'Việt Nam không nhất thiết phải học theo ai'
"Việt
Nam nói đến học kinh nghiệm ngoài, nhưng nếu đại học không được tự chủ
và không có tinh thần tự do học thuật thì việc mô phỏng theo các mô hình
đại học khác trên thế giới chẳng có ý nghĩa gì" – GS Nguyễn Văn Tuấn.
LTS: Ngày
20/11 sắp đến gần cũng là lúc câu chuyện về giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục được nhiều diễn đàn mổ xẻ. Trong cuộc trò chuyện mới đây
với Tuần Việt Nam, GS Nguyễn Văn Tuấn, ĐH New South Wales, Úc liên tục
nhắc tới cụm từ "tự do học thuật" như một tiền đề quan trọng để nâng cao
chất lượng giáo dục, đặc biệt giáo dục Đại học.
Không có "tự do theo định hướng"
Dưới góc nhìn của mình, ông giải thích thế nào về việc chất lượng các trường Đại học của ta hiện nay chỉ "làng nhàng"?
Một
môi trường cởi mở với những ý tưởng mới và năng động, có sự tương tác
chính là một môi trường kích thích sáng tạo cao nhất. Trong đó, người
làm nghiên cứu hay giảng dạy được đảm bảo quyền tự do chọn lựa và theo
đuổi chủ đề của mình mà không bị can thiệp.
Đó là yếu tố mà giới khoa bảng quen gọi là tự do học thuật.
Ngày
nay, dù đây đó vẫn còn tranh cãi về phạm vi, nhưng tự do học thuật được
xem là giá trị cốt lõi của các trường Đại học tiên tiến, là một trong
những thước đo về tiến bộ của một xã hội.
Với hệ quy chiếu nói trên, thì có thể phần nào hiểu được lý do vì sao chất lượng ở các trường ĐH ở ta nói chung vẫn còn thấp.
Chúng
ta biết rằng hiện nay chỉ có khoảng 14% trong số 61.672 giảng viên đại
học có bằng tiến sĩ, và con số giáo sư/phó giáo sư cũng chỉ chiếm khoảng
5%.
Dĩ nhiên, không phải cứ có nhiều giảng viên
bằng tiến sĩ hay có nhiều giáo sư là nghiễm nhiên có "chất lượng" cao,
nhưng xu hướng chung trên thế giới thì tỉ lệ giảng viên có học vị tiến
sĩ được xem là một trong những chỉ tiêu quan trọng về chất lượng giáo
dục.
Hệ thống hành chính ở phần lớn các trường
đáng lẽ phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu, nhưng ở Việt Nam, nó vẫn
nặng nề, bao cấp, máy móc nên không hỗ trợ được là bao.
Vì
những rào cản nói trên, nên hệ thống các trường ĐH ở ta khó phát triển
là vì các đại học vẫn chưa được tự chủ và chưa có tự do học thuật. Đó là
một điều đáng buồn và đáng suy nghĩ. Trong khi các nước trong vùng như
Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore, v.v... đều có ít
nhất một đại học trong danh sách đại học hàng đầu trong khu vực hay trên
thế giới.
Việt Nam thì chưa có một trường đại
học nào có thể "sánh vai" với các đại học hàng đầu trong vùng. Chúng ta
có thể biện minh rằng là do chiến tranh và cô lập, và có ít thời gian để
phát triển. Nhưng tôi e rằng những biện minh đó khó thuyết phục, bởi vì
có nhiều đại học trong vùng chỉ cần 20 hay 30 năm là đã trở thành đẳng
cấp quốc tế.
Nói theo văn hào Dostoievsky, tất
cả tuỳ thuộc vào chính chúng ta. Chúng ta tự định đoạt số mệnh của mình
chứ không nên đổ thừa cho ai.
GS Nguyễn Văn Tuấn
Trong
Đề án đổi mới của Bộ GD&ĐT có đề cập đến chuyện: đảm bảo tự do học
thuật nhưng phải theo đường lối XHCN. Ông suy nghĩ gì?
Tôi nghĩ có lẽ có sự hiểu lầm hay hiểu khác về tự do học thuật ở đây.
