Xếp loại các chế độ chính trị
Alexandre Roger, Phan Thành Đạt
Giới thiệu chung
Chế
độ chính trị là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố: Các nguyên tắc về
luật pháp như Hiến pháp quy định đặc điểm của thể chế chính trị và các
nguyên tắc khác như hệ thống các đảng phái, các cá nhân nắm giữ quyền
lực, hệ tư tưởng...
Chế độ chính trị thể hiện cách tổ chức các cơ quan trong một Nhà nước nhất định. Mỗi chế độ chính trị đều có các quan điểm khác nhau về chủ quyền, về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, về các nguyên tắc mà nhà lãnh đạo phải tuân theo. Chế độ chính trị quy định nhiệm vụ của các cơ quan công quyền và định hướng các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Chế độ chính trị phản ánh các đặc điểm cơ bản của toàn bộ hệ thống hành chính của mỗi nước.
Chế độ chính trị thể hiện cách tổ chức các cơ quan trong một Nhà nước nhất định. Mỗi chế độ chính trị đều có các quan điểm khác nhau về chủ quyền, về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, về các nguyên tắc mà nhà lãnh đạo phải tuân theo. Chế độ chính trị quy định nhiệm vụ của các cơ quan công quyền và định hướng các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Chế độ chính trị phản ánh các đặc điểm cơ bản của toàn bộ hệ thống hành chính của mỗi nước.
Người Hy
Lạp trước Công nguyên đã tiến hành xếp loại các chế độ chính trị dựa
theo một số tiêu chuẩn về số lượng người tham gia vào các hoạt động
chính trị, xã hội ở các thành bang. Các nhà tư tưởng thời Trung cổ như
Machiavel, Jean Bodin đã đưa ra các tiêu chuẩn nhằm đánh giá chế độ quân
chủ và chế độ cộng hòa. Các nhà triết học thời kỳ ánh sáng đã tiến hành
phân loại các kiểu chế độ chính trị tồn tại trong suốt thời kì Trung cổ
đến giai đoạn Cách mạng Pháp 1789. Montesquieu là đại diện tiêu biểu
của thời kì ánh sáng, ông đã thành công trong việc phân loại các chế độ
khác nhau dựa trên các tiêu chuẩn mới, khác với Aristote.
Trên
thế giới hiện nay có gần 200 quốc gia độc lập, mỗi nước đều có chế độ
chính trị riêng. Sự đa dạng văn hóa, tôn giáo ảnh hưởng rất lớn đến việc
chọn lựa và xây dựng thể chế. Ví dụ các nước Ả Rập đều lấy đạo hồi là
quốc giáo, các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp dựa theo giáo lí của kinh
Coran. Nhà luật học và chính trị học Bernard Chantebout cho rằng các giá
trị dân chủ của phương Tây khác với các nguyên tắc của đạo hồi. Cho nên
nếu đánh giá thể chế chính trị của các nước Trung Đông dựa theo các
tiêu chuẩn của phương Tây, các chuyên gia có thể kết luận rằng các nước
hồi giáo không có dân chủ, nhưng các nhà lãnh đạo ở các nước này lại
khẳng định các giá trị dân chủ dựa trên tôn giáo vẫn được đảm bảo. Chế
độ chính trị ở mỗi nước đều có các đặc điểm khác nhau và quan điểm về
dân chủ cũng khác nhau.
Nền dân chủ phương Tây
(Mỹ và Châu Âu) có ảnh hưởng lớn đối với các nước đang phát triển, và là
hình mẫu cho các nước này. Bảo vệ quyền con người, xây dựng Nhà nước
pháp quyền, xây dựng nền kinh tế thị trường... là các điều kiện cơ bản
của thể chế chính trị phương Tây. Những đặc điểm nổi bật của chế độ
chính trị sẽ chứng minh mỗi nước có dân chủ hay không, dựa trên các phân
tích, các nhà nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ tính ưu việt hay bất cập
của các thể chế.
Chế độ chính trị được phân loại theo 3 tiêu chí sau:
I. Phân loại chế độ chính trị theo quan điểm truyền thống.
II. Phân loại chế độ chính trị theo cách xây dựng các thiết chế.
III. Phân loại chế độ chính trị theo quan điểm xã hội học và triết học hiện đại.
I. Xếp loại chế độ chính trị theo quan điểm truyền thống
Các
nhà triết học thời Hy Lạp cổ đại và thời kỳ ánh sáng xếp loại các thể
chế chính trị tồn tại trong giai đoạn họ đã sống, họ có dịp quan sát và
đưa ra nhiều đánh giá thú vị về các mô hình nhà nước. Các nhà tư tưởng
lớn đã có nhiều công lao, góp phần vào việc hoàn thiện các thể chế chính
trị thời cổ đại (A), các công trình của họ có ảnh hưởng lớn đến triết
học thời kì ánh sáng, khi các nhà luật học và các nhà chính trị học bàn
về đặc điểm của các thể chế chính trị sau này (B), họ đối chiếu với các
nguyên tắc đã được xây dựng từ trước.
A. Chế độ chính trị theo quan điểm triết học Hy Lạp
Từ
Polybe đến Platon, các nhà tư tưởng thời Hy Lạp cổ đại đều có ý định
xếp loại các chế độ chính trị bằng cách quan sát cách thức tổ chức bộ
máy ở các thành bang. Họ phân loại thể chế chính trị theo số lượng người
nhiều hay ít, có quyền tham gia vào bộ máy điều hành Nhà nước hay
không. Họ đưa ra đánh giá một Nhà nước tốt đẹp hay tồi tệ dựa trên phẩm
chất của người có quyền lực và vai trò của họ trong việc ban hành các
chính sách quan trọng. Nếu quyền lực thực thi, đem lại lợi cho toàn bộ
cộng đồng, đó sẽ là Nhà nước tốt đẹp, nếu quyền lực chỉ để phục vụ lợi
ích cho một nhóm người, đó sẽ là nhà nước xấu xa. Aristote nghiên cứu
các bản Hiến pháp của 150 thành bang trong thế kỷ thứ IV trước Công
nguyên (mỗi thành bang thời Hy Lạp cổ là một Nhà nước riêng biệt). Ông
chia ra hai loại Hiến pháp cơ bản: Hiến pháp hư hỏng hay còn gọi là Hiến
pháp chệch đường, loại Hiến pháp này trao quyền hành và ban phát lợi
ích cho một nhóm người, thiết lập một thể chế chính trị tệ hại. Hiến
pháp đúng đắn bảo đảm các lợi ích chung cho toàn thể các nhóm người
trong xã hội, nhằm đem lại hạnh phúc cho con người. Loại Hiến pháp này
sẽ tạo điều kiện hình thành một chế độ chính trị tốt đẹp. Aristote xây
dựng ba kiểu chế độ chính trị:
-Chế độ quân chủ,
do nhà vua đứng đầu, người đứng đầu chịu trách nhiệm điều hành đất
nước, ban ra các điều luật buộc mọi người phải tuân theo, người đứng đầu
phải luôn hành động vì lợi ích chung của nhân dân. Khi vua không thực
hiện tốt bổn phận của mình, chế độ quân chủ sẽ chuyển thành chế độ bạo
chúa hay hôn quân.
