Nguyễn Hoài Vân - LÃO GIÁO VÀ VÀI HÀNG VỀ PHÁP GIA
at 10/06/2013 06:40:00 AM
Nguyễn Hoài Vân -
Khi bàn sang
Lão Giáo chúng ta vẫn có thể giữ gần như y nguyên những quan niệm tổng
quát Thiên Nhân Hợp Nhất và Vạn Vật Đồng Nhất Thể đã được trình bày
trong bài Nho Giáo. Ngoài vài khác biệt trong cách dùng chữ (thí dụ chữ
Đạo được hiểu hơi khác một chút), Lão Học có vẻ được xây dựng trên cùng
một căn bản với Nho Giáo. Tuy vậy, người ta luôn đặt Lão với Nho trong
những tư thế đối nghịch nhau: một đàng xuất thế, một đàng nhập thế, một
đàng dẹp bỏ Danh Hiệu, một đàng lại lấy “Chính Danh” làm mẫu mực cho
hành vi, một vị có vẻ lè phè bất chấp việc đời, ai hỏi tới thì bảo “vô
vi”, vị kia lúc nào cũng loay hoay bận bịu lo cho dân, cho nước, cho
thiên hạ, luôn hô hào “làm bổn phận”... Cùng một khởi điểm nhưng vào
thực tế lại đi về hai phía khác nhau, đó là Nho và Lão. Ta hãy thử bàn
qua vài điểm chính của Lão Học rồi sẽ trở lại vấn đề này sau.
Photo: Internet |
Chú trọng ở Bản Thể Tuyệt Đối:
Lão Trang
nhìn thẳng vào Bản Thể Tuyệt Đối của sự vật chứ không chú trọng đến
những hình thức biểu hiện tương đối, thiên hình vạn trang của Bản Thể
này. Các nhà Lão Học thường cho là sự vật ở đời luôn biến hoá, lúc thế
này, lúc thế khác, vô cùng phức tạp, cho nên, thay vì chạy theo cái luôn
biến hoá, họ chủ trương đi tìm cái cố định, thường hữu, bất biến, trong
đó. Cái bất biến này là Bản Thể Tuyệt Đối của sự vật.
Trí Thức “cục phân”:
Câu phát
biểu « tử tế » này thường được gán cho ông Lê Nin (thư gửi Gorki-1919).
Lão Tử nghe được không chừng cũng khoái chí vì ông thường cho là sự suy
luận của trí thức không những không thể tìm đến Bản Thể Tuyệt Đối của sự
vật được, mà còn có thể làm cho người ta xa rời Bản Thể ấy hơn.
Lý do vì
hoạt động của trí thức đặt trên căn bản “phân biệt”: phân biệt tốt xấu,
phải trái, cao thấp, lớn nhỏ, cái này cái kia, ta với không ta v.v…
trong khi Bản Thể Tuyệt Đối của sự vật thì thuần nhất, không có đối
tượng, và cũng không có gì để phân biệt. Vì thế, ngay từ bước đầu, hoạt
động của trí thức đã quay lưng lại Đạo, và càng đi tới, càng rời xa Đạo.
Tuyệt Thánh khí Trí - Tuyệt Nhân khí Nghĩa:
Không quan
tâm tới hoạt động của trí thức, Lão Học thành ra coi nhẹ những khái niệm
Luân Lý, Nhân Nghĩa, v.v… vì những thứ này chỉ là sản phẩm của óc phân
biệt, của tri thức. Khi các nhà luân lý phân biệt đúng sai, phải trái,
để rồi lúc nào cũng lo Đạo bị sai, bị mất, thì Trang Tử vặn lại như sau:
“Đạo giấu ở
đâu mà đúng với sai? Lời nói ẩn chỗ nào mà phải với trái? Đạo đi đâu mà
cho là không còn? Lời nói còn tồn tại ở đâu mà cho là không thể? ”
Ông cũng nêu lên tính cách tương đối của việc vận dụng tri thức mà biện luận:
“Lấy làm phải điều người khác cho là trái, và lấy làm trái điều người khác cho là phải”.
Cách giải quyết những quan điểm đối nghịch, theo ông, là DUNG HOÀ để tìm thế QUÂN BÌNH như chúng ta đã nói trong bài Nho Giáo :
“Thánh Nhân hoà điều phải điều trái, mà gửi vào cái lý quân bình của Trời Đất”.
