Để đừng quên
Jean-Pierre Han
Dịch giả: Dương Tường
Thành thử giờ đây, ra đời một cuốn sách – và dĩ nhiên, ta chỉ có thể lấy đó làm mừng – Chuyện kể cho những thế kỷ mai sau[1], một
cú bất ngờ hoành tráng của nhà văn tám mươi tuổi Bùi Ngọc Tấn, nổi
tiếng và được công nhận ở Việt Nam hiện nay và cả ở bên ngoài – ông đã
được tặng nhiều giải thưởng chính thức, nhưng không phải vì thế mà ông
không bị rắc rối với các nhà cầm quyền nước ông trong một thời gian dài,
rắc rối đây chỉ là một uyển ngữ. Chuyện kể năm 2000 được viết
vào cuối thế kỉ vừa qua, từ những năm 1990. Bản thảo chạy vòng các nhà
xuất bản cho đến khi một trong số đó, NXB Thanh Niên, đánh liều ấn hành
vào năm 2000, sau khi đã xin được giấy phép. Kết quả đến nhanh chóng:
cuốn sách bị tiêu huỷ theo nghĩa đen, nhưng Giám đốc nhà xuất bản không
bị làm khốn đốn.
Đọc cuốn tiểu thuyết này – tác
giả nói rõ rành đây là một cuốn tiểu thuyết – người ta dễ dàng hiểu tại
sao cái câu “chuyện kể năm 2000” này (đầu đề tiếng Việt của cuốn sách)
là chuyện kể rất tỉ mỉ của một anh chàng Nguyễn Văn Tuấn nào đó, trong
sách được gọi là “hắn”, có thể coi là bản sao của tác giả, nhà báo và
nhà văn trẻ, cũng như ông hồi đó, “cây bút (đã) nổi tiếng trong số các nhà văn trẻ cả nước”, một sự nghiệp sáng sủa mở ra trước mặt hắn cho đến khi hắn bị bắt, đưa đi trại cải tạo vì cớ một trong số bản thảo của hắn đã phê phán chế độ. Điều mà hắn không ngừng phủ nhận – hắn không chịu nhận một lỗi mà hắn không bao giờ phạm – dù phải chịu án tù kéo dài thêm; hắn bị chuyển từ trại này sang trại khác trong 5 năm, từ 1968 đến 1972. Chuyện kể năm 2000 (bản tiếng Pháp) giờ đây ra mắt hai năm sau Biển và chim bói cá, một
cuốn tiểu thuyết tuyệt vời khác của Bùi Ngọc Tấn, mà chúng tôi đã hết
sức ca ngợi cũng ở đây (LF, 90, tháng 2 năm 2012). Vậy là có sự đảo
ngược các sự việc được kể và cũng có một sự triển hoá trong kỹ thuật
tiểu thuyết của tác giả, do đó có thể bị che khuất. Nhưng, như cái công
thức được thừa nhận nói, độc giả sẽ khôi phục trật tự niên đại của các
sự kiện.
