Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2014

Trạch Cường - Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975 (p.1 -2 - 3 - 4)

Trạch Cường - Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975 (c.1 - p.1)



Diên Vỹ chuyển ngữ
Nguyên tác: China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (New Cold War History)
Tác giả: Trạch Cường (Qiang Zhai)
Biên tập: John Lewis Gaddis
Nhà Xuất bản: University of North Carolina Press, Chapel Hill & London

DẪN NHẬP
Trung Quốc và Những Cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950-1975 là một đóng góp nổi bật cho lịch sử quốc tế về Chiến tranh Lạnh nói chung và cho lịch sử quốc tế về cuộc Chiến tranh Việt Nam nói riêng. Các nhà sử học từ lâu đã phỏng đoán về mối quan hệ giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong một phần tư thế kỷ chiến tranh tại Đông Dương, kéo dài từ 1950 đến 1975. Cho đến khi cuốn sách này xuất bản thì chúng ta mới biết được thực sự.
Với lối viết rõ ràng và thông suốt đáng ngưỡng mộ, Địch Cường đã dùng hàng loạt những nguồn thông tin đầy ấn tượng từ văn khố Trung Quốc vừa được công bố, các hồi ký, nhật ký, và tuyển tập tài liệu để kể lại việc Trung Quốc đã giúp đỡ Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống lại nguời Pháp và sau đó là người Mỹ. Sau đây là một số khám phá nổi bật từ nghiên cứu của ông:
Rằng Mao Trạch Đông nhìn nhận phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam trên khía cạnh ý thức hệ lẫn địa chính trị. Cuộc đấu tranh này nhận được hỗ trợ mạnh mẽ vì nó là một phần của chiến lược lớn hơn của ông ta trong việc thiết lập một trật tự thế giới chống đế quốc, nhưng cùng lúc ông cũng không sẵn sàng tách mục đích này ra khỏi quyền lợi của Trung Quốc trong việc cân bằng sự đối chọi giữa Liên Sô và Hoa Kỳ. Đây là một nghiên cứu nổi bật về sự giao thoa giữa quyết tâm cách mạng và chính sách thực dụng trong suy tính của Mao.
Rằng viện trợ quân sự của Trung Quốc thì rất quan trọng đối với Việt Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước khi có những thoả thuận từ hiệp định Geneva 1954. Mức độ của nguồn viện trợ này thật là đáng ngạc nhiên vì lúc ấy Trung Quốc cũng đang tham dự vào Chiến tranh Triều Tiên.
Rằng người Nga và người Trung Quốc đã, như chúng ta vốn nghi ngờ từ lâu, ép buộc Việt Minh phải chấp nhận việc chia cắt đất nước vào năm 1954, nhưng rồi sau đó Trung Quốc lại hối tiếc, thái độ độ này đã góp phần vào sự chia rẽ Trung-Sô cũng như việc Bắc Kinh ủng hộ Bắc Việt leo thang chiến tranh với người Mỹ và Nam Việt Nam trong những năm đầu 1960.
Rằng Trung Quốc đã gửi khoảng 320 nghìn quân hậu thuẫn đến Bắc Việt trong giai đoạn 1965-68, và hơn một nghìn người trong họ đã bị thiệt mạng ở đó, và Mao đã sẵn sàng đánh nhau trực tiếp với người Mỹ vào năm 1968 nếu họ đổ bộ lên Bắc Việt.
Rằng Bắc Việt đã không tham vấn Trung Quốc khi họ bắt đầu đàm phán với người Mỹ vào năm 1968, và ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Bắc Việt đã giảm thiểu từ đấy, trong khi ảnh hưởng của Liên Sô tăng dần.
Rằng Trung Quốc đã gặp khó khăn rất lớn trong việc giải thích với Bắc Việt về chuyến thăm Bắc Kinh của Nixon vào năm 1972, rằng họ đã tìm cách bù đắp bằng cách tăng cường tiếp tế quân sự cho Hà Nội trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán ngưng bắn, và rằng - bất chấp mối giao hảo với người Mỹ - Mao vẫn mạnh mẽ hậu thuẫn việc Pol Pot và Khmer Đỏ nắm chính quyền tại Cambodia vào năm 1975.
Rằng giờ đây ta biết được cuộc Chiến Trung-Việt năm 1979 bắt nguồn từ mối rạn nứt của liên minh Trung-Việt từ cuối thập niên 1960 và đầu 1970.
Đây chỉ là vài điểm sáng tỏ có được từ tài liệu nghiên cứu mang tính mở đường này. Lần đầu tiên nó đã làm nổi bật vai trò quan trọng của Trung Quốc trong Chiến tranh Việt Nam. Trên cả mọi thứ, “Lịch sử Mới của cuộc Chiến tranh Lạnh” dựa vào việc xem xét lại những gì chúng ta từng cho rằng mình đã hiểu bằng cách truy cập các tài liệu lưu trữ của “phía bên kia”. Cuốn sách này là khuôn mẫu của những nghiên cứu thuộc dạng này. Chắc chắn nó sẽ định hình kiến thức của chúng ta đối với cuộc Chiến tranh Lạnh tại Đông nam Á trong nhiều thập niên tới.