Trang Tử nói rõ hơn:
“Ở ngoài thế giới hiện tượng thì Thánh Nhân giữ lấy mà không luận bàn.
Ở trong thế giới hiện tượng thì Thánh Nhân cũng bàn bạc vậy, nhưng không quyết định thiên về bên nào cả”.
Không thiên
về bên nào cả vì bên nào cũng có phần đúng, cũng diễn tả một phần của
Đạo, hay ngược lại, bên nào cũng có phần sai, cũng không diễn tả được sự
thật tuyệt đối.
Vô Vi :
Đã “chê” các
hoạt động của trí thức, lại không muốn đặt vấn đề Nhân Nghĩa, phải trái
v.v… thì các nhà Lão Học làm gì trong cuộc sống của họ? Nói cách khác,
làm gì cho đúng khi đối với họ, không còn đúng với sai? Làm gì cho phải,
khi không còn phải với trái?
Câu trả lời
có thể là: “Không làm gì cả”. Đó là thuyết Vô Vi. Tuy nhiên, nếu nói
“không làm gì cả” là đúng, “có làm gì” là sai, thì lại rơi vào sự đối
chọi đúng - sai. Vì thế, Vô Vi của Lão Học thường được giảng là “Vô Vi
nhi Vô Bất Vi” tức: “không làm gì cả nhưng không gì không làm”.
Điều này có thể được hiểu như sau :
Chính quan
niệm « thường Đạo » như quy luật tối thượng và thường hằng của sự vật đã
dẫn tới thuyết Vô Vi. Lão Tử nói: “Trời Đất coi con người như thảo
giới”, với ý nghĩa cái định luật của vạn vật lúc nào cũng thản nhiên vận
chuyển, bất chấp những vui buồn, ước mong, cầu khẩn, của con người, như
nghĩa chữ « thường » Đạo. Trong bối cảnh ấy, Vô Vi là đừng làm gì chống
lại định luật của Trời Đất, là « Vi » trong cái « Vô Vi » ấy, chứ không
phải là không làm gì hết.
Nói cách
khác, Vô Vi là không làm gì theo lòng tư dục của mình, mà chỉ nương theo
luật tự nhiên của Trời Đất, để định luật điều hành Vũ Trụ tự động “làm”
qua mình. Đó cũng là buông thả để dòng chuyển lưu của Đạo cuốn lôi mình
theo sự vận hành tự nhiên của mọi việc. Vô Vi nhi vô Bất Vi, như thế,
đi liền với tinh thần quả dục (giảm thiểu ham muốn) của Lão Học.
Phương pháp tu tập “huyền bí” của Lão Học:
Để đạt đến
Bản Thể Tuyệt Đối của vạn vật, để không làm gì mà không gì không làm, để
không ra khỏi cổng mà biết hết việc thiên hạ, để điều khiển được sự
sống, để đi trên bộ mà không sợ hổ báo, tê giác, vào trận tiền mà không
cần chuẩn bị giáp binh, và vài “tài mọn” khác, Lão Học đề nghị cho chúng
ta một trương trình tu tập có thể được tóm tắt trong bốn giai đoạn như
sau (theo Trang Tử - Đại Tôn Sư):
1) Giai
đoạn một: phải gạt thiên hạ ra ngoài, gọi là ngoại thiên hạ, tức loại
bỏ những gì có thể cảm nhận được bằng giác quan hay có thể được gợi lên
bằng ý tưởng. Sách vở cho là trong ba ngày có thể làm được việc này.
2) Giai
đoạn hai: phải rời quan niệm về vật, gọi là ngoại vật. Chữ này hơi khó
hiểu, xin đề nghị một chiều hướng giải thích : đã vứt bỏ thiên hạ đi rồi
thì chỉ còn có mình ta. Như vậy, “Vật” đây chính là phần vật chất của
mình. Cũng phải bỏ nó đi, để tập chung nơi phần còn lại của “cái tôi”,
tức là Tâm. “Ngoại Vật” là quay về Tâm. Giai đoạn này cần 7 ngày.