-Chế độ quý tộc do một nhóm
người điều hành, họ là những người ưu tú được tuyển trọn trong các gia
đình có thế lực, họ điều hành đất nước bằng luật pháp nhằm duy trì trật
tự và bảo vệ quyền lợi cho chính họ và gia đình sau đó bảo vệ quyền lợi
của những nhóm người khác nhau. Chế độ này có thể chuyển hóa thành chế
độ đầu sỏ độc tài.
-Chế độ dân chủ, do nhiều
nhóm người lãnh đạo luân phiên nhau, thông qua hình thức lựa chọn bốc
thăm, và bầu cử các đại diện cao nhất nắm giữ các chức vụ chủ chốt. Công
dân vừa là người lãnh đạo vừa là người phải tuân theo các điều luật của
Nhà nước, tuy nhiên mỗi công dân trong đời đều có điều kiện làm lãnh
đạo 1 năm theo tính chất luân phiên. Chế độ dân chủ có thể chuyển hóa
thành chế độ dân đen lãnh đạo (la populace au pouvoir ou l’ochlocratie)
vì nhiều người thiếu hiểu biết vẫn có cơ hội điều hành đất nước, điều
này khiến Platon và Aristote luôn tỏ ra nghi ngờ về chế độ dân chủ thời
Hy Lạp cổ.
Các nhà tư tưởng thời kỳ Trung cổ và
dưới Chế độ cũ có nhiều công lao hoàn thiện việc xếp loại các thể chế
chính trị được các nhà triết học Hy Lạp xây dựng.
B. Chế độ chính trị theo quan điểm của Montesquieu
Nhà
luật học Jean Bodin và nhà triết học Thomas Hobbes xây dựng lí thuyết
mới để củng cố quyền lực cho chế độ quân chủ chuyên chế. Với mục đích đề
cao quyền lực của vua, giúp vua thoát khỏi cái bóng ảnh hưởng của giáo
hội La Mã, các nhà tư tưởng thời Trung cổ và thời Chế độ cũ (l’Ancien
Régime) định ra các nguyên tắc và các đặc điểm cho chế độ quân chủ: Vua
phải luôn hành động vì lợi ích chung để bảo vệ cuộc sống và nền hòa bình
của nhân dân cũng như duy trì các trật tự xã hội, do đó quyền hành của
vua cao hơn tất cả.
Ở thời kì ánh sáng, thế kỉ XVII, XVIII, Montesquieu trong tác phẩm Tinh thần luật, 1748,
xây dựng ba kiểu chế độ chính trị: Chế độ quân chủ, đứng đầu là nhà
vua, nhân vật này lãnh đạo đất nước bằng danh dự. Chế độ cộng hòa, do
một chính quyền đại diện gồm các cá nhân ưu tú được tín nhiệm qua hình
thức lựa chọn, chế độ này lãnh đạo đất nước dựa trên các tiêu chuẩn đạo
đức. Chế độ chuyên chế áp bức lãnh đạo đất nước bằng cách gieo rắc sợ
hãi để giữ ổn định. Chế độ quân chủ và chế độ cộng hòa đều có thể chuyển
thành chế độ độc tài áp bức. Nếu Aristote phân loại thể chế chính trị
theo số lượng người nắm giữ quyền lực, Montesquieu tiến thêm một bước xa
hơn, bằng cách phân tích các thể chế chính trị dựa trên các thuộc tính
vốn có của nó. Quan điểm của Montesquieu có ảnh hướng đến việc phân loại
các chế độ chính trị dân chủ và phi dân chủ trong giai đoạn hiện đại.
Ví dụ khi nhận định các chế độ theo hệ tư tưởng Đức quốc xã, theo chủ
nghĩa fasciste, staliniste hay maïste là các thể chế độc tài được cai
trị bằng dối trá và sợ hãi, phân tích của Montesquieu khá đúng, vì trong
các thể chế này, hệ tư tưởng và tình cảm sùng bái lãnh tụ được đặc biệt
chú trọng. Nếu sự dối trá bị phát hiện, sự sợ hãi sẽ thế chỗ, khiến con
người không dám phản kháng và buộc phải ngoan ngoãn tuân theo.
Chế
độ chính trị trong thời kỳ hiện đại rất đa dạng về cách thức tổ chức
quyền lực, các nhà nghiên cứu sắp xếp theo các tiêu chuẩn khác nhau, kết
quả là có nhiều quan điểm về các thể chế chính trị.
II. Xếp loại thể chế chính trị theo cách thức tổ chức quyền lực
Các
học giả người Pháp xếp loại chế độ chính trị bằng cách quan sát cách
thức tổ chức quyền lực của các cơ quan nhà nước, từ đó họ nhận biết chế
độ chính trị theo nguyên tắc quyền lực tập trung (A) hay chế độ chính
trị theo nguyên tắc tam quyền phân lập (B). Đây là phương pháp xếp loại
tổng quát, cần có các cách phân tích và xếp loại chi tiết hơn.
A. Chế độ chính trị theo nguyên tắc quyền lực thống nhất
Đa
số các quốc gia không chú ý phân chia quyền lực minh bạch, rõ ràng, đều
theo nguyên tắc thống nhất về quyền lực dưới hình thức dân chủ tập
trung, đây là nguyên nhân khiến cả hệ thống chính trị hoạt động thiếu
dân chủ. Các cơ quan lập pháp hành pháp và tư pháp không có tính độc lập
tương đối, quyền lực không tách biệt do một người hay một nhóm người
nắm giữ.
Các chế độ độc tài hay độc đoán còn
được gọi là các chế độ hội nghị có đặc điểm khá giống với chế độ bạo
chúa chuyên quyền và chế độ đầu sỏ theo định nghĩa của Aristote và
Montesquieu trước đây. Khi quyền lực tập trung không có cơ chế kiểm soát
hiệu quả, các nhà lãnh đạo có xu hướng lạm quyền, kết quả là quyền con
người và các giá trị dân chủ bị vi phạm nặng nề. Khi quan sát hệ thống
chính trị vẫn đang tồn tại ở một số nước, nếu nhiệm vụ giám sát các đạo
luật vi hiến không được tiến hành, hay nguyên tắc tam quyền phân lập
không được tôn trọng, khi chỉ có một đảng được phép điều hành đất nước
mà không có cạnh tranh chính trị, ở các quốc gia đó sẽ không có dân chủ,
cho dù quốc hiệu luôn đi kèm với từ dân chủ. Ví dụ khái niệm nền dân
chủ nhân dân để chỉ các nước Đông Âu và Liên bang Xô viết trước đây, hay
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên hiện nay.
Chế
độ độc tài có một số đặc điểm sau: Các nhà lãnh đạo có quyền hành pháp
và lập pháp, tư pháp không có vị trí độc lập và phụ thuộc vào cơ quan
hành pháp. Những người có quyền ban ra các đạo luật và thi hành luật
theo kiểu độc đoán, tư pháp trở thành công cụ trong tay họ. Tập trung
quyền lực gây ra những hậu quả nghiêm trọng, xã hội dân sự tồn tại ở mức
độ hình thức, vì con người không có không gian riêng, Nhà nước can
thiệp vào mọi lĩnh vực. Nền chính trị với sự góp mặt của nhiều đảng phái
không tồn tại, chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo, tiếng nói đối lập bị
ngăn cản. Con người bị huy động và phải theo các chính sách của Nhà nước
được một nhóm người quyết định. Công dân không có quyền phản kháng.