Điều đó không mảy may làm mất đi sức mạnh của Chuyện kể năm 2000 (bản tiếng Pháp), vả chăng, cách dịch mới của nhan đề (Chuyện kể cho những thế kỷ mai sau)
đã là một khởi đầu bình luận về tác động của cuốn sách và về tầm quan
trọng mà người ta muốn tiên đoán cho nó, hay chí ít, người ta muốn nó
đạt được. Đó là đặt cuốn sách lên một bình diện tinh thần, hay thậm chí,
mẫu mực tinh thần. Điều mà tác giả (qua trung gian bản sao của mình,
người kể truyện) cố sức phủ nhận suốt những trang sách. Thậm chí sự phủ
nhận quyết liệt ấy làm nên toàn bộ giá trị của cuốn sách, toàn bộ tính
nhân văn của tác phẩm. Nó cũng mang lại cho tác phẩm tính tổng thể của
nó. Bởi vì câu chuyện về những năm “cải tạo” khủng khiếp ấy được kể, dĩ
nhiên là với rất nhiều chi tiết, nhưng bằng một giọng đều đều, hoàn toàn
không gây chút hiệu quả kịch tính nào và tránh cả đến vi lương nhỏ nhất
của hận thù. Vả chăng, người kể truyện nói rõ rằng hắn không nhằm lên án hệ tư tưởng cộng sản. Bản thân hắn, hồi trẻ măng, đã gia nhập quân đội giải phóng, chiến đấu chống Pháp và đến giờ, vẫn trung thành với lý tưởng của mình. Hắn
xuất thân từ một gia đình những người hoạt động danh gia, “một gia đình
chiến sĩ cách mạng từ trước khi cách mạng nổ ra và đã được tặng bằng
‘có công với Tổ quốc’ ”, điều khiến cho việc hắn bị kết tội, do hiệu quả tương phản, càng kinh khủng. Dĩ nhiên, nhân cuốn sách-lời-chứng này, người ta không khỏi gợi đến Quần đảo Goulag
của Soljénitsyne. Nhưng ngoài việc câu chuyện này là một tiểu thuyết,
chứ không phải là một “khảo luận điều tra văn học”, vì cuốn sách của tác
giả người Nga “không có nhân vật, cũng không có những sự kiện hư cấu”,
nên Bùi Ngọc Tấn ưng đặt mình dưới lá cờ của Dostoïevski hơn, lá cờ Nhật ký ngôi nhà những người chết,
như ông đã nhắc lại nhiều lần. Vả lại, câu chuyện về những năm tù thật
sự chỉ chiếm có một nửa tác phẩm (tức là không đầy 400 trang), toàn bộ
phần hai kể lại sự cố gắng trở lại một cuộc sống bình thường mà không
thể được. “Hắn sống trong hiện tại mà luôn luôn nghĩ về quá khứ, về những ngày trước khi bị bắt, về những ngày ở tù, đầu óc hắn
lang thang từ hình ảnh này sang hình ảnh khác”. Từ hiện tại cũ của cái
“lò luyện những tâm hồn” là những năm tù, người ta chuyển qua những cố
gắng không ngừng trở lại quá khứ, và qua những khó khăn để sống cái hiện
tại mới và, tệ hơn nữa, hình dung “những thế kỷ mai sau”. “Cái la bàn
của tâm trí hắn, bất kể hắn nghĩ gì, cuối cùng, bao giờ cũng xoay trở về nhà tù”.
Thận
trọng tránh mọi lâm li, Bùi Ngọc Tấn viết ở tầm cao con người, từ ngòi
bút của ông, hiện lên cả một thế giới đầy những con người (ắt phải mất
không dưới bốn trang gênêric để kể hết tên của họ), được khắc hoạ một
cách không thể quên, trong khi ở chính giữa câu chuyện tối đen này, đột
hiện lên những trang đẹp lạ lùng. Sống và rung động. Và người ta không
thể quên những nhìn nhận và mô tả, rất nhiều, riêng biệt về người vợ của
người kể truyện, những mô tả đầy âu yếm và tình yêu. Nói gì đây về một
cuốn tiểu thuyết kinh hoàng, bắt đầu, bất chấp tất cả, bằng những câu
như sau: “Có những điều hắn tưởng không bao giờ quên được. Ấy thế rồi hắn đã quên”.
Vậy thì: toàn bộ những trang này, toàn bộ tác phẩm này, là để đừng
quên, hay đơn giản là để mở những cánh cửa ra “những thế kỷ mai sau”.
J.P.H.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Nguồn bản gốc: Phụ lục L’Humanité 10/10/2013
[1] Bản dịch tiếng Pháp Chuyện kể năm 2000 lấy tên là Conte pour les siècles à venir.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:25
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/e-ung-quen-jean-pierre-han.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001