3) Giai
đoạn ba: phải ra ngoài sự sống, gọi là ngoại sinh. Ngoại sinh chắc cũng
không đến nỗi phải là Hara Kiri (rất hại sức khoẻ !), mà có lẽ nên hiểu
là không tham sống, không bám lấy sự sống với lòng tư dục vị kỷ. Sống
là dục vọng căn bản của mọi sinh vật. Vì vậy, trong một chương trình
diệt tư dục, người ta không thể quên cái dục vọng nền tảng này. Tham
sống, dù là sự sống đời này hay sống đời sau, sống đời tạm bợ hay đời
vĩnh cửu, đều là bám víu lấy “cái tôi”. Vì thế ngoại sinh cũng là diệt
ngã. Môn ngoại sinh cần 9 ngày, coi như khó nhất trong các giai đoạn đã
kể.
4) Ngoại
sinh rồi, ta mới đạt được đến một trạng thái gọi là Triêu Triệt. Ở
trạng thái này, người ta thấy được cái “Một”, tức bản thể tuyệt đối của
vạn vật. Trong đó không còn thời gian tức không còn sự phân biệt quá khứ
với tương lai. Hễ không còn phân biệt được sự đã qua với điều sắp tới
thì không còn vấn đề sống chết. Thật vậy, đối với kẻ đang sống thì chết
nằm ở tương lai, đối với kẻ đã chết thì sống nằm trong quá khứ. Nếu
không có quá khứ, không có tương lai, thì đâu là sống, đâu là chết? Nói
cách khác, lúc nào cũng sống, mà lúc nào cũng chết. Tất cả đều nằm trong
khoảnh khắc, và khoảnh khắc cũng là vô tận.
Nhưng đó là chuyện về sau. Bây giờ ta thử tính lại cho kỹ:
ngoại thiên hạ phải tốn ba ngày
ngoại vật, tốn 7 ngày
ngoại sinh, tốn 9 ngày
Tổng cộng
3+7+9 là 19 ngày. Nếu bắt đầu « phấn đấu » ngay tức khắc, thì 25 ngày
nữa bạn đọc sẽ đạt được đến ngoại sinh tức Triêu Triệt. Nhiều người sẽ
thắc mắc: Sao dư tới 6 ngày? Xin thưa: Thứ bảy chủ nhật, nghỉ. Luật lao
động !
Lão và Khổng:
Như đã nói ở
đầu bài, Lão và Khổng khởi từ một vũ trụ quan rất gần nhau. Từ khởi
điểm ấy, hai học phái có vẻ như đi về hai phía đối nghịch. Nói chung
chung ta có thể coi như các nhà Lão Học tìm cách từ địa vị người thường
trở thành bực thánh siêu phàm, quán chiếu bản thể tuyệt đối của sự vật,
còn Nho Gia thì ngược lại, đem thánh nhân xuống địa vị người thường bằng
cách đề ra những gì thánh nhân sẽ làm nếu ở vào địa vị của mỗi người
chúng ta, với những ràng buộc gia đình, bạn bè, tổ quốc v.v… Một đàng từ
người thường hướng lên, một đàng từ thánh nhân hướng xuống, “xuất thế”
của Lão Trang đối lại với “nhập thế” của Khổng Mạnh là ở chỗ đó.
Triết lý chính trị của Lão Trang:
Vì “xuất
thế” nên Lão Học đương nhiên là ít bàn về chính trị hơn Nho Giáo. Tuy
vậy, ta cũng có thể nhận thấy nơi Lão Trang vài nhận định chính trị quay
quanh ý niệm:
tôn trọng quy luật tự nhiên
không chấp
nhận lấy một hệ thống tư tưởng, luân lý, v.v… để uốn nắn xã hội, bắt mọi
người phải tuân theo một đường lối, một quy củ.
Thật vậy, cứ
cuống quýt cho là xã hội đồi truỵ, con người suy thoái, rồi nhất định
đem những hệ thống tư tưởng, những chủ nghĩa chính trị của mình ra để cố
công sửa chữa, thì, theo Lão Học, sẽ có hại nhiều hơn là có lợi. Hại vì
lấy ý riêng của mình áp đặt vào việc chung. Cái mình cho là tốt, điều
mình cho là hay, chưa chắc đã tốt, đã hay, với người khác. Vì thế Trang
Tử khuyên:
“Nên thuận theo tính tự nhiên của mọi vật, chứ đừng theo ý riêng của mình, thì thiên hạ có thể được trị, tức được yên ổn”.
