. Ngày 4 tháng 5
năm 2010 công an cấm không cho dân địa phương an táng bà Maria Ðặng thị
Tân tại nghĩa trang của xứ đạo. Một cuộc xô sát giữa nhân viên cảnh sát
và dân chúng Cồn Dầu đã xảy ra. Sau sự cố này, cảnh sát đã bắt giữ hằng
chục người dân Cồn Dầu, buộc tội họ đã có hành động chống lại chính
quyền địa phương. 6 người ở Cồn Dầu bị giam giữ trong khi một số người
khác bị tra tấn trong thời gian bị bắt giữ.
Sau đám
táng bà Tân một người của ban trợ tang ở Cồn Dầu đã bị đánh đến
chết.Trên 70 người dân Cồn Dầu đã chạy sang Thái Lan xin tị nạn, 14
người trong số người này được phép sang định cư ở Hoa Kỳ.
Những
người đã dọn đi chỗ khác được chính quyền địa phương bồi thường một số
tiền nhỏ không đủ để mua đất và vật dụng cất nhà nơi chỗ mới.
Mới đây, chính quyền thành phố Ðà Nẳng thông báo sẽ cho dời tất cả mồ mả khỏi nghĩa trang Cồn Dầu vào ngày 10 tháng 4.
Một
trường hợp chiếm đất khác xảy ra ở Ðà nẳng đã khiến cho một người dân
địa phương tự thiêu để phản đối chính quyền của thành phố. Vào ngày
17.02.2011, kỹ sư Phạm Thanh Sơn 31 tuổi tẩm xăng tự thiêu trước một tòa
nhà hành chánh địa phương. Không ai can thiệp và ông Sơn đã tử nạn. Ông
này đã phải chịu một quyết định bất công của thành phố Ðà Nẳng vì họ đã
chiếm đất của ông ấy mà không đền bù tương xứng. Trước khi tự thiêu ông
Sơn đã gửi nhiều đơn khiếu nại đến các cơ quan của thành phố, phản đối
việc chiếm đất của ông.
Sự cố
này bị bỏ quên sau đó vì giới truyền thông tại chỗ bị địa phương kiểm
soát chặt chẽ và trình bày vụ tự thiêu như một tai nạn. Các thân nhân
của gia đình ông Sơn đã bị canh chừng một thời gian dài sau khi ông Sơn
được an táng.
Chiếm đất dân thiểu số ở cao nguyên miền Trung và miền núi phía bắc
Việt
Nam có 54 nhóm sắc tộc. Người Kinh hay Việt chiếm trên 95 % của tổng số
90 triệu dân. Phần lớn các dân sắc tộc sống ở các vùng núi miền bắc và
trung VN.
Bằng
cách làm ăn có lợi kinh tế và xã hội, nhiều người Kinh, đặc biệt là giới
cán bộ đã chiếm đất đai của người sắc tộc, lấy mất phương tiện cơ bản
để sản xuất thực phẩm của họ. Mất đất sống người sắc tộc còn bị người
Kinh hiếp đáp, nhiều dân sắc tộc ở cao nguyên miền Trung (1985) và người
Hmong ở phía Tây-Bắc của tỉnh Ðiện Biên (2011) đã phản kháng chính
quyền ở địa phương. Tuy nhiên, sự chống đối của ho bị lực lượng cảnh sát
đặc biệt đàn áp thô bạo. Họ được võ trang nặng nề, trong một vài truờng
hơp có cả chiến xa và phi cơ trực thăng.
Cưỡng chế đất ở phía Bắc cảng Hải Phòng
Tháng
giêng năm 2012, sau nhiều lần khiếu kiện và đệ trình lên các cơ quan
trọng tài để bảo vệ quyền của mình nhung không thấy có trả lời, nông dân
Ðoàn Văn Vươn phối hợp một vụ chống đối bằng võ lực. Ông đặt bom tự chế
trên khoảnh đất rộng 40,3 mẫu tây ở quận Tiên Lãng thuộc thành phố Hải
Phòng. Ông tiến hành biện pháp này để nhằm đẩy lùi 100 công an và quân
đội do chính quyền địa phương gửi tới xâm nhập vào khu đất của ông và
đẩy ông và gia đình ông ra khỏi khu đất nói trên.