John Lewis Gaddis
Tháng Năm 1999

GIỚI THIỆU
Quá trình thăng trầm của liên minh Trung-Việt là một trong những diễn tiến quan trọng nhất đối với lịch sử Chiến tranh Lạnh tại Châu Á nói chung và với quan hệ ngoại giao Trung Quốc nói riêng [1]. Trong một phần tư thế kỷ sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc (CHNDTQ) ra đời vào năm 1949, Bắc Kinh đã giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đấu tranh chống lại hai kẻ thù hùng mạnh là Pháp và Mỹ. Trong những năm 1950, các công thức của Trung Quốc được dùng làm khuôn mẫu cho Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) trong cuộc kháng chiến chống Pháp và trong nỗ lực tái xây dựng miền bắc. Trong những năm 1960, Bắc Kinh đã cung cấp rất nhiều viện trợ để giúp Hồ Chí Minh chống lại Hoa Kỳ. Hậu thuẫn của Trung Quốc rất quan trọng trong việc ĐLĐVN đánh thắng người Pháp vào năm 1954 cũng như trong khả năng chống trả áp lực của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Đông dương Lần 2. Vào thời điểm đoàn kết nhất giữa VNDCCH và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã xem quan hệ giữa hai bên “vừa là đồng chí vừa là anh em.” Tuy nhiên, trong đầu thập niên 1970, khi cuộc chiến tranh Việt Nam bắt đầu giảm cường độ và Trung Quốc đang sắp xếp lại các ưu tiên chiến lược của mình bằng cách cởi mở với Hoa Kỳ nhằm cân bằng mối đe doạ từ Liên Sô, mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội bắt đầu rạn nứt, với hệ quả là cuộc giao tranh trực tiếp vào năm 1979.
Nói chung, tầm quan trọng của Trung Quốc trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam đã bị bỏ qua hoặc bị đánh giá thấp trong các tài liệu của Việt Nam lẫn phương Tây.[2] Các tác giả Việt Nam thường cố ý bác bỏ vai trò của Trung Quốc để nhằm tạo ra một “lịch sử mang tính dân tộc,”[3] trong khi việc khó truy câp các tài liệu lưu trữ tại Trung Quốc đã khiến giới học giả phương Tây giảm thiểu vai trò của Bắc Kinh trong mâu thuẫn Đông Dương.[4] Không có một nghiên cứu đầy đủ nào về quan hệ giữa Trung Quốc với VNDCCH trong giai đoạn 1950-1975. Cuốn sách này cố gắng bù đắp sự thiếu hụt ấy bằng cách trích dẫn những tài liệu mới có từ Trung Quốc để trình bày một cách đầy đủ quá trình chuyển hoá trong mối quan hệ Trung Quốc-VNDCCH giữa hai cuộc chiến tranh Đông Dương, trong đó chú trọng vào những khía cạnh chiến lược, chính trị và quân sự của mối quan hệ trên.
Nghiên cứu này phân tích nguồn gốc chính sách Đông Dương của Bắc Kinh bằng cách đặt nó vào bối cảnh lịch sử, địa phương và quốc tế, nơi nó được thảo ra. Nghiên cứu này cũng điều tra các nguyên nhân dẫn đến sự thăng trầm trong quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Đặc biệt là nó trả lời một số câu hỏi quan trọng trong việc Trung Quốc dính líu đến Đông Dương. Một số vấn đề này liên quan đến bản chất những mục tiêu của Bắc Kinh đối với Việt Nam và quá trình thực hiện các chính sách của họ. Tại sao Mao lại quyết định công nhận nước VNDCCH và cung cấp cố vấn quân sự và viện trợ cho Việt Minh ngay sau khi giành được quyền lực ở Trung Quốc? Các cố vấn Trung Quốc đóng vai trò gì trong việc Hồ Chí Minh đánh thắng người Pháp? Tại sao Bắc Kinh lại tham gia vào Hội nghị Geneva năm 1954 và cổ vũ cho việc chia cắt Việt Nam? Trung Quốc đã đóng vai trò gì trong nỗ lực khôi phục miền bắc của VNDCCH sau 1954? Trung Quốc đã phản ứng ra sao với quyết định của Hà Nội trong việc vực dậy cuộc chiến tranh cách mạng tại miền nam vào năm 1959? Mao đã phản ứng ra sao khi Washington leo thang chiến tranh tại Việt Nam vào giữa thập niên 1960? Và mong muốn của Mao trong việc tái tổ chức đất nước và xã hội Trung Quốc đã ảnh hưởng đến các quyết định về Việt Nam của ông ra sao?

Bản đồ Đông Dương. Nguồn: Jacques Dalloz, Chiến tranh Đông Dương 1945-54 (Dublin: Gill & Macmillan, 1987)

Những câu hỏi sâu hơn nổi lên từ những tương tác giữa Trung Quốc với các đồng minh Sô Viết và Việt Nam. Liệu đã có sự phân chia nhiệm vụ giữa Mao và Stalin trong những năm đầu Trung Quốc can dự vào Việt Nam? Mâu thuẫn Trung-Sô đã ảnh hưởng đến chính sách của Bắc Kinh và quan hệ của nó với Hà Nội như thế nào? Trung Quốc và VNDCCH đã có những dị biệt gì trong việc phát động chiến tranh và theo đuổi hoà bình? Việc Trung Quốc chuyển hướng chiến lược đầu thập niên 1970 đã ảnh hưởng đến quan hệ với VNDCCH ra sao? Và những dị biệt văn hoá, truyền thống nghi kỵ trong lịch sử và tranh chấp khu vực đã ảnh hưởng thế nào đến mối hợp tác Trung-Việt?
Cả hai nước Lào và Cambodia tồn tại trong dưới cái bóng của các cuộc chiến tại Việt Nam, và tranh chấp tại Việt Nam thường lan sang hai quốc gia này. Nghiên cứu này cũng đề cập đến phản ứng của Bắc Kinh đối với những tiến triển tại Lào và Cambodia, đặc biệt là khi chúng có liên quan đến những sự kiện tại Việt Nam. Nó đặt phản ứng của Bắc Kinh vào bối cảnh của chính sách ngoại giao tổng thể cũng như những quan tâm đặc biệt riêng đối với Việt Nam.
Nhìn rộng hơn, chúng ta rút ra được điều gì từ chính sách ngoại giao của Mao qua việc phân tích cụ th thái độ và hành động của Trung Quốc đối với Việt Nam? Xa hơn, chúng ta rút ra được kết luận gì về việc xây dựng và quản lý đồng minh của phe Cộng sản trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh qua việc điều tra chi tiết quá trình thăng trầm của mối quan hệ Bắc Kinh-Hà Nội?