(Thuận vật tự nhiên, nhi vô dụng tư, nhi thiên hạ trị hỹ - Ứng Đế Vương)
Nhà cầm
quyền hiếu động, thích làm ra vẻ mình giỏi, nhiều sáng kiến, cũng ví như
người chiên cá, càng lật qua lật lại thì cá càng nát (Trị đại quốc,
nhược phanh tiểu tiên - Đao Đức Kinh). Ta gặp lại tư tưởng quả dục và
diệt ngã đã nói ở trên.
Quan điểm
của Lão Trang về chính trị rất có tính cách hiện đại, vì nó tiềm ẩn
trong những suy nghĩ về dân chủ, về đa nguyên, về tự quản trị, về thị
trường tự do.
Pháp Gia:
Trong khi tư
tưởng chính thống của Lão Trang chủ trường gần như đứng ngoài cuộc đời
để vươn lên địa vị của bực Thánh thì một số quan điểm của truyền thống
này đã được biến chế ra để áp dụng vào việc quản trị xã hội, bởi một học
phái quan trọng, là Pháp Gia.
Thay vì quan
niệm một quy luật tự nhiên của Trời Đất, một định luật của Vũ Trụ có
tính cách trừu tượng, thì Pháp Gia đề nghị làm ra một hệ thống pháp luật
rõ ràng minh bạch, ai cũng phải theo. Rồi, để “giúp” mọi người “sốt
sắng” tuân theo luật pháp ấy, họ đặt ra những thưởng phạt rõ rệt, nghiêm
minh.
Quan niệm vô
vi cũng được cụ thể hoá để trở thành phương pháp cai trị của bậc quân
vương. Nhà lãnh đạo, theo học phái này, không nên làm gì cả, mà chỉ dựa
trên pháp luật để giữ việc thưởng phạt cho chính đáng. Thật vậy, nếu lấy
sức một người để làm việc của cả nước, thì dù tài ba cách mấy cũng
không thể cáng đáng được. Vì thế phép cai trị khéo léo nằm ở chỗ biết
phân phối trách nhiệm cho nhiều người khác, rồi theo dõi việc làm của họ
để thưởng phạt đúng như luật pháp đã quy định. Làm được như vậy thì một
người có thể điều khiển muôn người, đúng theo nguyên tắc « vô vi nhi vô
bất vi » đã nói ở trên.
Lão Học chủ
trương hành vi chỉ cần tự nhiên. Khi bàn về cách cư xử của người dân và
giới quan lại, thì Pháp Gia cũng nói: hễ luật pháp rõ ràng, thưởng phạt
nghiêm minh, thì người ta sẽ tự nhiên làm đúng bổn phận của mình. Lý do
vì ai cũng sợ bị phạt và muốn được thưởng nên mọi người đều tự động chấp
hành nghiêm chỉnh nhiệm vụ của mình và không dám làm những điều bị cấm.
Pháp Gia đã
giúp nhà Tần thống nhất Trung Quốc, rồi suốt trong các triều đại sau đó,
tư tưởng của họ vẫn được triệt để áp dụng (mặc dù không được chính thức
công nhận), chứng tỏ học phái này có một sức mạnh rất đáng kể.
Phê bình Pháp Gia:
Lý thuyết
Pháp Gia khi được áp dụng một cách cực đoan thường mau chóng đem lại sự
hùng cường, như trường hợp nước Tần với Thương Ưởng và Lý Tư. Tuy nhiên
sự sụp đổ cũng rất mau chóng.
Thật vậy, Pháp Gia có nhiều khuyết điểm, xin thử duyệt qua một cách vắn tắt:
Pháp Gia
không giải quyết vấn đề ai đặt ra luật pháp. Điều này có thể đưa đến
việc luật pháp được đặt ra chỉ để phục vụ cho một cá nhân, gia đình hay
bè phái, không phù hợp với quyền lợi chung.
Hệ thống cai
trị của Pháp Gia đặt trên quyền lực của nhà vua, nhưng lại không định
được một cách rõ ràng những phương thức để kiểm soát và chế tài nhà vua,
bắt vua phải giữ đúng vai trò của mình. Vì thế khi chẳng may gặp phải
vua lười biếng, vua dốt nát, vua bạo ngược v.v… người ta thường vẫn phải
cúi đầu phục tùng. Khi có kẻ dám nổi dậy chống lại, thì, dù thành công
hay thất bại, cũng đều gây nên nhiều chết chóc, đổ vỡ, rất tai hại cho
xã hội.