Tốt
nghiệp ngành kỹ sư, khi đến Cống Rọc, ông Vuơn được phép thuê một mảnh
đất nhỏ ở nơi đó. Về sau, ông ta mở rộng nông trại của ông và biến một
vùng đất bỏ hoang thành các ao nuôi tôm và nuôi cá.
Vươn
bắt đầu đấp bờ đê, các hệ thống điều hòa mực nước và ao hồ cần thiết để
nuôi cá và tôm. Không ai nghĩ Vươn và gia đình ông sẽ thành công. Nhưng
sau nhiều năm nổ lực và thí nghiệm nông trại nuôi cá trở nên có mang
lời. Những người đi tiên phong khác cũng bắt chườc ông Vươn. Năm 2004,
có chừng 20 gia đình ở Tiên Lãng phát triển ngành làm trại nuôi cá có
diện tích chừng 250 mẫu tây đất bỏ hoang vô giá trị trước đây. Vươn còn
khai thác thêm 11 mẫu tây mặt biển, nâng cao tổng số diện tích ao hồ
thuộc công ty gia đình ông lên 40 mẫu tây tất cả.
Năm 1997, ông được chính quyền quận Tiên Lãng cho phép sử dụng đất trong 14 năm.
Vài năm
sau đó, VN có chương trình xây phi trường quốc tế ở Tiên Lãng để thay
thế phi trường Nội Bài. Phi trường nầy chiếm một diện tích rộng lớn bao
gồm cả nông trại nuôi cá của ông Vươn và các nông dân láng giềng. Chính
quyền địa phương muốn thu hồi giấy phép canh tác của ông Vươn cũng như
của những người cùng cảnh ngộ để lấy bồi thường cao của nhà nuớc khi bắt
đầu thực hiện xây phi trường quốc tế.
Năm
2005, những người nuôi cá nhận hung tin từ chính quyền sở tại, theo đó
đất đang thuê sẽ bị thu hồi khi hết hạn. Hơn thế nữa, các tân trang và
cải tiến thêm trong thời gian qua sẽ không được đền bù.
Như đã
nói ở trên, toàn thể đất đai ở CHXHCNVN thuộc về nhà nước. Tuy nhiên, kể
từ 1993 cá nhân và công ty được cho quyền sử dụng đất. Cho đa số nông
dân, có nghĩa là họ được phân chia một mảnh đất thuộc đất của hơp tác
xã.để canh tác trong 20 năm.
Vì lý do gì cũng chưa rõ, Vươn chỉ được thuê đất 14 năm kể từ năm 1993. Ông được lịnh phải dọn đi vào năm 2007.
Vươn và
các nông dân nuôi cá nói rằng theo thói thường ở nhà quê họ vẫn tin là
đất họ thuê và canh tác cho tốt hơn sẽ được tự đông gia hạn. Hơn thế
nữa, cũng như tất cả nông dân VN đều mong đợi khi chính quyền thu hồi
đất để sử dụng cho mục đích công cộng thì nông dân phải được đền bồi
thỏa đáng công lao của họ đã làm tốt hơn lên.
Hiểu
như vậy nên những nông dân nuôi cá đã chống đối sau khi đòi hỏi của họ
không dược giải quyết. Chính quyền quận sở tại vẫn không nhúc nhích. Tòa
án quận vẫn giữ nguyên lệnh phải dọn đi. Các nông dân nuôi cá kháng
kiện lên tòa án cao hơn của Hải Phòng.