Các chương kế tiếp sẽ nhận diện những động cơ đầy phức tạp phía sau chính sách Đông Dương của Bắc Kinh. Việc cân nhắc những thực thế địa chính trị là một yếu tố trọng tâm trong tính toán của Mao. Trong suốt thập niên 1950 và hầu hết thập niên 1960, Mao đã xem Hoa Kỳ là mối đe doạ chủ yếu đối với nền an ninh và cách mạng Trung Quốc. Vì thế việc hậu thuẫn Hồ chí Minh và Pathet Lào giúp Mao thoả mãn mục đích làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ tại Đông nam Á và đẩy lùi nỗ lực kềm chế Trung Quốc của Washington. Vào cuối thập niên 1960 đầu 1970, khi Mao nhận thức mối đe doạ lớn hơn từ Liên Sô và đe doạ nhỏ hơn từ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông bắt đầu sửa đổi lại chính sách của mình và khuyến khích Bắc Việt thoả thuận một giải pháp hoà bình.
Tinh thần trách nhiệm quốc tế và nghĩa vụ phải giúp đỡ một đảng Cộng sản anh em cũng như việc đẩy mạnh cuộc cách mạng chống đế quốc tại châu Á là một yếu tố quan trọng, thường mang tính quyết định trong chính sách của Mao về Việt Nam. Những hành động của Bắc Kinh về Đông Dương thường được thúc đẩy bởi viễn kiến của Mao về vị trí của Trung Quốc trên thế giới. Khi cống hiến cả đời cho cách mạng, Mao nhắm vào việc thay đổi không chỉ nước Trung Quốc cũ mà cả trật tự thế giới cũ. Thể chế thực dân Pháp tại Đông Dương bao gồm thành phần của một trật tự thế giới bất công và sai trái mà Mao mong muốn dẹp bỏ. Trong suy nghĩ của Mao, nếu không có một thay đổi chống lại hệ thống quốc tế hiện thời, chiến thắng vừa có được của Cộng sản tại Trung Quốc sẽ không được bảo đảm, củng cố và chính danh. Trong khi trật tự quốc tế cũ đã khiến Trung Quốc phải chịu đau khổ và nhục nhã, thì việc thành lập một trật tự mới sẽ đóng góp cho sự tái sinh và thịnh vượng của Trung Quốc. Mao đặt nền an ninh và thịnh vượng trong nước ngang hàng với việc phát triển phong trào phản đế và các cuộc cách mạng vô sản trên thế giới. Một thế giới gồm các quốc gia Cộng sản cùng chí hướng sẽ là một bảo đảm tốt nhất cho chính quyền của Mao tại Trung Quốc. Mao xen lẫn các quan tâm về vấn đề an ninh với ý thức hệ trong suy nghĩ của mình. Mao và các đồng sự xem cuộc cách mạng của mình tương tự với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại các quốc gia đang phát triển và cho rằng khuôn mẫu Trung Quốc thì quan trọng đối với các phong trào ấy. Xa hơn, Mao can thiệp vào Đông Dương để tự tạo dựng hình ảnh Trung Quốc trên thế giới.
Tuy nhiên Mao không theo đuổi những mục tiêu cách mạng của mình tại Đông nam Á với cùng cường độ trong khoảng thời gian được đề cập trong cuốn sách này. Mặc dù đồng cảm với phong trào chống đế quốc thực dân trên thế giới, Mao cũng không muốn gây chiến với Hoa Kỳ. Vị lãnh tụ Trung Quốc này là một người thực tế, có đủ khả năng để chỉnh sửa chính sách khi gặp phải những khó khăn kinh tế trong nước hoặc những áp lực từ nước ngoài. Ông có khả năng vượt qua những thoái bộ chiến thuật trong nhiều lần nhưng luôn giữ vững lập trường của mình. Ví dụ như từ năm 1954 đến 1960, ông giảm bớt sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với phong trào phản kháng tại Đông Dương để Trung Quốc có thể tập trung phát triển kinh tế trong nước. Mao không ngần ngại đề xuất chiến thuật ôn hoà hoặc nhượng bộ nếu thấy thế lực phản động đang quá mạnh để phong trào cách mạng có thế tiếp tục đấu tranh. Đấy là lý do tại sao ông đã chấp nhận một chia rẽ hoà bình tại Việt nam tại Hội nghị Geneva năm 1954 và can ngăn nỗ lực thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh lúc ấy. E sợ việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam nếu chiến tranh tiếp diễn, Mao không muốn Trung Quốc dính líu đến một cuộc chiến tương tự như tại Triều Tiên, vốn sẽ làm Trung Quốc trệch hướng quá trình tái xây dựng rất cần thiết trong nước. Nỗi lo trước sự can thiệp của Mỹ cũng giải thích được quyết định của Mao trong việc đưa Lào trở lại tình trạng trung lập trong Hội nghị Geneva 1961-62. Mao ủng hộ hình thức trung lập của Lào lúc ấy không phải vì ông muốn tạo ra tình trạng trung lập vĩnh viễn ở nước này, như Liên Sô mong muốn, mà bởi vì ông muốn tạo thêm thời gian để Pathet Lào củng cố và phát triển lực lượng, tiến đến giành lấy quyền lực. Trong tính toán của Mao, nhượng bộ và ôn hoà không có nghĩa là từ bỏ; cách mạng cần phải qua từng giai đoạn. Mao hiểu rõ câu châm ngôn của Lenin “một bước lùi hai bước tiến” khi tiến hành cách mạng. Và từ kinh nghiệm của chính mình, ông kết luận rằng việc chuẩn bị cho chuyển biến cách mạng là một cuộc đua đường dài chứ không phải là cự ly ngắn.