Bản tính con
người thích phóng khoáng tự do, nên muốn cho người dân phục tùng khuôn
khổ do một nhóm cầm quyền đặt ra thì bắt buộc phải dùng hình phạt nghiêm
khắc, để cai trị trên căn bản sợ sệt. Hình phạt nghiêm khắc quá trớn
thì thành ra tàn ác, gây thù hận. Người dân dưới chế độ này dễ có khuynh
hướng oán ghét tầng lớp lãnh đạo, không thành thật cộng tác, với nhiều
người sẵn sàng vùng vẫy để thoát khỏi sự ràng buộc áp bức.
Thật ra, ba
khuyết điểm vừa được nêu có thể được quy vào một điều duy nhất: đó là
Pháp Gia quan niệm con người một cách quá lý thuyết, không đúng với thực
tế:
Họ cho là
phải đẽo gọt con người như cây gỗ, cho đúng với những khuôn mẫu thực
dụng, như lời Hàn Phi Tử : “Đợi cho có cây thẳng rồi mới làm tên bắn thì
đời nào mới có tên? Đợi cho gỗ tròn mới làm bánh xe thì bao giờ mới có
xe đi?” Đẽo gọt như thế nào, thì họ dựa vào pháp luật với sự thưởng phạt
nghiêm minh. Pháp luật ví như cái thước, cái cân, để đo đạc, cân lường
lòng người rồi cứ dùng sự thưởng phạt để sửa chữa, dư thì cắt bớt, thiếu
thì chắp thêm cho đúng với khuôn mẫu cần dùng.
Chúng ta
phải công nhận là những nhận định trên đều thiếu thực tế, vì con người
nào phải khúc gỗ mà hòng dễ dàng đẽo gọt? Và lòng người cũng nào phải
như vật vô tri mà hòng đo đạc, cân lường với những tiêu chuẩn máy móc?
Kết luận:
Về Lão Giáo:
Trong thực tế, ngay cả đối với kẻ phàm phu, Lão Giáo có thể đem lại những lợi ích gì?
Đóng góp
quan trọng nhất có lẽ là nhận định của Lão Giáo cho rằng mọi việc đều
tương đối, luôn biến hoá, không có tư tưởng, giáo điều, chủ thuyết, nào
đúng mãi hoặc sai mãi.
Xin khai triển điều này một cách cụ thể hơn :
Ở trên chúng
ta đã nhận xét là Lão Giáo có cùng khởi điểm với Nho Giáo, nhưng vào
thực hành thì lại chọn hướng đi đối nghịch. Nếu cứ ví chuyện nhân sinh
như cái xe thì Nho Giáo và các lý thuyết hữu vi nhập thế có thể được ví
như các số máy để xe chạy tới. Còn Lão Giáo là “số de”để lùi lại. Thật
vậy, những hoạt động trong cuộc đời có khi đưa ta vào ngõ cụt, hoặc vào
những con đường mông lung không biết sẽ đến đâu? Những lúc ấy, Lão học
khuyên ta nên chấp nhận gài “số de”, chứ đừng vì tự ái mà xông xáo bừa
bãi sẽ có hại.
Không phải
chỉ khi ta lâm vào thế kẹt Lão học mới có lời khuyên, mà mỗi khi ta làm
việc gì Lão Học đều luôn ở bên cạnh để nhắc ta rằng: “công việc này ông
cho là đúng vì nó là việc của ông, ông tự ái nên nhất định nghĩ thế, chứ
bây giờ hãy thử dẹp bớt “cái tôi” đi, xét lại với mắt nhìn hồn nhiên
xem nó có hoàn toàn đúng hay không? Công chuyện ông bỏ công sức làm ngày
hôm nay, thử nghĩ xem ngày mai còn giá trị gì? Lý thuyết ông học được ở
chỗ này, hãy xét lại xem sang chỗ khác có còn thích hợp hay không?” Đại
khái đó là những lời khuyên rất giản dị, không có chi là thông thái cả,
nhưng khi chìm trong hành động, với tất cả niềm hăng hái, bầu nhiệt
huyết, lòng ưu tư việc nước việc dân, cộng với sự tự ái, người ta thường
hay quên mất. Dẹp bớt tự ái, hạ thấp “ý riêng”, để luôn chú tâm theo
dõi chiều hướng tự nhiên của công chuyện, rồi nương theo đó mà hành
động, chính là một chìa khóa của thành công mà người ta có thể tiếp nhận
từ Lão Giáo.
