Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc sẽ chấp nhận Việt Nam?
Trụ sở văn phòng Liên hiệp Quốc tại Genève - DR
Việt
Nam hiện đang là ứng cử viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc khóa
2014-2016, và cuộc bỏ phiếu diễn ra ngày hôm nay 12/11/2013. Hiện đã có
những kháng thư của các nhà hoạt động và tổ chức bảo vệ nhân quyền của
nhiều nước gởi đến các đại diện của Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu tại Liên
Hiệp Quốc kêu gọi phản đối một số ứng viên trong đó có Việt Nam vì
không đáp ứng tiêu chuẩn về bảo vệ nhân quyền.
RFI Việt ngữ đã đặt câu hỏi với nhà bình luận Phạm Chí Dũng tại Thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề này.
RFI: Thân
chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Anh nhận xét thế nào về việc Việt Nam
ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, nhất là đang
có những kháng thư phản đối ?
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng:
Theo tôi là tất nhiên phải có sự phản đối của dư luận quốc tế ở đây. Vì
Việt Nam đang đứng gần như chót bảng theo xếp hạng của tổ chức Ân xá
Quốc tế về vấn đề nhân quyền và dân chủ, cho nên tất nhiên phải có sự
phản kháng, mà thậm chí phản kháng quyết liệt. Người ta không cho là
Việt Nam xứng đáng vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Cho
nên bây giờ đánh giá việc Việt Nam tham gia ứng cử vào Hội đồng Nhân
quyền Liên Hiệp Quốc là có hợp lý hay không, và có được thông qua hay
không, thì đây là một ẩn số. Hiện nay cũng có mấy luồng quan điểm. Luồng
quan điểm thông thường cho là Việt Nam không nên và không xứng đáng
được vào. Còn một luồng quan điểm khác, dĩ nhiên là từ Nhà nước Việt Nam
và một số « dư luận viên » nào đó thì cho là Việt Nam hoàn toàn xứng
đáng. Chúng ta có thể đọc trên một số tờ báo Đảng như Nhân dân, Quân đội
Nhân dân, Đại đoàn kết, Sài Gòn Giải phóng mấy ngày gần đây thì có thể
thấy « Việt Nam đã tôn trọng nhân quyền và dân chủ quốc tế » như thế nào
trong những năm qua.
Điều đó dẫn tới có một tín
hiệu là vừa qua, ngày 7/11 diễn ra việc Việt Nam chính thức tham gia
vào Công ước quốc tế chống tra tấn. Theo đánh giá của tôi, đây là một sự
việc bất ngờ! Bất ngờ không hẳn đối với dư luận quốc tế, mà đối với
chính dư luận trong nước. Vì sao? Đó là vì gần như trong nước không hề
được thông tin về Công ước quốc tế chống tra tấn và việc Việt Nam tham
gia ký kết Công ước này. Ký ngày 7/11 nhưng cho tới nay, theo tôi biết,
hầu như không có thông tin trên mặt báo Đảng, trên báo chí trong nước.
Điều
này cho thấy hoặc là Việt Nam không thừa nhận việc mình làm, hoặc là có
thái độ như thế nào đó – tôi cho là xấu hổ - về việc Nhà nước Việt Nam
lại đi tham gia ký kết một Công ước có phần nào đó không phù hợp với
những điều mà họ đã làm từ trước tới nay. Có phải là như vậy hay không ?
Nhưng dù sao đó cũng là một sự bất ngờ, và thực ra nếu xét theo lộ
trình quốc tế thì không phải bất ngờ.
Đó là vì
vào ngày 27/08/2013 vừa qua, phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên
Hiệp Quốc đã chính thức công bố 14 cam kết về nhân quyền của chính phủ
Việt Nam trước chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong đó có mấy nội
dung quan trọng nhất là : thông qua các chính sách và biện pháp để đảm
bảo tốt hơn tất cả các quyền căn bản về kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự
và chính trị theo thông lệ quốc tế đã công nhận. Và lời cam kết số 13
là hoàn thành thủ tục nhanh chóng tham gia Công ước chống tra tấn.
Lời
cam kết này khá thú vị, nội dung của nó cho thấy chính quốc tế đã và
đang thúc giục Việt Nam phải nhanh chóng làm thủ tục tham gia vào Công
ước chống tra tấn của quốc tế, chứ không phải là Việt Nam chủ động muốn
tham gia vào việc này.