Tính cách cá nhân là yếu tố quan trọng thứ ba trong quá trình hình thành thái độ của Bắc Kinh đối với cách mạng Việt Nam. Khi cân nhắc viện trợ cho Việt Minh, giới lãnh đạo ĐCSTQ không thể bỏ qua mối quan hệ cá nhân mật thiết và tình đoàn kết cách mạng mà họ và Hồ Chí Minh đã có được trong những năm cùng nhau chiến đấu trước đây. Có cùng những giá trị và niềm tin giống nhau, họ đã trải qua những khó khăn trở ngại tương tự nhau. Hồ đã làm bạn với những đảng viên ĐCSTQ kỳ cựu như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Hoành Nhược Phi, Bành Phái, và Lý Phú Xuân từ những năm 1920, khi ông hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp và sau đó đóng vai đại diện của Đệ Tam Quốc tế hỗ trợ phong trào công nhân và nông dân tại Quảng Đông. Trong thời kỳ nội chiến ở Trung Quốc vào những năm cuối 1940, chính quyền của Hồ đã cung cấp nơi trú ẩn cho quân đội ĐCSTQ từ miền nam Trung Quốc khi họ rút quân sang Việt Nam để tránh quân đội Quốc Dân Đảng tấn công. Qua quyết định giúp đỡ Việt Minh vào năm 1950, Mao nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trao đổi tình hữu nghị giữa hai bên.
Cuối cùng, chủ ý sử dụng cuộc đấu tranh quốc tế để phát triển lịch trình chính trị trong nước thường được đặt ở vị trí quan trọng trong các cân nhắc của Mao về Việt Nam. Việc này thể hiện rõ rệt vào năm 1962 khi Mao chỉ trích những đề xướng được xem là xét lại trong chính sách đối ngoại từ nội bộ đảng và nhấn mạnh lần nữa sự cần thiết phải chống lại chủ nghĩa đế quốc và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, bao gồm cuộc đấu tranh tại Việt Nam. Sự tái nhấn mạnh việc ủng hộ sự nghiệp phản đế trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đã tạo cho Mao một công cụ hữu hiệu để vận động hậu thuẫn từ trong nước cho quá trình “diễn tiến cách mạng” của ông, và để dẹp bỏ những chướng ngại bên trong giới lãnh đạo đảng, vốn đang bị chia rẽ bởi những thảm hoạ của chương trình Bước Đại Nhảy Vọt. Tương tự, giữa những năm 1965 và 1966 Mao đã dùng nguyên cớ cần thiết phải ủng hộ cuộc chiến tranh của Hà Nội chống lại Hoa Kỳ để phát động một chiến dịch chống đế quốc trong nước, để phục hồi tinh thần cách mạng cấp tiến và để vận động quần chúng đấu tranh chống lại những lãnh đạo “xét lại” trong đảng, những người đang muốn đi theo con đường của Liên Sô nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản tại Trung Quốc. Nói chung, chính sách Đông Dương của Bắc Kinh là kết quả của một tổng thể bao gồm thực tế địa chính trị, niềm tin ý thức hệ, tính cách cá nhân, và các hoàn cảnh chính trị.
Cuốn sách này nhấn mạnh vai trò của khía cạnh con người trong việc làm nên lịch sử. Trước hết là Mao đầy quyền lực với những ý tưởng và tầm nhìn kiến tạo cơ cấu chung cho chính sách về Việt Nam của Trung Quốc. Ông là người quyết định việc giúp đỡ Hồ Chí Minh, thương thảo với các cường quốc phương Tây, đối đầu với áp lực từ Mỹ, bác bỏ những đề nghị của Liên Sô, hoặc tăng cường quan hệ với Washington trong những thời điểm quan trọng. Kế đến là những đồng sự thân tín của Mao và những lãnh đạo thứ nhì trong đảng, bao gồm Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai, tổng bí thư đảng Đặng Tiểu Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Trần Nghị, Đại sứ La Quí Ba, các tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh, những nhân vật đã trung thành thực thi những quyết định ngoại giao và quân sự của Mao đối với Việt Nam. Những chương kế tiếp sẽ liệt kê và đánh giá cụ thể một Mao Trạch Đông đầy lôi cuốn như là một nhà cách mạng nhìn xa trông rộng, một Lưu Thiếu Kỳ cẩn trọng như một nhà tổ chức kỹ lưỡng việc tiếp tế cho Việt Minh, một Chu Ân Lai lão luyện trong vai trò của nhà ngoại giao thông minh tại các hội nghị quốc tế, một Đặng Tiểu Bình cứng rắn khi thương lượng với Bắc Việt, một Trần Nghị thẳng thắn là tiếng nói của Mao trong các vấn đề quốc tế, và Trần Canh cùng Vi Quốc Thanh dày dạn trận mạc trong vai trò cố vấn quân sự trên chiến trường Việt Nam. Họ đã đạt được chiến thắng nhưng cũng mắc phải sai lầm. Tiếng nói của họ làm nên chính sách của Trung Quốc và ứng xử của họ để lại dấu ấn sâu đậm trong mối quan hệ Trung-Việt.
Quan hệ Bắc Kinh-Hà Nội bao gồm cả đồng thuận lẫn mâu thuẫn, hợp tác và đối đầu. Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu bản chất và các động lực của mối quan hệ này và đặt nó vào trong bối cảnh lịch sử phức tạp của chính nó. Trong suốt lịch sử của mình, người Việt có một thái độ yêu/ghét đối với Trung Quốc. Một mặt, họ có truyền thống hướng về Trung Quốc để tìm kiếm khuôn mẫu và nguồn cảm hứng. Các vua chúa Việt Nam đã bắt chước và vận dụng những phương pháp và tổ chức của Trung Quốc để biến mình thành một lực lượng chính danh. Bày tỏ lòng kính nể đối với triều đình bề trên Trung Quốc là con đường duy nhất để tránh chiến tranh của người Việt, và chấp nhận những định chế văn hoá của Trung Quốc đã trở thành thói quen của giới cầm quyền Việt Nam. Mặt khác, người Việt luôn mong muốn gìn giữ độc lập cũng như truyền thống văn hoá của mình.