Đảng duy nhất cầm quyền trở thành Nhà nước, có sự nhầm lẫn về khái niệm
đảng-Nhà nước. Các đặc điểm trên đều dễ nhận thấy trong các chế độ
fasciste, Đức quốc xã, hay chế độ chính trị theo hệ tư tưởng Mác-Lênin
và Mao.
Chế độ độc đoán là một giai đoạn chuyển
giao từ độc tài sang dân chủ, (không ngoại trừ khả năng thể chế này lại
trở lại độc tài như cũ). Tuy nhiên thể chế chính trị này có một số nét
khá giống với chế độ độc tài. Quyền lực cũng tập trung trong tay một
người hay một nhóm người, các nhà lãnh đạo có quyền quyết định tất cả
mọi việc lớn nhỏ của đất nước do cơ chế quyền lực tập trung, thiếu kiểm
soát. Có thể có đối lập chính trị, nhưng ảnh hưởng của phe đối lập bị
giới hạn. Các quyền tự do cá nhân bị hạn chế đến mức tối đa, một khi các
quyền này ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Quyền lực của tòa án bị
kiểm soát, các quan tòa không có quyền phê phán tính chính danh của chế
độ và vai trò của những người lãnh đạo. Cơ chế giám sát các đạo luật để
bảo vệ Hiến pháp không được áp dụng, các nguyên tắc đảm bảo sự tồn tại
của Nhà nước pháp quyền không được coi trọng. Tất cả những yếu tố này
trở nên vô ích và nguy hiểm đối với nhà lãnh đạo vì quyền lực của họ sẽ
bị hạn chế. Chế độ độc đoán còn có điểm tựa là chủ nghĩa dân tộc, tôn
giáo, quân đội và tinh thần sùng bái lãnh tụ. Ví dụ trường hợp của Thổ
Nhĩ Kì dưới thời Mustafa Kemal Atatürk, Tây Ban Nha dưới thời Franco, Bồ
Đào Nha thời Salazar và Chile của Augusto Pinochet...
Cho
dù là chế độ độc tài, độc đoán hay dân chủ, giới cầm quyền đều đưa ra
các khẩu hiệu rất hấp dẫn để tạo tính chính danh và lấy lòng nhân dân.
Các cơ quan công quyền và các công trình phúc lợi đều gắn nhãn mác "nhân
dân" Ví dụ các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, được gọi là nền dân chủ
nhân dân, ở Bắc Triều Tiên có quảng trường nhân dân, thư viện nhân dân,
nhà hát nhân dân...Ở các nước tư bản khẩu hiệu được ghi trong Hiến pháp
là Nhà nước của dân do dân và vì dân hay chủ quyền thuộc về nhân dân
(ví dụ điều 2, Hiến pháp Pháp năm 1958, điều 1, Hiến pháp Ý năm 1947,
điều 1, Hiến pháp Tây Ban Nha, năm 1978), nhưng thực tế không phải chính
sách nào cũng vì lợi ích của toàn bộ nhân dân mà trước hết vì lợi ích
của các tập đoàn kinh tế lớn, vì quyền lợi của các nhóm người có ảnh
hưởng trong xã hội tư bản. Tuy vậy quyền con người và các nguyên tắc duy
trì nền dân chủ vẫn được đảm bảo ở các quốc gia phương Tây một khi
nguyên tắc tam quyền phân lập được tuân thủ.
B. Các chế độ chính trị theo nguyên tắc tam quyền phân lập
Thể
chế chính trị của Châu Âu và Mỹ dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập.
Cân bằng và phân bổ quyền lực hợp lí giữa các cơ quan luôn được đảm
bảo, cơ chế "check and balance" là đặc điểm nổi bật trong thể chế dân
chủ. Theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để, hay tam quyên phân lập
tương đối không có nghĩa là không có sự hợp tác nào giữa các cơ quan
hành pháp, lập pháp và tư pháp. Hiện nay có ba kiểu chế độ chính trị
cùng tồn tại ở hai bờ Đại Tây Dương, bao gồm chế độ tổng thống, chế độ
nghị viện và chế độ hỗn hợp. Các nước đang phát triển trên thế giới lựa
chọn mô hình chính trị của phương Tây, nhưng do các điều kiện kinh tế
chính trị và xã hội chưa đáp ứng được, nên thể chế chính trị tại các
nước này đều có ít nhiều biến thái.
Chế độ tổng
thống ở Mỹ có một số nét tiêu biểu, khác với chế độ chính trị của Châu
Âu. Tổng thống không có quyền giải tán Hạ viện. Nghị viện (gồm Thượng
viện và Hạ viện) không có quyền bãi chức Tổng thống trừ trường hợp phạm
tội phản bội đất nước, tham nhũng hay phạm các trọng tội về hình sự
(điều 2, khoản 4, Hiến pháp Mỹ, năm 1787). Chính phủ đứng đầu là Tổng
thống và Phó Tổng thống không chịu trách nhiệm trước Nghị viện vì nước
Mỹ theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để. Nếu không có các biện
pháp đối trọng gây sức ép như trong chế độ nghị viện, Hiến pháp Mỹ ghi
nhận một số ảnh hưởng giữa các cơ quan hành pháp và lập pháp. Tổng thống
có quyền phủ quyết các dự luật, trong khi Nghị viện có thể từ chối
không thông qua luật ngân sách và phủ quyết các hiệp ước quốc tế mà Tổng
thống mong muốn kí kết.
Trong chế độ nghị viện,
chính phủ được đảng phái chiếm đa số tại Nghị viện bầu ra và ủng hộ các
chính sách của cơ quan này. Các phương tiện gây sức ép giữa cơ quan
hành pháp và lập pháp luôn tồn tại và phải ở vị thế cân bằng, nếu không
chế độ sẽ mất ổn định. Nghị viện (thường là Quốc hội hay Hạ viện) có
quyền lật đổ chính phủ, một chính phủ mới sẽ được thành lập để đáp ứng
tốt hơn các đòi hỏi từ phía cơ quan lập pháp. Tổng thống hay vua có thể
giải tán Quốc hội, để nhân dân bầu lại một Quốc hội mới có đa số ủng hộ
chính phủ. Quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm và quyền giải tán Nghị viện là
hai thứ vũ khí lợi hại, tạo sức ép lớn lên hai cơ quan hành pháp và lập
pháp, buộc hai cơ quan này phải làm tốt nhiệm vụ của mình, nếu không sẽ
bị thay thế. Anh, Đức, Tây Ban Nha và các nước Bắc Âu là những nền dân
chủ tiêu biểu theo chế độ nghị viện.
Chế độ hỗn
hợp là thể chế chính trị có đặc điểm của chế độ tổng thống và chế độ
nghị viện. Các phương tiện gây sức ép giữa Quốc hội và chính phủ chỉ tồn
tại trên hình thức. Cơ quan hành pháp được đa số tại Nghị viện ủng hộ.