Phán quyết của tòa được đồng ý, chính quyền sở tại và Vươn đã ký kết ngay trong toà án. Theo thỏa thuận này,
Vươn rút lại đơn tố cáo và chính quyền sở tại sẽ tiếp tục cho thuê sở
đất đang tranh cãi. Ngay sau khi đơn cáo kiện được rút đi, chính quyền
địa phương đã tiến hành đuổi Vươn khỏi mảnh đất của mình mà không có bồi
thường nào.
Ngày 5
tháng giêng 2012 nhà cầm quyền địa phương ở Tiên Lãng đã cho hằng trăm
cảnh sát đặc biệt và đơn vị thuộc quân đội tới đuổi Vươn và gia đình ra
khỏi đất của Vươn. Các nhân viên gặp sự kháng cự quyết liệt, kết quả là 4
cảnh sát và hai quân nhân bị thương tích phải được điều trị ở bệnh
viện.
Vươn và
người em bị bắt giam vì tội dùng võ khí chống lại cán bộ nhà nước. Nhà
của ông bị chính quyền đập phá vài ngày sau đó, trong khi cá trong ao bị
bọn côn đồ vớt đi hết dưới sự đồng tình của nhà nước ở địa phương.
Cách
thức nhà nước Hải Phòng xử lý Vươn phản ảnh sự thiếu tôn trọng và khinh
thường ra mặt những người nông dân địa phương cũng như tài sản của họ.
Nhà cầm quyền CS ở địa phương coi thường sự tranh đấu kiên trì của Vươn
để giữ đất của mình mà Vươn đã canh tác thành công như vậy. Thay vì xem
cơ sở nuôi cá của Vươn như một tấm gương của sự làm việc chăm chỉ cần cù
có thể đem lại cho cộng đồng, nhà cầm quyền VN lại xem nông trại của
Vươn là một cách để kiếm nhiều tiền, có triển vọng cho „các dự án phát
triển mới“.
Mặc dù
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố lệnh xua đuổi chiếm đất là một hành
động bất hợp pháp, Vươn và em ông đã bị giam giữ từ tháng giêng 2012 và
bị giam cho đến khi ra tòa ngày 4-5 tháng 4 năm 2013. Mặc dù không làm
điều gì trái đạo đức và luật pháp ngoài việc tự vệ cho chính mình, cả
hai đã bị kết án 5 năm tù về tội cố sát và chống lại lực lượng thi hành
công vụ.
Chiếm đất ở Văn Giang tỉnh Hưng Yên để làm dự án đô thị sinh thái Ecopark
Năm
2004 chính quyền tỉnh Hưng yên phía bắc cấp giấy phép cho một công ty tư
để phát triển dự án đô thị sinh thái Ecopark gồm 20000 đơn vị nằm trên
500 mẫu tây ở Xuân Quan, quận Văn Giang, nằm chừng khoảng 30 cây số cách
thủ đô Hà Nội.
Ðể lấy
chỗ cho dự án Ecopark 3900 gia đình nông dân, cư dân của tất cả 3 làng
được thuyết phục nên rời bỏ đất đai mầu mỡ của họ và dọn đi nơi nào
khác.
Chỗ đất
dành cho dự án bị tịch thu qua 2 đợt năm 2009 và 2012, nhưng chừng 2000
hộ từ chối không chịu nhận tiền bồi thường của chính phủ cho 5,8 mẫu
tây, nói rằng số tiền này quá thấp so với giá trị ở thị trường lúc đó.
Nông dân tổ chức các vụ phản kháng nhiều lần ở Hà Nội, đòi bồi thường cao hơn cho đất đai của họ hoặc là bãi bỏ dự án trên.
Ngày 24
tháng 4 năm 2012 chính quyền tỉnh Hưng Yên đã cho 3 ngàn cảnh sát có võ
trang tới xua đuổi dân làng Xuân Quan khỏi đất của họ. Lực lượng cảnh
sát dùng lựu đạn cay tấn công dân làng, đánh đập nhiều người trọng
thương và bắt giữ hàng chục người. Trong số những người bị bắt có cả hai
phóng viên của đài Tiếng nói VN đến tường thuật việc đuổi đất theo
chiều hướng có lợi cho nhà cầm quyền địa phương.