Trong những thập niên 1950 và 1960, Cộng sản Việt Nam phải đối diện với những kẻ thù hùng mạnh là người Pháp và người Mỹ khi tìm cách thống nhất đất nước. Hồ Chí Minh đã tích cực tìm kiếm tham vấn và vũ khí từ Trung Quốc. Nhưng thái độ nghi ngờ vẫn hề biết mất. Ví dụ Trung Quốc nghi ngờ Hà Nội muốn sát nhập Lào and Cambodia vào với mình thành một “Liên bang Đông Dương” trong khi Bắc Việt cũng dè chừng mối “quan hệ đặc biệt” với Lào khi Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Pathet Lào.
Quan hệ CHNDTQ-VNDCCH bao gồm việc hội nhập và chia sẻ quyền lợi. Hai quốc gia có cùng một triển vọng ý thức hệ và một quan tâm chung về sự can thiệp của người Mỹ vào Đông Dương, nhưng giới lãnh đạo Hà nội muốn tránh xa mối nguy hiểm của việc phải vướng vào mối quan hệ phụ thuộc với Trung Quốc. Một khi giới lãnh đạo Hà Nội và Bắc Kinh vẫn còn có các mục tiêu chung là chấm dứt sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực, những quyền lợi riêng rẻ trên sẽ nhượng bộ cho các điểm thoả thuận của hai bên. Nhưng vào năm 1968 mối quan hệ Trung-Việt đã chuyển nhanh sang chiều hướng xấu khi Washington vừa đưa ra một bước thăm dò trong việc nới lỏng cam kết với Nam Việt. Trong tình hình mới, quyền lợi chiến lược của Bắc kinh bắt đầu có sự khác biệt cơ bản so với Hà Nội. Trong khi lúc này Trung Quốc xem Hoa Kỳ như là một tiềm năng đối trọng để chống lại Liên Sô, những đồng chí Việt Nam vẫn tiếp tục xem Washington là đối thủ nguy hiểm nhất. Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam và đất nước được thống nhất, những tranh chấp song phương giữa Hà Nội và Bắc Kinh về Cambodia, về bất đồng lãnh thổ trên biển Đông và việc đối xử với người gốc Trung Quốc tại Việt Nam bắt đầu gia tăng, dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979.
Nghiên cứu này lần đầu tiên vận dụng những nguồn tài liệu do Trung Quốc công bố trong vài năm gần đây. Những tài liệu mới này được xếp vào bốn loại: nguồn hồ sơ lưu trữ, các tuyển tập tài liệu đã được xuất bản, hồi ký và nhật ký, và các tài liệu gián tiếp dựa trên các nguồn lưu trữ.

Nguồn Hồ sơ Lưu trữ

Trong khi các nhà nghiên cứu không được truy cập những tài liệu lưu trữ quan trọng như Văn khố Trung ương ĐCSTQ và Văn khố Bộ Ngoại giao tại Bắc Kinh, các văn khố địa phương của đảng tại các tỉnh thì ít nghiêm ngặt hơn và hợp tác hơn với các học giả. Trong thời gian 1995 và 1996, tôi đã có hai chuyến đi nghiên cứu đến Văn khố Chính quyền Nhân dân tỉnh Giang Tô. Kho tài liệu này bao gồm các chỉ thị do Uỷ ban Trung ương ĐCSTQ tại Bắc Kinh gửi cho các lãnh đạo tỉnh giải thích vai trò của Trung Quốc trong hàng loạt những vấn đề quốc tế bao gồm Đông Dương. Từ năm 1958 đến 1966, Văn phòng Đối ngoại ca Uỷ ban Nhà nước triệu tập các cuộc họp hàng năm về công tác đối ngoại tại Bắc Kinh, trong đó các cán bộ từ trung ương đảng và các cơ quan chính quyền như Ban Liên lạc Quốc tế ĐCSTQ, Bộ Ngoại giao và Uỷ ban người Hoa Nước ngoài báo cáo và giải thích cho các cán bộ chuyên về ngoại giao cấp tỉnh những diễn tiến mới của quan hệ ngoại giao Trung Quốc. Nhiều bài phát biểu và tài liệu nội bộ từ những hội nghị này được lưu giữ tại Văn khố tỉnh Giang Tây. Những tài liệu này trình bày quan điểm và phản ứng của lãnh đạo Trung Quốc đối với những diễn biến trên thế giới nói chung và Đông Dương nói riêng chính xác hơn so với các tường thuật từ báo chí Trung Quốc thời kỳ ấy.
Các Tuyển Tập Tài Liệu Đã Xuất Bản
Trong những năm gần đây Bắc Kinh đã xuất bản nhiều tuyển tập gồm các bản thảo, bài viết, trao đổi và phát biểu của các lãnhđạo như Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. Những bộ sách này bao gồm vô số những bức điện tín từ các lãnh đạo trên gửi đến các cố vấn Trung Quốc tại VNDCCH cũng như vô số những ghi chép từ các trao đổi giữa họ và đối tác Việt Nam. Những bộ sách quan trọng nhất cho cuộc nghiên cứu này gồm Kiến quốc Dĩ lai Mao Trạch Đông Văn cảo (Bản thảo của Mao Trạch Đông từ khi lập nước cho đến nay) gồm 18 bộ (Bắc Kinh XB 1987-98), Mao Trạch Đông Quân sự Văn tập (Tuyển tập các bài viết quân sự của Mao Trạch Đông) 6 bộ (Bắc Kinh XB 1993), Mao Trạch Đông Ngoại giao Văn tuyển (Tuyển tập các bài viết ngoại giao của Mao Trạch Đông) (Bắc Kinh XB 1994), Chu Ân Lai Niên Phả, 1949-1976 (Biên niên ký của Chu Ân Lai) 3 bộ (Bắc Kinh XB 1997), Chu Ân Lai Ngoại giao Văn tuyển (Tuyển tập các bài viết ngoại giao của Chu Ân Lai) (Bắc Kinh XB 1990), Chu Ân Lai Ngoại giao Hoạt động Đại Sự ký, 1949-1975 (Ký sự những hoạt động ngoại giao của Chu Ân Lai) (Bắc Kinh XB 1993), Lưu Thiếu Kỳ Niên Phả (Biên niên ký của Lưu Thiếu Kỳ), 2 bộ (Bắc Kinh XB 1996).