Tổng thống được nhân dân bầu trực tiếp và có vị thế ngang bằng với Quốc
hội, điều này khác biệt với chế độ nghị viện truyền thống. Ví dụ tiêu
biểu về thế chế chính trị đặc biệt này là mô hình chính trị của nước
Pháp (về mô hình thể chế chính trị ở Pháp, hiện nay có nhiều ý kiến khác
nhau, một số nhà luật học cho rằng, nước Pháp đang theo mô hình chế độ
tổng thống, các nhà chính trị theo quan điểm của Maurice Duverger, xếp
mô hình chính trị của Pháp theo chế độ nửa tổng thống nửa nghị viện, hay
còn gọi là chế độ hỗn hợp, trong bài viết này, chúng tôi tạm xếp nước
Pháp theo chế độ hỗn hợp, giống với quan điểm của Maurice Duverger, tuy
nhiên cũng còn nhiều điểm phải bàn lại về cách gọi này).
Thể chế chính trị phương Tây, theo nhà luật học Jean-Louis Quermonne, có 5 đặc điểm cơ bản:
-Chế
độ bầu cử tự do, các đảng phái được phép thành lập trên tinh thần tôn
trọng luật pháp và bảo vệ các giá trị dân chủ, các đảng phải lựa chọn
ứng cử viên ra tranh cử. Các chiến dịch vận động tranh cử và chương
trình hành động của các đảng được các phương tiện thông tin đăng tải,
người dân có điều kiện tìm hiểu và xem xét lựa chọn ứng viên phù hợp với
mình.
-Tồn tại đa số nghị sĩ của một đảng hoặc
một liên minh giữa các đảng cùng chia sẻ quan điểm chính trị, với mục
đích ủng hộ các chính sách của chính phủ.
-Phe đối lập có quyền phê bình và quyền tranh cử, nếu nhân dân lựa chọn, phe đối lập sẽ có quyền lãnh đạo.
-Chủ
nghĩa hiến pháp được thực thi, các đảng phái buộc phải có thỏa hiệp và
đi đến đồng thuận về một số vấn đề quan trọng, các đạo luật được tòa án
hiến pháp giám sát chặt chẽ để bảo vệ các giá trị của Hiến pháp. Cơ quan
tư pháp giữ vai trò độc lập.
-Bảo vệ các quyền
cơ quản của công dân, chú trọng nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Nhà nước và công dân đều bình đẳng trước pháp luật, các cơ quan công
quyền phải tuân theo luật pháp.
Arendt Lijphart,
nhà chính trị học người Hà Lan xếp loại thể chế chính trị phương Tây
theo chế độ theo đa số và chế độ theo nguyên tắc ưng thuận. Tác giả chọn
nước Anh theo nền chính trị theo đa số và Bỉ theo nền chính trị theo
nguyên tắc ưng thuận. Cách xếp loại mô hình chính trị của Arendt
Lijphart khá độc đáo nhưng không phải là cách xếp loại được các nhà
nghiên cứu chú ý.
Cách xác định các thể chế
chính trị theo quan điểm triết học, xã hội học hiện đại được nhiều học
giả uyên bác của Mỹ và Tây Âu tiến hành, phương pháp này giúp con người
hiểu rõ hơn về bản chất của các thể chế chính trị dân chủ và phi dân
chủ.
III. Chế độ chính trị được xếp loại theo quan điểm xã hội học và triết học
A. Hannah Arendt và Raymond Arond, hai đại diện tiêu biểu sau chiến tranh.
Raymond
Aron là một trong những nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp cho ngành xã
hội học trong thế kỷ XX, ông cũng để lại dấu ấn trong lĩnh vực khoa học
chính trị. Nhà xã hội học ưu tú này là người giới thiệu các tác phẩm của
Max Weber và góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Max Weber về chính trị
và xã hội. Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Raymond Aron sang Anh,
tham gia kháng chiến với tướng De Gaulle. Trong tác phẩm Dân chủ và Độc tài, Démocratie et Totalitarisme, xuất
bản năm 1965, ông chia ra làm hai loại thể chế chính trị, điểm khác
biệt giữa hai kiểu chế độ này là việc tổ chức các đảng phái chính trị
theo cách riêng:
Chế độ đa đảng thể hiện hệ
thống chính trị có nhiều đảng phái cạnh tranh, đây là biểu hiện của dân
chủ. Nhà nước chấp nhận sự có mặt của nhiều đảng với điều kiện, các đảng
phải tôn trọng Hiến pháp và hoạt động tuân theo các đạo luật hiện hành.
Phe đối lập được tôn trọng và có quyền tự do hoạt động, có quyền tranh
cử để thay thế đảng đa số cầm quyền, theo nguyên tắc luân phiên. Chế độ
chính trị phương Tây hoạt động theo quy định của Hiến pháp. Cạnh tranh
chính trị lành mạnh để giành được quyền lãnh đạo tạm thời, quyền này sẽ
bị tước đoạt nếu đảng lãnh đạo không đủ năng lực, sẽ không được tín
nhiệm. Raymond Aron cho rằng cạnh tranh cũng như căng thẳng chính trị ở
thể chế chính trị phương Tây khá khắc nghiệt. Tác giả đặt câu hỏi làm
thế nào để đảm bảo đồng thời lợi ích của đa số chiến thắng trong cuộc
bầu cử và của thiếu số thất bại? Một số thiếu sót của mô hình chính trị
dân chủ vẫn tồn tại như áp dụng không hợp lí vấn đề bầu cử hợp pháp và
đúng luật (như một số vẫn không được tham gia bầu cử, hay trong quá
trình bầu cử một số cử tri vẫn bị lợi dụng), việc không áp dụng nguyên
tắc cạnh tranh lành mạnh giữa các đảng phái và giữa các nhóm nghị sĩ tại
Nghị viện, tính không đại diện của các đảng phái. Đây vẫn là những
khuyết điểm của chế độ dân chủ.
Trái với chế độ
đa đảng là chế độ một đảng, thể chế này có thiên hướng cách mạng. Nhà
nước được trang bị một hệ tư tưởng, (trong Nhà nước dân chủ, nhiều ý
kiến, tư tưởng được lắng nghe và được nghiên cứu, điều này phản ánh sự
đa dạng của các nhóm người trong xã hội, nên sẽ không có hệ tư tưởng
chung, vì tư tưởng của nhóm này lại không phản án quan điểm và suy nghĩ
của nhóm khác). Hệ tư tưởng trở thành nền tảng và động lực của đảng cầm
quyền trong chế độ một đảng. Đối lập chính trị không được phép hoạt
động. Nguyên tắc bình đẳng, hợp pháp về cạnh tranh chính trị không được
tôn trọng. Raymond Aron lập một bảng đánh giá về mức độ của chế độ độc
tài: Bản chất về học thuyết của đảng cầm quyền, sức mạnh và khả năng
thuyết phục thông qua các chủ trương và chính sách, phương tiện được sử
dụng để đạt đến mục đích cuối cùng, lí tưởng kiến thiết xã hội, mức độ
bao quát của hệ tư tưởng đối với xã hội, mức độ thống nhất giữa ranh
giới Nhà nước và xã hội.