Theo
tôi hiểu, khái niệm tự do học thuật (academic freedom) chẳng phải là
mới, vì nó đã xuất hiện từ thập niên 1950 bên Mĩ. Thời đó, chủ nghĩa
McCarthy và những người theo chủ nghĩa này gieo rắc và khủng bố các giáo
sư đại học, những người đề cập đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Khái niệm tự do học thuật ra đời để bảo vệ các giáo sư có quyền suy
nghĩ, lí giải, và phát biểu những vấn đề và ý tưởng mà không sợ bị
trừng phạt bởi các thế lực chính trị và đại học.
Nói
cụ thể hơn, tinh thần tự do học thuật áp dụng cho giảng viên và sinh
viên. Đối với giảng viên, tự do học thuật có nghĩa là giảng viên có
quyền nghiên cứu bất cứ chủ đề nào mà họ quan tâm, có quyền trình bày
những kết quả đó cho sinh viên và đồng nghiệp mà không chịu sự đàn áp
hay kiểm duyệt của bất kỳ thế lực nào.
Đối với
sinh viên, tự do học thuật có nghĩa là tự do học các chủ đề mà họ quan
tâm và có quyền đi đến kết luận, có quyền phát biểu ý kiến cá nhân của
họ liên quan đến chủ đề học. Không có kiểu tự do "theo định hướng".
Việt Nam không nhất thiết phải học theo ai
Có
ý kiến cho rằng, Singapore cũng có một thể chế độc đoán, nhưng họ đang
thành công với mô hình đại học của mình. Và trong chuyện xây dựng tinh
thần đại học, ta có thể học được cái hay từ cách làm của họ? Ông nghĩ
sao về ý kiến này?
Tôi nghĩ không nhất thiết
VN phải học Singapore hay mô hình đại học Singapore. Đứng về mặt tự do
học thuật, các đại học Singapore chưa thể là một mô hình để chúng ta
phải học theo. Mới đây, một giáo sư về báo chí của một đại học Singapore
bị cắt hợp đồng chỉ vì bà chỉ trích tự do báo chí ở Singapore. Ở Trung
Quốc, vì thiếu tinh thần tự do học thuật, nên các đại học danh tiếng như
Stanford và Columbia không thiết lập chi nhánh ở quốc gia này.
Theo
tôi thấy, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm thành công của những
trường đại học mới thành lập và đã nhanh chóng trở thành những đại học
hàng đầu thế giới như Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông (HKUST),
Đại học Khoa học và Công nghệ Pohang (Pohang University of Science and
Technology) của Hàn Quốc, Đại học Quốc gia Singapore, Học viện Công nghệ
Monterrey (Monterrey Institute of Technology) của Mexico, v.v.
Đó
là những đại học chỉ trong thời gian 20-30 năm đã vươn lên và trở thành
đại học đẳng cấp thế giới. Cái mẫu số chung của những đại học vừa kể
trên là họ tuyển dụng nhiều giáo sư tài giỏi và tuyển mộ sinh viên có
học lực tốt; họ có ngân sách dồi dào; và quan trọng là có lãnh đạo tốt,
với tầm nhìn chiến lược.
Nhưng theo tôi thấy
Việt Nam sẽ rất khó học áp dụng bài học thành công của họ, vì thể chế tổ
chức trong các đại học Việt Nam còn cứng nhắc.
Người
ta tuyển lãnh đạo đại học và giáo sư đại học qua quảng cáo khắp thế
giới, nhưng ở Việt Nam thì theo cơ chế "qui hoạch" thì rất khó thu hút
được người tài.
Người tài không thích ai định
hướng cho mình, và họ đòi hỏi tự do trong suy nghĩ và ngôn luận. Do đó,
Việt Nam nói đến học kinh nghiệm ngoài, nhưng nếu đại học không được tự
chủ và không có tinh thần tự do học thuật thì việc mô phỏng theo các mô
hình đại học khác trên thế giới chẳng có ý nghĩa gì.
Tự do học thuật phải được tôn trọng
Các
trường Đại học là nơi sản sinh và tích dồn tri thức, để làm giàu trực
tiếp và gián tiếp cho một quốc gia. Nhưng vai trò này của các trường đại
học ở VN rất mờ nhạt. Nên thay đổi từ đâu thưa ông?
Tôi
nghĩ nói cho công bằng thì các đại học Việt Nam cũng đã có đóng góp cho
nền kinh tế và khoa học Việt Nam, nhưng có lẽ gián tiếp nhiều hơn là
trực tiếp. Các đại học VN đã đào tạo những chuyên gia cho nền kinh tế,
các nhà khoa học, và đó là một đóng góp rất đáng kể.