Một sắc thái
khác của cái “số de” mà Lão Giáo đề nghị là: đến một lúc nào đó trong
cuộc đời hoạt động, nên biết thối lui, tìm nơi yên tĩnh mà sống nhàn hạ
tự nhiên. Người mình có cụ Nguyễn Công Trứ, là một nhà Nho ưu hạng, cực
kỳ hăng hái hoạt động, giúp nước giúp dân. Cụ hay khuyên người ta xông
xáo gánh vác việc đời, nào là:
“Phải hăm hở ra tay kinh tế
Người thế trả nợ đời là thế”
rồi:
“Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong
Chí những toan sẻ núi lấp song
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”
Hay:
“Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương”
Nhưng cụ vẫn không quên:
“Đánh ba chén rượu khoanh tay giấc
Ngâm một câu thơ vỗ bụng cười”,
trong khi chờ đợi “tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn”, để mà:
“Giắt lỏng giang sơn vào một túi
Rót nghiêng phong nguyệt cạn lưng bầu
Cảnh cùng thông ai có bận chi đâu
Mùi tiêu sái với trần gian dễ mấy”
Và nhất định là không quên “gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì” để dưới mái tóc bạc như tuyết, vẫn còn tự hỏi:
“Cái tình là cái chi chi?
Dẫu chi chi cũng chi chi với tình”…
Khi nói
“hành tàng bất nhị kỳ quan” (ra làm quan với về ở ẩn không phải là hai
chuyện khác nhau), phải chăng cụ có ý khuyên người đời: ra làm quan với
về ở ẩn chẳng qua chỉ là hai “đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay” mà thôi,
đừng gắn bó vào con đường này hay con đường kia một cách mù quáng. Phải
biết “gài số de” khi cần, để « kiếm chuyện khác chơi ». Chơi trò nào
cũng có cái hay riêng,
Tuy cũng phải:
“Chơi cho lịch mới là chơi
Chơi cho đài các cho người biết tay
Tài tình dễ mấy xưa nay…”
Quả đất tròn, Nho với Lão mỗi ông đi về một phía nhưng chắc gì đã không gặp nhau ở phía bên kia trái cầu?
Về Pháp Gia:
Ở cuối thế
kỷ 20, bàn về Pháp Gia có lỗi thời hay không? Các khuyết điểm có tính
cách kỹ thuật của Pháp Gia, như ai đặt ra luật pháp, phương pháp nào để
chế tài người lãnh đạo, v.v… phần lớn đều đã có chiều hướng giải quyết
dù là chưa ổn thoả, và ngày nay, ít ai còn tự hỏi nên có pháp luật hay
không như ở thời Tiên Tần. Tuy vậy, căn bản của vấn đề vẫn còn y nguyên:
đó là việc gán cho con người một hình ảnh trừu tượng, xa rời thực tế.
Pháp gia của
thời đại chúng ta là những chủ thuyết, những ý thức hệ, những hệ thống
giáo điều được đặt ra để sửa sang xã hội, đẽo gọt con người, bắt mọi
người phải tuân theo một khuôn khổ chủ quan, duy ý chí, xa rời thực tại.
Các chủ thuyết này, như Pháp Gia xưa, cũng cho con người như khúc gỗ,
có thể cắt xén, đẽo gọt. Vì nhận định con người một cách sai lầm, những
chủ thuyết ấy bị gọi là PHI NHÂN. Đối lại, là quan niệm NHÂN TRỊ, được
khai triển trong một bài viết riêng.
Ngày nào còn
con người trong trời đất thì sự đối nghịch giữa cách cai trị Phi Nhân
và quan niệm Nhân Trị vẫn còn mãi. Kinh nghiệm của người xưa về “Đạo
Nhân” luôn hợp thời, luôn mãi soi sáng những ai muốn “LÀM NGƯỜI” một
cách xứng đáng.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/10/nguyen-hoai-van-lao-giao-va-vai-hang-ve.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001