Theo
nguồn tin không chính thức, Nguyễn Thanh Phương, con gái của nguyên thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng là người có cổ phần trong đồ án Ecopark.
Chiếm đất ở quận Hà Ðông thuộc Hà Nội: xã Dương Nội ở quận Hà Ðông
Năm
2010 thành phố Hà Nội quyết định phát triển vùng thành phố mới Lê Trọng
Tấn và thành phố phải đuổi 337 gia đình khỏi miếng đất rộng 21,5 mẫu
tây. Có 155 gia đình đồng ý dọn đi, trong khi 182 gia đình khác từ chối
bỏ đất vườn của họ, nói rằng giá mà họ nhận được của chủ thầu thấp hơn
giá thị trường rất nhiều.
Ðể dọn trống khu đất cho dự án xây dựng, chính quyền quận Hà Ðông đã cho dẹp nghĩa trang, dời mồ mả ra ngoài
phạm vi dự trù xây khu phố thị mới. Tức giận trước hành động của nhà
nước địa phương dân làng Dương Nội đã gửi nhiều thư phản kháng đến các
cơ quan trách nhiệm đòi phải can thiệp và ngưng việc lấy đất.
Nhiều người đã túc trực hẳn trên ruộng đất của họ, thay phiên nhau canh gác để ngăn chận chính quyền tịch thu đất đai của họ.
Ngày 17
tháng giêng 2013, chính quyền quận Hà Ðông cho 200 cảnh sát, dân phòng
và côn đồ tấn công làng, muốn dùng võ lực đuổi dân làng phải bỏ đất của
họ. Tuy nhiên, lực lượng cảnh sát đã gặp sự chống đối mãnh liệt của dân
làng và cuối cùng họ buộc phải rút lui. Trường hợp này phải nên chấm
dứt.
Chiếm đất ở Ðồng bằng Cửu Long tỉnh Cần Thơ: Bà mẹ và cô con gái cởi áo quần phản đối
Ðể xây
cất khu gia cư mới Hưng Phú, chính quyền quận Cái Răng vùng châu thổ
sông Cửu Long thuộc thành phố Cần Thơ quyết định lấy đất của dân làng
Hưng Phú để bán cho công ty CP đầu tư xây dựng số 8 có tên là CIC 8. Tuy
nhiên, công ty CIC8 chỉ chịu trả cho khu đất lấy đi với giá quá thấp,
cả 10 lần ít hơn giá của căn hộ nhà sẽ được xây cất.
Dưới
áp lực của chính quyền nhiều dân cư ở đó đã giao đất cho hãng xây cất,
nhưng một số người khác trong đó có bà Pham Thị Lài đã không chịu chuyển
nhượng đất của họ với giá rẻ.
Từ năm
2002 gia đình bà Phạm Thị Lài đã gửi đơn kháng kiện đến chính quyền các
cấp khác nhau để phản đối quyết định của nhà cầm quyền Cái Răng lấy 3000
thước vuông của gia đình họ với giá rẻ mạt. Tuy nhiên, bà Phạm Thị Lài
đã không nhận hồi đáp nào của nhà nước.
Bà Lài
và cô con gái đã cởi áo quần phản đối khi phe khai thác gửi nguời đến
giải tỏa khu đất. Tuy nhiên, bảo vệ của công ty CP đầu tư xây dựng số 8
đã lôi hai người đàn bà khỏa thân đi khỏi đất của họ.
Sau đó, chính quyền Cái Răng phạt bà Lài và con gái bà về tội khỏa thân nơi công cộng và như thế đã vi phạm thuần phong mỹ tục.