Hồi Ký Và Nhật Ký
Nhiều quan chức đảng, chỉ huy quân sự, nhà ngoại giao, thư ký và thông dịch viên về hưu đã xất bản những hồi ký và nhật ký cá nhân của mình trong thập niên vừa qua. Trong vài trường hợp, các tác giả nhờ vào những phụ tá trẻ giúp họ đối chứng tài liệu trong các văn khố. Những nhật ký và hồi ký này thường cho thấy những động cơ và tính toán ngầm đằng sau những trường hợp đơn thuần về chính sách. Không những chúng cung cấp những bằng chứng mới về những lời phát biểu của Mao vốn thường không tìm thấy ở nơi khác, mà còn là một cửa sổ quan trọng cho thấy những gì ông đã đọc. Từ đó ta có thể tự do tìm hiểu mối tương giao trong các hoạt động của Mao với những đồng sự cao cấp và thư ký của mình. Từ những câu chuyện này, ta có thể nhận hiểu được quá trình thảo chính sách cũng như quan điểm của Mao. Những nhật ký và hồ ký cá nhân có ích nhất cho cuộc nghiên cứu này bao gồm Bạc Nhất Ba, Trần Canh, Hu Zhengqing, Lý Việt Nhiên, La Quí Ba, Shi Zhe, Tong Xiaopeng, Vương Bỉnh Nam, Ngũ Tu Quyền, Hùng Hướng Huy, Zeng Sheng, và Zhang Dequn[5].
Những Bài Viết Gián Tiếp
Kể từ giữa thập niên 1980, một số lớn các tài liệu gián tiếp dựa trên các nguồn lưu trữ đã xuất hiện tại Trung Quốc. Chúng bao gồm lịch sử tổng quát về đảng, quân đội, và ngoại giao, các tiểu sử, chuyên khảo và bài viết. Tác giả của chúng đa số từ Bắc Kinh, hoặc là một tập thể các tác giả do đảng tập hợp hoặc các học giả làm việc riêng rẻ được phép truy cập các kho lưu trữ. Những tác phẩm này thường trích dẫn các tài liệu lưu trữ nổi bật. Nhưng vì những cấm đoán của đảng, họ chỉ đề cập đến các nguồn tài liệu này mà không nói rõ nơi lưu trữ chúng.
Khi tìm hiểu những nguồn tài liệu mới đã nói ở trên, tôi đã tránh không để lòng phấn chấn về việc khám phá ra chúng làm ảnh hưởng đến thái độ nghiêm khắc cũng như tính nhạy cảm của mình đối với nội dung vốn vô cùng quan trọng trong việc xem xét bất kỳ bộ phận nào của các thông tin lịch sử. Khi sử dụng các tuyển tập tài liệu đã xuất bản, tôi hoàn toàn biết rõ rằng chúng đã được giới biên tập viên của đảng lựa chọn, thường là với mục đích chính trị, và chúng có thể không phải là những tài liệu hoàn hảo. Tôi đã cố gắng làm việc một cách cẩn trọng với những bộ văn tuyển này, loại bỏ một lượng lớn những cường điệu và bí ẩn. Tôi cũng đã đối xử với các hồi ký với sự cẩn trọng tương tự, hoàn toàn nhận thức được rằng ký ức của con người thì rời rạc và có thể không đúng sự thật và hồi tưởng của các cá nhân thường là để tự đề cao mình. Mỗi khi có thể, tôi đã đối chiếu và xác nhận các câu chuyện, chỉ ra những dị biệt và mâu thuẫn. Khi làm việc với các tài liệu gián tiếp dựa trên văn bản lưu trữ, tôi nhận thức rõ rằng mình phải dựa vào sự xét đoán của các tác giả cũng như sự thiếu sót trong các nguồn tài liệu mà các tác giả ấy được phép truy cập.
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Sáu, 03/01/2014          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20140102/dich-cuong-trung-quoc-va-nhung-cuoc-chien-tranh-viet-nam-1950-1975
=======================================================================
Trạch Cường - Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975 (c.1 - p.2)



Diên Vỹ chuyển ngữ

CHƯƠNG 1: CÔNG NHẬN VÀ GIÚP ĐỠ 1950-1953

Những Tiếp xúc Ban đầu giữa Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Trung Quốc
Quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Cộng sản Trung Quốc đã có từ đầu thập niên 1920 khi Hồ còn hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp tại Paris. Chính tại thủ đô nước Pháp ông đã gặp những nhân vật trong ĐCSTQ như Chu Ân Lai, Vương Nhược Phi, Tiêu Tam và Lý Phú Xuân. Vào cuối năm 1924, Quốc tế Cộng sản điều Hồ từ Moscow đến Quảng Châu để phụ giúp Mikhail Borodin, đại diện cho Đệ tam Quốc tế trong chính quyền cách mạng Trung Quốc do Quốc Dân Đảng (QDĐ) lãnh đạo. Tại Quảng Châu, Hồ cũng đã tham dự vào các hoạt động chống thực dân, điều hành một “lớp đào tạo chính trị đặc biệt” cho thanh niên người Việt. Ông đã mời Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân và Bành Bái đến nói chuyện trong lớp đào tạo của mình[1]. Sau này Chu Ân Lai đã kể lại với một nhóm khách người Việt rằng: “Năm 1922, tôi đã quen biết Hồ Chủ tịch. Vào năm 1925, Hồ Chủ tịch đã đến Quảng Châu để hỗ trợ cách mạng Trung Quốc. Đây là mối quan hệ máu thịt.”[2]