Và theo tôi được biết,
việc quốc tế thúc giục cũng đã diễn ra từ lâu, nhưng Nhà nước Việt Nam
vì nhiều lý do, đã có nhiều sự lần lữa. Thành thử cho tới trước ngày
7/11 đã không góp mặt trong bản Công ước này, mà chỉ chờ có một tác
động, một tín hiệu, động thái nào đó từ phía quốc tế thì Việt Nam mới ký
kết. Ký chỉ có năm ngày trước khi Việt Nam chính thức lên diễn đàn của
Liên Hiệp Quốc để có thể xét việc được thông qua hay không thông qua vào
Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Tôi cho là
Việt Nam tham gia ký kết Công ước chống tra tấn là một tín hiệu vừa bất
ngờ lại vừa không bất ngờ, là một dấu hiệu cho thấy Việt Nam có khả năng
đang đặt một chân vào vòng chung kết của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp
Quốc.
RFI: Theo anh thì tại sao Việt
Nam phải lần khân như thế, có phải vì gần đây xảy ra hiện tượng người bị
bắt «tự chết» trong đồn công an?
Chuyện «tự
chết» trong đồn công an đã xảy ra từ năm 2010 tới giờ, một cách tương
đối phổ biến và tần suất cao. Đặc biệt là từ những năm 2011 khi tình
hình kinh tế suy thoái thì cũng đồng thời xảy ra một số cái chết dồn dập
trong đồn công an và nạn bạo hành trong các trại giam, chứ không phải
là trước đây không có.
Vấn đề trước đây cũng đã
đặt ra nhưng Việt Nam không tham gia ký kết, gần đây mới ký thì theo tôi
không phải là việc xảy ra những chuyện dồn dập như trên và do áp lực
của dư luận trong nước.
Thực ra trong nước cũng
có áp lực - báo chí có nêu ra vấn đề này như là một vấn nạn, nhưng không
đủ lớn, mà cái này là chính từ tác động của quốc tế, từ Mỹ và các nước
phương Tây. Điều này lại liên quan tới một số vấn đề về ngoại giao, đối
ngoại, chính trị và kinh tế mà Nhà nước Việt Nam không thể bỏ qua được.
Do vậy mới có chuyện mà, tôi nhắc lại, tháng Tám vừa rồi Việt Nam đã
chính thức đưa ra 14 lời cam kết trước Liên Hiệp Quốc.
Nhưng
cũng rất đáng lưu ý là 14 lời cam kết này hoàn toàn không được thông
tin cho báo chí trong nước. Cho tới giờ người dân trong nước tuyệt đại
đa số vẫn không biết Công ước chống tra tấn là cái gì, không biết 14 lời
cam kết của Nhà nước Việt Nam trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc là gì.
Thậm chí Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Nhà nước
Việt Nam đã tham gia ký kết vào năm 1982, cho tới nay tôi đoán chắc cũng
rất nhiều người không biết đó là cái gì cả.
Cho
nên tôi cho là chủ yếu đây là tác động quốc tế, và tác động này liên
quan đến quyền lợi trực tiếp của Nhà nước Việt Nam. Liên quan đến những
vấn đề kinh tế - chẳng hạn như là hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái
Bình Dương, hay là vai trò của người Mỹ ở khu vực Biển Đông, thì Nhà
nước Việt Nam mới có thể tham gia ký kết một cách nhanh chóng như vậy.
Và
điều này cũng khá là logic với một số sự kiện khác, nếu chúng ta chịu
khó nhìn lại. Đó là cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ vào tháng 4/2013.
Sau khi cuộc đối thoại vào tháng 12/2012 đã bị phía Mỹ đột ngột ngưng
lại thì đến tháng Tư tái lập trở lại, và sau đó ba tháng đã diễn ra cuộc
gặp giữa Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Mỹ Barack
Obama.
Trong một cuộc gặp với một viên chức
chính trị Hoa Kỳ gần đây, tôi cũng được nghe viên chức đó nói với tôi
rằng ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã cam kết với Tổng thống Barack
Obama về một số nội dung nhân quyền mà Việt Nam phải bảo đảm.