Chiếm tài sản của giáo hội Thiên chúa giáo
Nhiều
nhà thờ Công Giáo là nạn nhân bị chiếm tài sản bởi các cơ quan chính
quyền và cán bộ. Cùng với sự can thiệp chính trị ảnh hưởng đến các sinh
hoạt tôn giáo của người Công Giáo khắp nước, nhà cầm quyền ở nhiều tỉnh
và thành phố đã thu tóm tài sản của giáo hội, gây sự bất mãn trong hàng
giáo sĩ và giáo dân.
Trong quá khứ, chính quyền địa phương ở nhiều nơi đã mượn bất động sản và cơ sở của giáo
hội Thiên chúa giáo và các cơ sở này thành công sở, bệnh viện, trường
học, khách sạn hoặc biến thành nơi giải trí cho người không Công giáo.
Tại thủ
đô Hà Nội nhà cầm quyền đã lấy 95 cơ sở giáo hội Thiên chúa giáo. Họ đã
cho cảnh sát đàn áp các vụ phản kháng của tu sĩ và giáo dân thiên chúa
giáo.
Chính
quyền ở Hà Nội còn muốn lấy đất của giáo xứ Thái Hà để xây nhà cho nhân
viên địa phương. Dưới sự chống đối quyết liệt của các tu sĩ và giáo dân
nhà cầm quyền phải chuyển qua lấy mảnh đất đó làm công viên.
Thống kê về tranh chấp đất đai ở Việt Nam
Chỉ
riêng Hà Nội đã có trên 1000 vụ kháng kiện liên hệ đến tranh chấp đất
đai mỗi năm. Những trường hợp này cho thấy rõ sự bất mãn của người dân
về các quyết định lấy đất của dân, vấn đề bồi thường và định cư trở lại
khi chính quyền chiếm đất của người dân địa phương.
Trên
bình diện quốc gia, con số các vụ kháng kiện liên quan đến vấn đề đất
đai chiếm đến 70% các vụ kiện tụng về dân sự. Theo sở thanh tra của
chính phủ, có tất cả 851000 vụ kiện cáo về tranh chấp đất đai trong thời
gian từ 2003 đến 2010, phần lớn liên quan đến vấn đề lấy đất để phát
trển kinh tế.
Trong
số 31000 vụ kiện về đất đai tường trình trong năm 2007, một cơ quan
chính quyền nói có khoảng 70% đã không có sự bồi thường tương xứng cho
đất bị tịch thu.
Trong
thời gian từ 2001 đến 2006, khoảng 376000 mẫu tây đất trồng lúa đã bị
tịch thu, trên 1 triệu nông dân phải dời đi nơi khác. Các tu chỉnh về
luật đất đai năm 2003 nhằm đẩy mạnh „phát triển“ bằng cách tạo dễ dàng
cho việc khai khẩn nhiều khu đất rộng lớn cho thấy mức độ xua đuổi nông
dân đi nơi khác có vẻ đã gia tăng.
Theo
ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ, vấn đề kiện cáo đất đai
chiếm hết 80% tổng số các vụ tham nhũng nghiêm trọng còn chưa giải
quyết.
Ông Lê
Ðăng Doanh, một chuyên viên về kinh tế, lập luận rằng nay ban lãnh đạo
đã đi lạc hướng và bị trói buột bởi quyền lợi phe nhóm. „Ðảng lấy đất
của nông dân với giá rẻ vô lý và bán lại cho các nhà đầu tư với giá cao
hơn nhiều, thay vì lấy đất của địa chủ cho nông dân như trước đây“.
Thế giới văn minh có thể làm gì để khuyến cáo chính phủ Việt Nam về vấn đề chiếm đất
Vấn đề
chiếm đất đai đã trở thành hệ thống nơi mà Ðảng CSVN nắm độc quyền về
quyền lực. Không có quyền sở hữu đất riêng, người dân địa phương thom
thóp lo sợ mất quyền sử dụng đất một khi nhân viên chính quyền quyết
định rằng, đất họ đang canh tác có thể sử dụng vào mục tiêu phát triển
quốc gia hoặc an ninh công cộng.