Hannah Arendt
(1906-1975), nhà triết học người Đức gốc Do Thái, chứng kiến sự lớn mạnh
của chế độ Đức quốc xã, bà chạy chốn sang Pháp sau đó sang định cư tại
Mỹ. Hannah Arendt xây dựng lí thuyết về chế độ độc tài theo quan sát của
một nhà triết học. Bà nhận xét chế độ độc tài luôn gắn với nỗi sợ hãi,
trong chế độ này không còn khái niệm nhân đạo, xã hội con người bị thế
chỗ bởi đám đông quần chúng, không có tình cảm, không có kí ức và không
có ý thức phân tích đúng sai.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của chế độ độc tài, Les origines du totalitarisme, 1951,
Hannah Arendt phê phán mối liên hệ chính trị giữa nhà lãnh đạo và công
dân, bà cho rằng cần phải xem xét lại chính sách dựa trên tự do và tranh
luận, cần phải bàn về "không gian riêng tư" và "không gian công cộng"
giữa sức sản xuất của nền kinh tế và điều hành chính trị, cần tách biệt
với sự quản lí đơn giản. Vượt xa hơn cả một chế độ chính trị thông
thường, chế độ độc tài là một hệ thống, là tổng thể các yếu tố có liên
hệ mật thiết với nhau: Đồng thời là một tổ chức xã hội có một quan niệm
về vai trò của Nhà nước, có quan điểm về nhìn nhận thế giới. Toàn bộ các
mục tiêu của thể chế này cần được áp dụng và kiểm nghiệm qua thực tế,
chế độ độc tài được kết hợp với những yếu tố thần thoại và các yếu tố
siêu hình. Hannah Arendt nhận định chế độ độc tài hướng đến sự thống trị
toàn bộ, thống trị con người về sức lực, tư tưởng và hướng đến nhiệm vụ
chinh phục thế giới. Chế độ độc tài dẫn đến chiến tranh hoặc hướng đến
một cuộc cách mạng được chuẩn bị theo một chương trình quy mô trên phạm
vi toàn thế giới.
Chế độ độc tài khinh bỉ các
đạo luật được ban hành, nhưng luôn tự coi mình hợp pháp hơn cả luật
pháp. Tư tưởng của Hitler hướng đến việc thực hiện các đạo luật tự nhiên
(cạnh tranh sinh tồn, kẻ mạnh chiến thắng kẻ yếu), tư tưởng của Staline
nhằm thực hiện quy luật của lịch sử theo chủ nghĩa Marx. Hannah Arendt
sử dụng phương pháp phân tích của Max Weber để xây dựng lí thuyết. Bà
quan sát thể chế chính trị thời Đức quốc xã và Liên bang Xô viết dưới
thời Staline. Một số tác giả phê phán cách xếp loại thể chế chính trị
theo quan điểm triết học này, vì nó không đủ độ sâu và thiếu bằng chứng
thuyết phục.
Bên cạch hai tác giả lớn, cần phải
kể đến Claude Lefort (1924-2010), ông là nhà triết học chịu ảnh hưởng tư
tưởng của Karl Marx, ông phân tích thể chế chính trị theo cách thức tổ
chức các cơ quan trong xã hội. Claude Lefort dựa theo quan sát của Ernst
Kantorowicz về hai hệ thống trong Nhà nước quân chủ, hệ thống của nhà
vua và hệ thống của nhân dân. Trong hệ thống của nhân dân thường có các
yếu tố xung đột, tạo sự chia rẽ, thể chế độc tài chấp nhận điều đó và
quản lí xã hội bằng các biện pháp mạnh. Nhưng chế độ độc tài sẽ không
thành công để loại bỏ tính đối lập vốn có, vì trong quá trình vận động
và phát triển của thể chế, sẽ luôn xuất hiện sự xung khắc và tồn tại các
quan điểm đối lập. Hơn nữa, để tổ chức xã hội hoàn thiện, chế độ độc
tài buộc phải kiến thiết và tổ chức xã hội tốt hơn bằng cách học theo
các nguyên tắc có sẵn trong các thể chế dân chủ, điều này càng làm cho
xã hội thêm phân chia sâu sắc. Các mối xung đột luôn thường trực trong
thể chế dân chủ vì thể chế này công nhận lợi ích hợp pháp của các nhóm
người khác nhau, và chấp thuận sự tồn tại các quan điểm trái ngược.
B. Xếp loại thể chế chính trị theo quan điểm của Juan José Linz
Juan
José Linz (1926-2013) là nhà chính trị học người Tây Ban Nha, ông là
giáo sư đại học ở Mỹ, ông bảo vệ luận án tiến sĩ, dưới sự chỉ dẫn của
Seymour Martin Lipset. Juan José Linz gần gũi với những đại diện tiêu
biểu của học thuyết chức năng của Mỹ như Paul Lazasfeld, Robert K.
Merton.
Juan José Linz xa rời phương pháp xếp
loại truyền thống các thể chế chính trị dân chủ/ độc tài. Ông xây dựng
lí thuyết mới và xếp loại 3 kiểu chế độ chính trị. Trong cuốn sách chế độ độc tài và chế độ độ đoán, Totalitarian and Autoritarian regime,
xuất bản năm 2000, ông đưa ra nhận xét, quan điểm về thể chế độc tài và
thể chế dân chủ đa đảng trước đây chưa phản ánh hết thực tế các thể chế
chính trị đã và đang tồn tại trên thế giới, cần có những đánh giá năng
động về các chế độ chính trị vì có mô hình ra đời, sau đó biến mất hoặc
thay đổi sang một hình thức khác. Ông phủ nhận phương pháp xác định các
thể chế chính trị dựa trên vai trò của các cơ quan công quyền và dựa
trên mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực hay cấu trúc của các đảng
phái. Điều này chỉ đem lại những quan sát mang tính hình thức về các
kiểu chế độ chính trị, chứ không phản ánh đúng bản chất của chúng.
Ông
nêu ra ba loại thể chế chính trị khác nhau: chế độ độc tài, chế độ độc
đoán, chế độ dân chủ đa đảng. Ông nhấn mạnh thuyết phát triển (le
développementalisme) của Samuel Huntington không đủ sức thuyết phục khi
giải thích điều kiện tồn tại các chế độ chính trị theo lí thuyết này.
(Phát triển kinh tế đi kèm với quá trình xây dựng và củng cố nền dân
chủ, kinh tế sẽ thúc đẩy dân chủ). Juan José Linz nhận xét các nước
không có dân chủ vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế liên tục, kinh tế phát
triển nhưng chưa chắc đã có dân chủ. Khi quan sát những chuyển đổi của
các chế độ chính trị vào cuối thế kỷ XX, Juan José Linz đã xây dựng lại
quan điểm của mình về các kiểu thế chế chính trị. Ông phân loại làm 5
kiểu thể chế khác nhau: Chế độ độc tài, chế độ độc đoán, chế độ dân chủ
đa đảng, chế độ quân vương và chế độ hậu độc tài, (trong hình thức chính
thể cuối cùng này, ông lại xếp thành 5 kiểu thể chế chính trị khác
nhau). Những phân tích của tác giả được đánh giá là rất công phu và đầy
đủ nhất đến thời điểm hiện tại.