Hồ đóng vai trò tích cực trong phong trào nổi dậy của nông dân và công nhân tại Nam Trung Quốc trong giữa thập niên 1920. Trong thời kỳ tổng đình công chống lại người Anh tại Quảng Đông và Hồng Kông vào tháng Sáu 1925, Hồ đã phát biểu bằng tiếng Trung tại các cuộc biểu tình, ca ngợi hành động của họ.[3] Hồ cũng tích cực quan tâm đến Học viện Phong trào Nông dân do chính quyền Tôn Dật Tiên thành lập tại Quảng Châu như một guồng máy huy động hậu thuẫn tại các khu vực miền quê ở miền nam Trung Quốc. Hồ khuyến khích việc Bành Bái tìm cách tổ chức các hoạt động cách mạng tại Huyện Hải Phong và đóng vai một liên lạc viên giữa chính quyền Quảng Châu và tổ chức Nông dân Quốc tế (Krestintern) tại Moscow.[4]
Khi Tưởng Giới Thạch tách khỏi Cộng sản Trung Quốc vào năm 1927 và sự thay đổi đường hướng tư tưởng của Quốc tế Cộng sản đã buộc Hồ rời Trung Quốc đi Moscow. Ông quay lại Hồng Kông vào đầu năm 1930 để triệu tập một cuộc họp nhằm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Không bao lâu sau, dưới yêu cầu của Quốc tế Cộng sản, tổ chức này đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD).[5]
Bị cảnh sát Anh cầm tù tại Hồng Kông vào tháng Sáu 1931, hai năm sau Hồ được trả tự do và đi Moscow và ở lại đấy trong năm năm để nghiên cứu những tài liệu do Lenin viết. Vào mùa thu 1938, Hồ đến căn cứ của Mao tại Diên An và ở lại trong vài tuần. Sau đó ông đi về miền nam đặt các trạm liên lạc trong các khu vực do Quốc Dân Đảng chiếm đóng và tìm cách tái lập liên lạc với các phần tử thuộc ĐCSĐD đang hoạt động trong vùng.[6]
Tháng Năm 1941, Hồ chỉ đạo một hội nghị của ĐCSĐD tại Bắc Pó, một ngôi làng sát biên giới Việt Nam. Kết quả quan trọng nhất của cuộc họp này là sự xuất hiện của một mặt trận đoàn kết dân tộc có tên Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, thường được gọi là Việt Minh. Tổ chức này được thiết kế để liên kết tất cả các nhóm hoạt động dân tộc vì cuộc đấu tranh chung vì độc lập quốc gia. Hồ và các đồng sự Cộng sản đóng vai trò lãnh đạo Việt Minh đã khôn ngoan kêu gọi tinh thần dân tộc của người Việt, giảm nhẹ quyết tâm vì cách mạng xã hội và ủng hộ một cương lĩnh chính trị nhấn mạnh tính độc lập dân tộc và những cải cách “dân chủ”. Tháng Tám 1945, Việt Minh lợi dụng lỗ hổng chính trị khi Nhật đầu hàng để chiếm giữ chính quyền tại Hà Nội và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.[7]
Trong khi Hồ Chí Minh đang ăn mừng chiến thắng nhất thời, Cộng sản Trung Quốc đang chuẩn bị khôi phục cuộc nội chiến với QDĐ sau khi đánh bại Nhật. Các lực lượng quân đội ĐCSTQ nhỏ bé và trang bị nghèo nàn tại miền nam Trung Quốc đang bị đe doạ nghiêm trọng khi Quân đoàn 46 và 64 của Tưởng Giới Thạch chuyển đến các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Khu uỷ Quảng Đông quyết định rút Đệ nhất Trung đoàn thuộc Lực lượng Nhân dân Nam Quảng Đông, đơn vị chủ lực của ĐCSTQ trong khu vực, vào Việt Nam để tránh QDĐ tấn công. Khu uỷ Quảng Đông đã gửi Pang Zi và Zhu Langqing, hai cán bộ quen thuộc với Việt Nam, đến Hà Nội để yêu cầu giúp đỡ. Hoàng Văn Hoan, người đóng vai trò liên lạc với Cộng sản Trung Quốc đã tiếp đón phái đoàn ĐCSTQ và đồng ý đón nhận Đệ nhất Trung đoàn vào Việt Nam.[8]
Dẫn đầu bởi Tư lệnh Huang Jingwen và Chính trị viên Tang Caiyou, Đệ nhất Trung đoàn với số quân ở khoảng 1 nghìn người đã vào Việt Nam vào tháng Ba 1946. Hồ Chí Minh không những thoả mãn nhu cầu của Trung Quốc về lương thực và những nhu yếu phẩm khác mà còn cung cấp thuốc men để chữa các binh lính Trung Quốc đang mắc bệnh sốt rét và kiết lỵ. Để chuẩn bị chiến tranh chống Pháp khi quốc gia này đang quyết tâm tái lập vị thế thống trị của mình tại Đông Dương, Hồ đã yêu cầu các đơn vị ĐCSTQ tại Việt Nam giúp đào tạo binh lính của ông. Để tăng cường mối quan hệ với Việt Minh, vào tháng Sáu 1946 Phân bộ Đảng uỷ Hồng Kông của ĐCSTQ đã gửi Chu Nam, phó Phòng Tổ chức của Khu uỷ Quảng Đông đến Hà Nội để đóng vai trò đại diện liên lạc cho ĐCSTQ. Hoàng Văn Hoan đã yêu cầu Chu triệu tập cả Đệ nhất Trung đoàn lẫn người gốc Trung Quốc tại Việt Nam đóng góp vào cuộc chiến tranh chống Pháp. Đặc biệt Hoan muốn ĐCSTQ giúp quân đội Việt Minh đào tạo các sĩ quan và thiết lập một bộ máy tình báo.[9]