Lấy
chiêu bài „phát triển xã hội cho ích lợi chung“, chính quyền địa phương
đã không do dự cưỡng chiếm đất của dân và giao đất đó cho các nhà doanh
nghiệp thực hiện các dự án phát triển. Ðiều này có nghĩa là, nhân dân
càng chần chờ không chịu giao đất của họ, thì việc sử dụng các lực lượng
võ trang xua đuổi dân càng thô bạo hơn. Thật là kỳ quái, nếu một ai hô
hào cho quyền sở hữu đất đai có thể bị phạt nghiêm khắc.
Nhiều
chuyên viên cho rằng để ngăn ngừa việc chiếm đất, Việt Nam cần thay đổi
luật đất đai bằng cách để tạo ra nhiều hình thức sở hữu đất gồm cả sở
hữu nhà nước và sở hữu tư nhân.
Việt Nam cần phải cải tổ luật đất đai đầy
mâu thuẫn nếu muốn cứu vãn nền kinh tế ốm yếu, theo lời ông Trần Huy
Huỳnh, giám đốc phòng luật pháp thuộc Phòng Thương mại và Kỹ nghệ Việt
Nam..
Ông
nói, „Nếu quyền sở hữu thuộc về nhà nước thì nông dân không cảm thấy yên
ổn bởi vì họ không là chủ của mảnh đất đó, họ sẽ không muốn đầu tư và
làm việc tận lực“.
Với
tình trạng đất đai bấp bênh này nông dân không thể phát triển công việc
làm ăn của họ, mở rộng ra hoặc đầu tư vào các kỹ thuật cao cấp và vì thế
sản phẩm của họ không có khả năng cạnh tranh“.
Ông
James Anderson, một chuyên gia hành chánh của Văn phòng Quỹ tiền tệ quốc
tế ở VN cho rằng, tình trạng hiện nay thường đưa đến một kết quả
thua-thua cho nông dân và cả nhà đầu tư.
„Thay
vì tạo điều kiện cho sự thương lượng tự nguyện, nhà nước có vai trò đặc
biệt trong vấn đề định con số bồi thường và có uy quyền dùng luật lệ để
phân phối lại đất đó. Lẽ tất nhiên, sự kiện nầy có thể dẫn đến nhiều khó
khăn cho cả đôi bên, người mất đất không vui với khoản bồi thường và kẻ
đầu tư thì phải đương đầu với những sự chậm trễ vì mất thời gian giải
tỏa để có chỗ đất trống“, ông Anderson giải thích như vậy.
Các
chuyên viên trong ngành nói, chính phủ và nhà cầm quyền địa phương không
nên được có quyền cưỡng chiếm đất để tiến hành các dự án phát triển
kinh tế xã hội. Ðể có chỗ cho các dự án phát triển kinh tế xã hội, chính
quyền địa phương cần thương lượng với người dân có đất ở trong khu vực
dự trù và đi đến thỏa thuận bồi thường theo giá của thị trường.
Việt
Nam nên từ bỏ chính sách định giá đất cứng nhắt, cho phép thẩm giá nhà
đất tùy theo giá của thị trường. Hiện nay, các chính quyền ở tỉnh định
giá đất theo tình hình địa phương của họ, một cách thức không cho phép
có sự bồi thường thỏa đáng, phản ảnh đúng giá cả trên thị trường và tất
nhiên gây sự lỗ lã lớn cho người dân bị đuổi đất trong khi chỉ làm lợi
cho cơ quan chính quyền và công ty thực hiện dự án.