A.R., P.T.Đ.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Tài liệu tham khảo
1. Dictionnaire de la culture juridique, sous la direction de Denis Alland et Stéphane Rials, QUADRIAGE/LAMY-PUF, 2007.
2. Les régimes politiques occidentaux, Jean-Louis Quermonne cinquième édition, Éditions du Seuil.
3. Régimes totalitaires et autoritaires, Juan José Linz Paris, Armand Colin, 2006.
Les grandes classifications des régimes politiques
INTRODUCTION
Le
régime politique résulte de la combinaison de multiples éléments, les
uns juridiques (cadre constitutionnel, qui forme le régime au sens
étroit de l’expression) et les autres extra-juridiques (système de
partis, personnalisation du pouvoir, idéologie, etc…). Le régime
politique représente un mode d’organisation des institutions politiques
dans l’État, il s’agit d’une certaine conception concernant la
souveraineté et les principes dont doit s’inspirer le gouvernement ou
les distinctions et relations entre gouvernants et gouvernés et entre
les divers pouvoirs politiques. Le régime politique reste une composante
du système politique qui englobe l’organisation des organes politiques
et la vie sociale, économique et culturelle. Pourtant le régime
politique reflète bien les caractères du système politique car il guide
les fonctions de l’État et il détermine les relations entre l’État et
ses citoyens.
D’abord, la classification des
régimes politiques a été réalisée dès l’Antiquité par les Grecs.
Ensuite, les auteurs comme Machiavel et Jean Bodin ont contribué à
éclairer les caractéristiques des régimes monarchiques et républicains.
Il a fallu attendre jusqu’au temps de l’Ancien Régime pour que la
classification des régimes politiques soient bien analysés par les
philosophes des Lumières dont Montesquieu est le principal représentant.
Étudier les régimes politiques d’hier et d’aujourd’hui, c’est
comprendre leurs caractéristiques; à partir de ces études l’homme
pourrait juger si il s’agit d’un régime démocratique ou
antidémocratique.
Il existe aujourd’hui dans le
monde près de 200 États dont les régimes politiques sont très variés en
fonction de la diversité culturelle et religieuse qui implique un mode
de régime politique distinct. En observant par exemple le régime
politique de certains pays arabes à dominante théologique, les juristes
et politologues considèrent que ces pays ne sont pas démocratiques (par
exemple Bernard Chantebout, politologue et juriste considère que Islam
et Démocratie occidentale sont incompatibles) pourtant les gouvernants
de ces pays se considèrent comme tels. Donc, la culture politique et
juridique quand elle est influencée par la religion a un impact profond
sur l’esprit de l’homme. L’observation sur la démocratie est ainsi
différente et propre à chaque pays.
Les
démocraties occidentales exercent une influence importante sur le choix
d’un tel mode de régime politique à l’égard des peuples du Tiers-monde
car la Démocratie, la construction de l’État de droit et le respect des
droits humains constitue les traits essentiels des régimes politiques
occidentaux. Toutes ces qualités séduisent les pays en voie de
développement.
Les caractéristiques des régimes
politiques représentent leurs valeurs démocratiques ou
non-démocratiques. Quelles analyses ont contribué à classifier les
différents régimes politiques?
Les régimes politiques se sont définis selon les trois classifications distinctes suivantes:
Une
approche classique (I), une approche institutionnelle(II), et enfin une
analyse tenant de la sociologie et philosophie politique(III).
I. La classification traditionnelle des régimes politiques
Les
philosophes de l’antiquité grecque et des lumières ont réussi à classer
des régimes politiques à leurs époques. La classification des penseurs
grecs (A) constitue une référence aux définitions des régimes politiques
postérieures(B).
A-Les régimes politiques définis par les philosophes grecs
De
Polybe à Platon, les penseurs politiques et philosophiques tentent de
classer les régimes politiques des cités grecques en fonction du nombre
de détenteurs du pouvoir. Ils pensent que les bonnes ou les mauvaises
formes de gouvernement suivant que le pouvoir s’exerce au profit de
l’ensemble de la communauté ou simplement de ses gouvernants. Aristote a
étudié les constitutions de 150 cités grecques et divisé en deux sortes
de constitutions s’agissant de la constitution corrompue ou déviante ou
de la constitution juste. La constitution corrompue attribue des
privilèges et intérêts à un certain nombre de personnes; elle va établir
un mauvais régime politique. La constitution juste quant à elle défini
les intérêts communs à tous, son but d’accorder le bonheur au peuple.
Aristote reconnaît l’existence de trois formes de gouvernements: la
monarchie, l’aristocratie et la démocratie. La monarchie est dirigée par
une seule personne qui doit respecter les lois de la cité et agir au
nom de l’intérêt du peuple. L’aristocratie est gouvernée par un groupe
de personnes qui protègent tout d’abord leurs propres intérêts et
ensuite seulement ceux des autres. Enfin, la démocratie est le
gouvernement de la majorité des personnes qui garantit le profit commun
de la cité. La déviation de ces trois formes de gouvernements est
respectivement la tyrannie, l’oligarchie et l’ochlocratie (la populace
au pouvoir).
Les penseurs politiques du Moyen Age et de l’Ancien Régime ont perfectionné l’analyse des régimes politiques des penseurs grecs.
B-Les régimes politiques selon Montesquieu
Les
grands penseurs philosophique et juridique comme Jean Bodin, Thomas
Hobbes ont construit les théories de la monarchie absolue et de la
République dans le but de diminuer la mainmise de l’Église sur l’État.
Montesquieu quant à lui définit trois formes de régimes politiques qui
se réfèrent à des valeurs différentes. Selon lui, la monarchie possède à
sa tête un roi qui gouverne par l’honneur. La République est dirigée
par un gouvernement représentatif qui se base sur la morale et se
compose de représentants élus. La troisième forme de gouvernement est le
despotisme qui dirige le pays par la crainte. Les deux premières formes
de régimes peuvent dégénérer en despotisme. Si Aristote implique le
nombre des personnes qui dirigent la Cité comme critère de
classification, Montesquieu préfère accorder les propres attributs
étroitement liés au régime. Les réflexions de Montesquieu sur les
modèles politiques exercent encore une influence sur l’analyse des
régimes totalitaires et autoritaires qui dirigent par le mensonge et la
peur.
Les régimes politiques modernes sont
divers; les experts essaient de les classifier à leur guise. Il en
résulte une grande diversité de classement.
II. La classification institutionnelle des régimes politiques
Les
auteurs français analysent les régimes politiques en observant
l’organisation des institutions de l’État. A partir de cette vision, on
connaît les régimes politiques qui respectent le principe de la
séparation des pouvoirs(B) ou les régimes qui se dotent de la confusion
des pouvoirs(A). Grâce à cette distinction globale, on peut avoir des
classifications encore plus détaillées.
A-Les régimes politiques caractérisés par la confusion des pouvoirs
La
plupart des régimes politiques dont les trois pouvoirs fondamentaux de
l’État ne sont pas séparés donc ne se définissent donc pas comme régimes
démocratiques et vice-versa. Il s’agit ici des régimes autoritaires et
totalitaires. En droit, on les appelle les régimes d’assemblées. Ce mode
de régime dont les institutions politiques n’ont pas une position
indépendante relative. Les pouvoirs s’enchevêtrent et se concentrent
dans les mains d’une seule personne ou dans les mains d’un groupe de
personnes. Cette forme de régime politique moderne dispose des traits
semblables aux régimes politiques qualifiés par Aristote et Montesquieu
s’agissant de la tyrannie et de l’oligarchie.
De
plus, les pouvoirs concentrés, qui ne font pas l’objet d’un contrôle
efficace ont tendance à être abusés par leurs détenteurs. Dans ce cas,
il en résulte que les droits de l’Homme, les principes de la démocratie
sont lourdement violés.