Có
thể nói là chuyến đi sang Việt Nam vừa rồi của Quyền phó trợ lý Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Scott Busby, tôi cho thực chất là một chuyến đi «đòi nợ».
Tức là những gì mà Nhà nước Việt Nam đã hứa với chính phủ Hoa Kỳ về vấn
đề nhân quyền và dân chủ nhưng chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ
hoặc khá chậm trễ. Gần như là người Mỹ đang phải hối thúc Nhà nước Việt
Nam phải thúc đẩy nhiều hơn nữa tiến độ thực hiện một số vấn đề về nhân
quyền, về dân chủ.
Từ giữa năm nay đến giờ nếu
coi việc bắt giữ là một biểu hiện rõ rệt nhất để đánh giá vấn đề nhân
quyền ở Việt Nam, thì không thấy bắt giam thêm một trường hợp nào nữa mà
chỉ câu lưu trong vòng 24 hoặc 36 tiếng đồng hồ, sau đó thả ra.
Như
vậy có thể thấy là Nhà nước Việt Nam đang quan tâm tới vấn đề vào Hội
đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc như thế nào. Khi tham gia Hội đồng Nhân
quyền Liên Hiệp Quốc, dĩ nhiên Nhà nước Việt Nam họ có mục đích của họ:
để khôi phục vị thế đối ngoại và ngoại giao trên trường quốc tế hoặc là
muốn phục hồi lại lòng tin của dân chúng. Mà lòng tin của dân thì vốn đã
suy giảm trầm trọng trong những năm qua, đặc biệt kể cả lòng tin của
cán bộ và đảng viên đối với Đảng.
Một mục tiêu
không kém quan trọng nữa là phải bằng mọi cách phục hồi nền kinh tế, vốn
đã bị suy giảm quá trầm trọng và đặt một chân vào hố khủng hoảng như
hiện nay.
RFI: Lúc nãy anh có nói Việt
Nam có lẽ đã đặt một chân vào vòng chung kết của Hội đồng Nhân quyền
Liên Hiệp Quốc, như vậy theo anh có những kịch bản nào cho Việt Nam lần
này?
Những kịch bản đó chủ yếu phụ thuộc vào
quan điểm của Mỹ và phương Tây, trong việc đánh giá Việt Nam có thể vào
được Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc hay không.
Tôi
muốn nhắc lại sự kiện gần đây nhất là đầu tháng 11 ông Quyền phó trợ lý
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Scott Busby đã đến Việt Nam làm việc với một số
quan chức Việt Nam về vấn đề nhân quyền. Có vẻ như là sau cuộc gặp này
thì ông Busby đã không hoàn toàn hài lòng, hoặc là không hài lòng. Theo
tôi cảm nhận thì mọi chuyện vẫn gần như là không có chuyển biến gì từ
sau cuộc gặp của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang với Tổng thống Mỹ Barack
Obama, về những cam kết về dân chủ và nhân quyền.
Trong
quan điểm của người Mỹ, thì tôi nghĩ là họ không quên Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị năm 1982 mà Nhà nước Việt Nam đã ký kết
đâu! Vì sau Công ước đó thì tình hình Việt Nam cũng không có gì chuyển
biến, và thực chất chỉ đến năm 1995, tức là 13 năm sau thì quan hệ giữa
hai Nhà nước cựu thù mới được tái lập. Nhưng mà cũng phải đến 5 năm sau
thì Hiệp định song phương Việt-Mỹ mới được ký kết, và 6 năm sau nữa tức
là đến năm 2006, thì cánh cửa Nhà Trắng lần đầu tiên mới mở ra cho một
nguyên thủ quốc gia Việt Nam là ông Nguyễn Minh Triết.
Và
bài học nữa mà người Mỹ họ không quên và các nước phương Tây cũng vậy,
là việc Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm
2007. Trước đó Việt Nam đã có sự vận động rốt ráo đối với một số tổ chức
quốc tế và các Nhà nước trên thế giới để có thể tham gia vào WTO. Do
vậy người Mỹ đã nhấc Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm
đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo (CPC). Nhưng sau khi được ra khỏi
danh sách này và trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế
giới, thì Việt Nam bị các nước phương Tây đánh giá là bất nhất về mặt
chính trị. Đến mức mà sau đó họ bắt giữ một loạt các nhân vật lãnh đạo
các tổ chức đối lập đã hình thành trước năm 2006, chẳng hạn như là khối
8406.