Tuy
vậy, tranh chấp đất đai ở VN trên căn bản bắt nguồn từ lý do chính trị
hơn là từ nguyên do kinh tế – Sự thực không chối cãi là Ðảng CSVN không
có ý định từ bỏ chủ trương kiểm soát toàn diện về mọi mặt trong đời sống
kể cả vấn đề làm chủ tất cả đất đai. Tuy nhiên, các vụ tranh chấp đất
đai đang nổi lên khắp nơi có thể tạo thành một mối đe dọa nghiêm trọng
cho chính ÐCSVN, bởi vì cho đến nay nông dân vẫn là thành phần chính yếu
ủng hộ đảng. Vì vậy, để giải quyết rốt ráo vấn đề đất đai ở VN, có thể
ÐCSVN phải thực sự nới lỏng gọng kìm chính trị.
Pháp
quốc và Việt Nam đã đồng ý hợp tác song phương, nhằm nâng cấp mối quan
hệ hỗ tương, tiến đến sự hợp tác chiến lược trong tương lai gần đây.
Pháp quốc cũng như các quốc gia trong Liên Minh Âu châu nên khuyến cáo
chính quyền CSVN nên tôn trọng nhân quyền và quyền tự do ngôn luận.
Cả hai
quốc gia cũng mong muốn đẩy mạnh sự hợp tác song phương về phuơng diện
luật và hành pháp. Xuyên qua các chương trình hổ trợ, Pháp quốc nên
khuyến cáo chính quyền VN, nhất là ÐCSVN, nên có cải cách về hướng của
một nền pháp trị, có tự do thông tin báo chí, và đi đến sự phân quyền rõ
rệt. Trong đó lập pháp, hành pháp và tư pháp hoạt động độc lập theo thể
thức kiểm soát và cân bằng quyền lực.
Cuộc
phản kháng của nhà nông Vươn là một thí dụ tiêu biểu cho ta thấy và cảnh
báo điều gì có thể xảy ra trong một nước không có một hệ thống xã hội
dân chủ và một nền pháp trị.
Những
người dân bị thua thiệt nhận thấy toà án CS ít khi có hữu ích gì cho họ,
và sự phản kháng ngoài đường phố đã đưa đến sự hà hiếp người dân, tra
tấn hoặc cầm tù bởi nhà cầm quyền.
Theo
Freedom House quốc tế, ở VN số luật sư không nhiều, và nhiều người nấy
thì không muốn bào chữa cho những vụ liên hệ đến nhân quyền hoặc các vấn
đế có tính chính trị nhạy cảm khác vì sợ sẽ bị trù đập, trừng phạt kể
cả việc ngang nhiên bị bắt giữ của chính quyền.
Không như toà án tại các nước tiền tiến, ngành tư pháp không mang lại nhiều che chở cho người dân Việt Nam.
Tài liệu trích dẫn:
1. Land grabs rile Vietnam´s farmer- Nguyen Phuong Linh Financial Times Apr 11,2013
2. Reports of Vietnam government´s General Inspectorate
2. Reports of Vietnam government´s General Inspectorate
(*) Nguyên bản “Land
Ownership in Vietnam and Land Seizure in One-party State”, bài tham luận
tại 5e Forum Mondial des Droits de l’Homme, Nante, France 22.- 25 Mai
2013 trong Hội luận „Luật pháp và vấn đề chiếm đất tại các nước đang
phát triển“ ngày 23/05/2013, Tiểu đề „Luật pháp và vấn đề chiếm đất tại
các nước đang phát triển: thí dụ ở các nước Benin, Mali, Papua New
Guinea, Vietnam và Costa Rica“. Bản tiếng Việt https://sites.google.com/site/forumvietnam21/tiengviet/tiengviet-bv/bnq20140103_vuquocngu
[Xem nguyên bản tiếng Anh]
[Xem nguyên bản tiếng Anh]
nguồn:http://diendanxahoidansu.wordpress.com/2014/01/05/van-de-so-huu-dat-tai-viet-nam-va-cuong-chiem-dat-trong-mot-nuoc-doc-dang/
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001