Au cours du XX ème
siècle, les systèmes politiques où le contrôle de constitutionnalité des
lois et la séparation des pouvoirs ne sont pas garantis sont en général
des régimes antidémocratiques, bien que l’on peut l’appeler sous un nom
différent: démocratie populaire (comparaison avec la démocratie
représentative de l’Occident).
Premièrement, le régime totalitaire dispose certaines caractéristiques:
-La
confusion totale des pouvoirs, les dirigeants détiennent à la fois les
pouvoirs exécutif et législatif, l’indépendance de la justice est remise
en cause. Par conséquent, les gouvernants font des lois et les
exécutent de manière arbitraire. La justice devient un outil utilisé
selon leur volonté. La concentration des pouvoirs provoque de graves
conséquences; la société civile est contrôlée, les droits de l’Homme
sont violés, l’Homme n’a plus d’espace personnel car l’État est
omniprésent. Le pluralisme politique n’existe pas, le parti unique au
pouvoir interdit l’opposition. L’homme est mobilisé et vit au rythme
voulu par l’État: Le parti unique devient le parti-État. On trouve bel
et bien ces facteurs constitutifs du régime totalitaire dans les régimes
fasciste, nazi et marxiste-léniniste et également maoïste.
Deuxièmement,
concernant le régime autoritaire, on peut affirmer que ce mode de
régime politique est une transition du totalitarisme vers une
démocratie. Malgré tout, le régime autoritaire a certaines
caractéristiques semblables au régime totalitaire: les pouvoirs se
concentrent dans les mains d’une personne ou d’un groupe de personnes
qui décide de tout car la confusion des pouvoirs est très nette, l’abus
des pouvoirs est permanent lorsque les compétences des gouvernants ne
sont pas encadrées. Il existe en réalité une opposition politique très
faible mais son influence ne peut pas dépasser les limites fixées. Les
libertés individuelles se restreignent si elles menacent l’existence du
régime. L’indépendance de la justice est remise en cause mais les juges
disposent de certains pouvoirs à condition que ceux-ci ne menacent pas
la légitimité du régime et les pouvoirs des gouvernants.
Le
contrôle de constitutionnalité et les principes de l’État de droit
n’existent pas vraiment car tous ces mécanismes deviennent inutiles et
dangereux au détriment des droits des gouvernants, le régime autoritaire
se réfère au nationalisme patriotique, à l’Église, à la domination
charismatique du leader (c’est le cas de l’Espagne de Franco, du
Portugal de Salazar, de la Grèce sous le temps des colonels ou du Chili
d’Augusto Pinochet mais aussi du cas des régimes militaires africains
après la période post-coloniale).
Cependant, le
régime totalitaire ou autoritaire se cache souvent sous un mot d’ordre
accueillant, par exemple "la démocratie populaire" ou "l’État du peuple
pour le peuple et par le peuple".
En ce qui
concerne l’URSS et les PECO avant 1991, tous les droits fondamentaux
comme liberté d’expression, d’association ou droit de vote, liberté
d’aller et venir sont restreints voire interdits.
En
revanche, les droits de l’Homme et les principes de la démocratie sont
respectés dans les régimes démocratiques occidentaux grâce à la garantie
du principe de séparation des pouvoirs.
B-Les régimes politiques caractérisés par la séparation des pouvoirs
Les
régimes politiques européens et américains se basent sur le principe de
la séparation des pouvoirs, selon lequel l’équilibre et l’attribution
des pouvoirs aux organes différents doivent être garantie; c’est le
mécanisme "check and balance". Bien que la séparation des pouvoirs
peut-être souple ou rigide, il existe toujours une coopération entre les
institutions politiques qui doivent respecter certaines limites de
leurs compétences. Les régimes politiques occidentaux se représentent
par trois modes de gouvernement distincts; régimes parlementaire,
présidentiel et mixte qui sont les modèles typiques des deux rives de
l’Atlantique. Ce modèle est repris par plusieurs pays du monde mais
leurs responsables n’arrivent pas à établir le modèle à l’identique,
faute de bonnes conditions politiques, économiques et sociales.
En
premier lieu, le régime présidentiel américain qui se manifeste par
certains caractères: le président ne peut dissoudre la Chambre des
Représentants et le Congrès ne peut destituer le président sauf
circonstances exceptionnelles reconnues par la constitution de 1787. Le
gouvernement n’a pas de responsabilité devant le Congrès car le principe
de séparation des pouvoirs que professo rait Montesquieu est
strictement suivi. S’il n’existe pas de moyens d’action réciproques, il y
a quand même certaines pressions mutuelles car le président dispose du
droit de veto à l’égard du projet de loi tandis que les droits
d’adoption budgétaire et les droits de ratification des traités et
accords internationaux relèvent exclusivement de la compétence du
Congrès.
En second lieu, s’agissant du régime
parlementaire dans lequel, le gouvernement est élu et soutenu par la
majorité parlementaire, il existe toujours les moyens d’actions
réciproques d’une part, l’Assemblée nationale peut renverser le
gouvernement et d’autre part le président ou le roi peut dissoudre
l’Assemblée nationale. C’est le cas de la Grande-Bretagne et de
l’Allemagne.
En troisième lieu, concernant le
régime mixte, il s’agit de l’exemple de la France qui dispose des traits
du régime parlementaire et présidentiel, il existe toujours les moyens
d’actions mais la dissolution et la motion de censure deviennent à
l’heure actuelle caduque par la présence d’une majorité parlementaire
solide qui soutient sans faille le président et son gouvernement. Le
président est élu au suffrage universel direct comme les députés. Il est
sur le même pied d’égalité par rapport aux représentants de la chambre
basse.
Les régimes parlementaire, présidentiel ou mixte ont des points en commun qui font preuve de régimes démocratiques:
-la
garantie des droits de l’Homme, le pluralisme politique, le respect de
l’opposition sont protégés par les dirigeants au pouvoir. D’ailleurs,
l’élection concurrentielle, le libre choix des candidats politiques,
l’indépendance de la justice constitue des principes indispensables. La
classification des régimes occidentaux a été effectué par le publiciste
anglais Walter Bagehot dès 1867 dans son livre "Parliamentary
government" il a qualifié de "présidentiel" le gouvernement de
l’Amérique et "gouvernement de cabinet" la Grande-Bretagne.
Wilson
perçoit que le gouvernement parlementaire de la Grande-Bretagne et le
système de gouvernement des États-Unis ne sont pas si distincts, car le
gouvernement présidentiel américain est qualifié selon lui de
gouvernement congressionnel.
Arendt Lijphart,
pour sa part, distingue les régimes occidentaux en les qualifiant de
modèle majoritaire et modèle de consensus ou consociationnel. Il donne
l’exemple de la Grande-Bretagne comme le modèle majoritaire et de la
Belgique comme le modèle de consensus. Sa classification est pertinente
et originale mais reste marginale, d’ailleurs elle ne reçoit pas le
partage de tous les experts.
Les
classifications des régimes politiques selon l’approche sociale
philosophique par les auteurs modernes démontrent également des
observations intéressantes.
III-Sociologie politique, philosophie politique et empirisme dans les classifications politiques
A-Deux figures principales de l’après-guerre: Raymond Aron et Hannah Arendt
Raymond
Aron est un des principaux contributeurs du XXème siècle de la
sociologie mais également dans le domaine des sciences politiques.