Như vậy lịch sử cũng có thể dẫn tới hiện
tại. Có thể sẽ không có gì thay đổi nếu như lần này Việt Nam được thỏa
mãn một số điều kiện về chiếc ghế ở trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp
Quốc, và kể cả trở thành một thành viên mới của Hiệp định đối tác kinh
tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Như vậy quan
điểm của người Mỹ như thế nào? Tôi cho là người Mỹ vẫn còn rất dè dặt
trong vấn đề Hội đồng Nhân quyền. Cũng cần phải nói thêm là cho tới nay,
trong số 14 lời cam kết của Nhà nước Việt Nam trước Chủ tịch Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc, thì vẫn có những lời hứa có thể nói hoàn toàn còn
mơ màng, và những lời hứa vẫn chưa thực hiện.
Chẳng
hạn tôi có thể liệt kê, đó là những cam kết «tiếp tục cải thiện hệ
thống luật pháp và tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền, kiện toàn các
thiết chế trong nước và bảo vệ nhân quyền, bao gồm việc có thể thành lập
một cơ quan nhân quyền quốc gia». Thực ra trong Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp trình Quốc hội trong kỳ họp lần này hoàn toàn không có Nhà nước
pháp quyền. Trong kế hoạch - ít nhất là đưa ra công khai trên mặt báo -
cũng chưa có thông tin nào về một cơ quan nhân quyền quốc gia.
Thứ
hai nữa là lời cam kết tiếp tục thực hiện những khuyến nghị Việt Nam đã
chấp nhận trong việc kiểm điểm định kỳ năm 2009, thì cho tới nay cũng
chưa thấy thông tin nào cả. Dường như Nhà nước Việt Nam tỏ ra «bẽn lẽn»,
«xấu hổ» sao đó mà họ không công bố những thông tin này trên báo chí.
Còn
một thông tin khác là tăng cường dân chủ cơ sở và sự tham gia của người
dân vào việc lập kế hoạch, thực thi chính sách cải thiện sự gắn kết của
Việt Nam với các tổ chức chính trị xã hội làm việc trong lãnh vực nhân
quyền. Thực chất đây chính là vấn đề xã hội dân sự để Việt Nam tham gia,
và các Nhà nước phương Tây đang thúc đẩy.
Một
nội dung nữa là tăng cường hợp tác và đối thoại với các cơ chế nhân
quyền Liên Hiệp Quốc, đặc biệt với các ủy ban Công ước và văn phòng Cao
ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Các thủ tục đặc biệt bao gồm việc có thể
mời thêm chuyên gia đến thăm Việt Nam. «Chuyên gia đến thăm Việt Nam»
chúng ta có thể hiểu là thăm về vấn đề nhân quyền và dân chủ - có nghĩa
là thăm các trại giam. Vấn đề là như vậy!
Đây có lẽ chính là những vấn đề mà người Mỹ đang rất băn khoăn.
Khả
năng vào được Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vào ngày 12/11 theo
tôi là nhỉnh hơn khả năng ra một chút. Tức là Việt Nam vẫn có khả năng
vào, nhưng vào một cách khó khăn.
Ngoài ra còn
có kịch bản khác là đa số các nước trong Liên Hiệp Quốc không đồng ý.
Điều đó đã diễn ra trong quá khứ rồi. Có nghĩa là đưa ra chỉ có một
trường hợp (ứng viên) thôi nhưng các nước khác không chịu, họ tỏ ra cứng
rắn và yêu cầu phải đưa ra một ứng cử viên khác. Thì cũng không loại
trừ trong trường hợp này Việt Nam bị loại, và Liên Hiệp Quốc sẽ đề nghị
khu vực châu Á-Thái Bình Dương đưa ra một ứng cử viên khác ngoài Việt
Nam.
Trong trường hợp đó, Nhà nước Việt Nam muốn
vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cần phải có một thời gian, được
coi là «thời gian thử thách».
RFI: Xin chân thành cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng đã vui lòng dành thì giờ trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.
Nguồn: Viet.rfi.fr
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 03:13
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/hoi-ong-nhan-quyen-lien-hiep-quoc-se.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001