Nhưng
đóng góp trực tiếp của các đại học Việt Nam cho nền kinh tế thì vẫn còn
lu mờ. Bằng sáng chế từ các đại học Việt Nam hầu như không đáng kể. Các
giáo sư đại học cũng chưa có nhiều sáng chế gì đáng chú ý. Các đại học
Việt Nam dĩ nhiên chưa thể ở vị trí thu hút sinh viên nước ngoài để tạo
ra hàng tỉ USD cho ngân sách quốc gia như các đại học phương Tây.
Nhưng
tôi nghĩ các đại học Việt Nam có thể làm tốt hơn nữa trong việc đóng
góp cho nền kinh tế. Làm như thế nào thì lại là một câu hỏi lớn đã chiếm
thời gian và tiêu hao công sức của rất nhiều người quan tâm. Tôi nghĩ
đến một chiến lược liên kết chiến lược giữa các doanh nghiệp kĩ nghệ và
đại học. Cần có những cơ chế để cho những người trong doanh nghiệp kĩ
nghệ (có nghiên cứu) tham gia vào việc đào tạo sinh viên, và họ cũng
được ghi nhận qua các chức danh học thuật.
Đối
với các ngành nghiên cứu khoa học xã hội tôi nghĩ thách thức còn lớn hơn
các ngành khoa học và kĩ thuật. Có nhiều chủ đề mà giới khoa học xã hội
quan tâm nhưng có khi được xem là "tế nhị" hay "nhạy cảm" nên đành phải
gác lại. Đây cũng là một vấn đề về tự do học thuật.
Theo ông, nên "gỡ" nút thắt nào đầu tiên?
Thú
thật, tôi vẫn nghĩ đến tự chủ và tự do học thuật. Đại học cần phải có
quyền tự chủ trong việc quyết định bổ nhiệm giảng viên, giáo sư, quyết
định chế độ lương bổng, quyền tuyển sinh, và chủ động trong việc soạn
thảo chương trình giảng dạy.
Tự do học thuật cần
phải được tôn trọng. Một khía cạnh khác của tự do học thuật chính là tự
chủ, hiểu theo nghĩa đại học có quyền bổ nhiệm giáo sư, hoạch định
chương trình giảng dạy, và theo đuổi nghiên cứu vì lợi ích khoa học và
nghệ thuật chứ không vì lợi ích của các nhóm lợi ích và chính trị trong
xã hội. Tôi nghĩ không có tự do học thuật thì khoa học xã hội Việt Nam
rất khó phát triển.
Theo ông, làm thế nào để xây dựng được một tinh thần đại học đúng nghĩa?
Tôi
nghĩ đến mô hình đại học dựa trên tinh thần khai sáng của Immanuel Kant
và lí tưởng liberal của Friedrich Schleiermacher. Đại học không chỉ là
trung tâm đào tạo nhân tài, mà còn là một trung tâm khoa học và văn hóa,
với tự do học thuật được xem là đặc điểm quan trọng nhất. Không có tự
do học thuật, đại học khó mà hoàn tất sứ mệnh phản biện xã hội của mình,
và khó có thể đóng góp tích cực cho Nhà nước và xã hội.
Xin cảm ơn ông
Lê Vũ Quý Linh (thực hiện)
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn: Giảng viên cao cấp tại ĐH New South Wales, Úc. Trưởng nhóm nghiên cứu, Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Úc. Nghiên cứu viên cao cấp Hội đồng quốc gia về nghiên cứu y khoa và y tế Úc (NHMRC). 1987-1997: Thạc sĩ ĐH Macquarie (Úc); Tiến sĩ thống kê, chuyên về dịch tễ học ĐH Sydney (Úc); Tiến sĩ y khoa ĐH New South Wales (Úc), Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (postdoc) tại ĐH Basle, Trung tâm nghiên cứu lâm sàng Sandoz (Thụy Sĩ) và Bệnh viện St Thomas (Anh). 1998: Được bổ nhiệm Phó Giáo sư y khoa ĐH Wright States (Mỹ). 2009: Được bổ nhiệm Giáo sư ĐH New South Wales (Úc). |
Nguồn: vietnamnet.vn
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 08:25
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/nam-khong-nhat-thiet-phai-hoc-theo-ai.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001