Traducteur des œuvres de Weber, contemporain & acteur de la seconde
guerre mondiale (il s’exilera notamment à Londres aux côtés du Général
De Gaulle), il va nourrir la classification politique d’un point de vue
sociologique en s’intéressant à la logique interne des institutions
politiques dans son livre Démocratie et Totalitarisme publié en 1965. Il distingue deux formes de régimes, dont la variable principale est l’organisation des partis:
le
régime pluraliste; c’est une organisation de partis multiples,
autrement appelé régime démocratique. Dans ce type de régime, l’État
tolère une pluralité de partis dans la mesure du respect de la
Constitution. La reconnaissance et la légalisation de l’opposition se
fait par le biais du concours à l’exercice du pouvoir via l’élection et
le système de représentation. Les régimes occidentaux ont une
organisation constitutionnelle qui porte les modalités de la concurrence
pacifique pour l’exercice du pouvoir légal de manière temporaire.
Raymond Aron relève cependant une tension dans ce type de régimes,
comment concilier les intérêts de la majorité vainqueur et de la
minorité vaincue? A cela s’ajoute trois aspects négatifs:
-la non-application régulière de la légitimité électorale (par exclusion ou par manipulation)
-la non-application des règles de concurrence pacifique (entre partis et au sein du parlement)
-le caractère non-représentatif des partis
le
régime monopolistique; c’est un régime caractérisé par son aspect
révolutionnaire. L’État est engagé idéologiquement, il est le socle de
l’idéologie du parti au pouvoir. Il y a une négation de l’opposition
ainsi que la violence, le non-respect de l’égalité et de la légalité
dans le concours pour l’exercice du pouvoir. Raymond Aron établit une
grille d’évaluation du degré de totalitarisme: la nature de la doctrine
du parti, l’autorité de ses projets, les moyens employés pour arriver à
ses fins, l’idéal qu’il se fait de la société, le degré de globalité de
l’idéologie et de confusion entre l’État et la société.
Hannah
Arendt (1906-1975), fût elle aussi marquée par la montée du nazisme en
Allemagne, ce qui provoque son exil en France et ensuite aux États-Unis à
partir de 1951. Témoin engagé de son époque au même titre qu’Aron, elle
développe une approche plus philosophique du totalitarisme. Sa notion
du totalitarisme est marquée par la terreur, elle y voit l’effacement
total de la notion d’humanité, devant laisser la place à une masse sans
affectivité, sans mémoire et sans conscience.
Dans Les origines du totalitarisme (1951),
elle remet en cause le rapport politique du dominant-dominé et invite à
repenser la politique comme fondée sur la liberté et la délibération,
en restaurant notamment la différence entre le"privé"et le"public",
entre la production économique et l’ordre politique de l’action, à
dissocier de la simple gestion. Plus qu’un régime politique, le
totalitarisme est un système, un ensemble d’éléments interdépendants: à
la fois une organisation de la société, une conception du rôle de
l’État, une vision du monde, un ensemble d’objectifs pratiques, une
mythologie et une métaphysique. Selon, Hannah Arendt, le totalitarisme
vise une domination totale, aussi bien de l’homme en tant qu’être
physique et de pensée mais également la conquête du monde entier. Le
totalitarisme débouche nécessairement sur la guerre ou sur la révolution
programmée à l’échelle du monde entier. Le totalitarisme méprise les
lois "positives" (écrites) mais se réclame d’une forme plus élevée de
légitimité. L’hitlérisme vise l’accomplissement de la loi de la Nature,
le stalinisme l’accomplissement de la loi de l’Histoire (énoncée par le
marxisme). Pour cette analyse, Hannah Arendt utilise l’idéaltype de Max
Weber, une construction théorique comprenant deux variantes: la période
soviétique stalinienne et l’Allemagne pendant le régime hitlérien.
Cependant, certains auteurs ont remis en cause cette classification qui à
l’évidence manquait de profondeur et de données empiriques.
A
ces deux auteurs, il convient d’en ajouter un troisième, Claude Lefort
(1924-2010), d’influence marxiste, qui s’est attaché selon une vision
organiciste de la société, à analyser le système comme un corps social,
reprenant ainsi les thèses d’Ernst Kantorowicz sur les deux corps du
roi; la personne du chef totalitaire au-delà de son corps physique et
mortel est un corps politique figurant le peuple-un. Il ajoute que la
constitution du"peuple-un"nécessite la production incessante d’ennemis,
c’est la seule division que le régime totalitaire accepte, il se fonde
par rapport à elle. Néanmoins, il ne voit pas de fin donc de succès à ce
système, car son développement entraîne nécessairement contradiction et
opposition. De plus, il reprend cette vision organiciste sur le régime
démocratique, il est caractérisé par l’institutionnalisation du conflit
au sein de la société, de la division du corps social; il reconnaît, et
même légitime, l’existence d’intérêts divergents, d’opinions contraires,
de visions de monde opposées et même incompatibles.
B-La typologie ternaire de Juan José Linz
Juan
José LINZ (1926-2013), est un politologue espagnol qui a fait la
majeure partie de sa carrière universitaire aux États-Unis développant
sa thèse notamment sous la direction Seymour Martin Lipset et côtoyant
les principales figures du fonctionnalisme américain comme Paul
Lazarsfeld et Robert K.Merton. Il y a donc un réel intérêt pour
l’approche empirique chez Linz dont son œuvre est emprunte.
Tout
d’abord, il va chercher à s’éloigner de l’opposition binaire classique
démocratie/ totalitarisme, pour développer une typologie ternaire idéal
typique. Il affirme cette idée dans "Totalitarian and Authoritarian
regime"(2000) selon laquelle la distinction totalitaire et démocratie
pluraliste ne suffit plus à couvrir le réel. Il met au cœur de son
analyse la dynamique des régimes politiques selon sa formule"les
typologies émergent et disparaissent en fonction de leur utilité
analytique par les chercheurs. Ainsi il s’écarte de l’approche des
régimes politiques qui privilégient le rôle des institutions, de
l’agencement des pouvoirs et la structure des partis pour s’achever par
une discussion formelle opposant normativement des types de régimes. Il
dégage ainsi trois types:
régime totalitaire,
autoritaire, démocratie pluraliste, et met en avant que le
développementalisme (S.Huntington) ne suffit pas à expliquer la
condition des différents régimes. En effet, le développement économique
doit amener le développement démocratique selon ces derniers mais Linz
remarque que les pays non-démocratiques ont des croissances économiques
continues, remettant en cause cette analyse. De plus, l’évolution des
régimes à la fin du XX ème siècle va amener Juan José Linz à constamment
reformuler ses idéaux types, passant à une typologie quinternaire. Il
ajoute ainsi le régime sultanique et le régime post-totalitaire (ce
dernier pouvant se décliner en cinq sous-catégories également). Ses
analyses sont les plus abouties en termes de classification jusqu’à
aujourd’hui.
La bibliographie
4. Dictionnaire de la culture juridique, sous la direction de Denis Alland et Stéphane Rials, QUADRIAGE/LAMY-PUF, 2007
5. Les régimes politiques occidentaux, Jean-Louis Quermonne cinquième édition, Éditions du Seuil.
6. Régimes totalitaires et autoritaires, Juan José Linz Paris, Armand Colin, 2006
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 03:11
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/xep-loai-cac-che-o-chinh-tri.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001