Sau khi thảo luận với Huang Jingwen, Tang Caiyou và Lin Zhong, bí thư Uỷ ban Hoạt động Biên giới Lâm thời Quảng Tây-Việt Nam của ĐCSTQ, Chu Nam thảo ra một kế hoạch giúp đỡ Việt Minh. Theo kế hoạch này, Đệ nhất Trung đoàn sẽ gửi các sĩ quan đến Trường Lục quân Cao cấp và Trung tâm Đào tạo Cán bộ Thái Nguyên để làm cố vấn và giảng viên, đến Bộ Quốc phòng để làm chuyên viên tình báo và đến các đơn vị của lực lượng Việt Minh để làm huấn luyện viên quân sự hoặc chỉ huy. Đệ nhất Trung đoàn cũng nhận các sĩ quan Việt Minh vào doanh trại để huấn luyện. Trong việc vận động người Việt gốc Trung Quốc, kế hoạch yêu cầu Đệ nhất Trung đoàn và Uỷ ban Hoạt động Biên giới Lâm thời Quảng Tây-Việt Nam của ĐCSTQ gửi cán bộ đến tỉnh Bắc Giang để thành lập các đơn vị vũ trang Hoa kiều. Lãnh đạo Việt Minh thông qua kế hoạch trên. Đến tháng Bảy 1947, có hơn 830 sĩ quan và binh lính từ quân đội Việt Minh được đào tạo tại doanh trại của Đệ nhất Trung đoàn. Một lực lượng tự vệ Hoa kiều với hơn 1 nghìn người đã được thành lập, sau đó được sát nhập vào lực lượng Việt Minh. Đệ nhất Trung đoàn quay về lại miền nam Trung Quốc để tái lập cơ sở cách mạng trong khu vực vào tháng Tám 1949 khi lực lượng chủ lực của Mao tại Bắc Trung Quốc đang đập tan quân đội Tưởng và toàn thắng tiến về phía nam.[10]
Nhìn chung, mối liên hệ giới hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam từ 1945 đến 1949 vẫn còn hạn chế. Bên cạnh việc tương trợ lẫn nhau giữa Đệ nhất Trung đoàn và Việt Minh, Phân bộ Hồng Kông đôi khi cũng cung cấp tiền bạc cho Việt Minh.[11] Không tìm được bằng chứng về việc ĐCSTQ đã giúp đỡ nhiều về kỹ thuật trong giai đoạn này. Đường dây liên lạc bằng điện tín trực tiếp giữa trung ương đảng Trung Quốc và Việt Nam cũng chưa được thiết lập cho đến mùa xuân 1947.[12] Mao vẫn còn bận rộn với cuộc chiến chống lại Tưởng Giới Thạch tại vùng Mãn Châu và Bắc Trung Quốc. Tuy nhiên tiếp xúc đầu tiên giữa Đệ nhất Trung đoàn và Việt Minh rất quan trọng vì nó củng cố mối liên hệ giữa hai phong trào cách mạng và dọn đường cho sự hợp tác của hai bên trong tương lai.
Nguồn tin tình báo của Hoa Kỳ cho biết vào năm 1946 rằng VNDCCH đã có tiếp xúc trực tiếp với Liên Sô và căn cứ của Mao và rằng các cố vấn Liên Sô và Trung Quốc đang huấn luyện binh lính của Hồ Chí Minh.[13] Về sự dính líu của Trung Quốc, các tình báo viên Hoa Kỳ đã không đúng khi cho rằng Việt Minh đã tiếp xúc trực tiếp với giới lãnh đạo trung ương ĐCSTQ vì đã không có mối liên lạc trực tiếp giữa Hồ vào Mao trong thời kỳ ấy. Các sĩ quan tình báo Hoa Kỳ đã đúng khi chỉ ra rằng các cố vấn Trung Quốc đang đào tạo quân đội Việt Minh.
Nhưng trong những nguồn tài liệu gần đây của Trung Quốc lại không thấy đề cập đến sự hiện diện của bất kỳ nhân vật Sô Viết nào trong hàng ngũ của Việt Minh trong thời gian này. Stalin, cũng như giới lãnh đạo tại Washington, vẫn nghĩ về Đông Dương theo cái nhìn của châu Âu: việc ủng hộ Hồ có thể gây nguy hại đến viễn cảnh Đảng Cộng sản Pháp có thể nắm quyền lực tại Pháp[14]. Hơn nữa, Stalin vẫn không chắc chắn rằng Hồ có thực là một người Cộng sản thuần thành hay không. Chính sách mặt trận đoàn kết của vị lãnh đạo Việt Nam đặt vấn đề độc lập dân tộc lên trên cách mạng xã hội, và việc ông giải thể ĐCSĐD vào năm 1945 đã khiến Kremlin khó chịu.[15] (Cần lưu ý một điểm thú vị là đường lối mặt trận đoàn kết tương tự của ĐCSTQ khi thành lập chính quyền mới vào năm 1949 cũng tạo nghi ngại tại Moscow.) Theo học giả Nga Igor Bukharkin, giữa tháng Chín và tháng Mười 1945, Hồ đã gửi hai bức điện đến Moscow yêu cầu viện trợ nhưng không được hồi âm.[16] Với việc Stalin đang bận rộn với những diễn tiến tại châu Âu và sự dè dặt của ông trong việc ủng hộ những phong trào cách mạng châu Á sau Chiến tranh Thế giới Lần II, rõ ràng là khó có việc ông đã gửi những cố vấn Sô Viết sang Việt Nam vào năm 1946.
Công nhận Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Mao tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc vào ngày 1 tháng Mười 1949. Không bao lâu sau, Hồ Chí Minh gửi hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy sang Bắc Kinh để xin Trung Quốc việc trợ cho cuộc đấu tranh chống Pháp.[17] Lúc ấy Mao vẫn còn ở Moscow để đàm phán hiệp ước liên minh Trung-Sô. Trong thời gian ông vắng mặt ở Bắc Kinh (từ 16 tháng Mười Hai 1949 đến 17 tháng Hai 1950), Lưu Thiếu Kỳ, quyền chủ tịch Hội đồng Trung ương ĐCSTQ đang điều hành hoạt động hằng ngày của đảng. Trong khi vẫn tham vấn chặt chẽ với Mao tại Moscow, Lưu chịu trách nhiệm đích thân điều hành chính sách Đông Dương trong thời gian này. Trong những năm sau đó, ông thường xuyên tham gia vào việc quản lý các mối quan hệ với các đảng anh em.
Sau khi nhận được yêu cầu từ đại diện của Hồ, Lưu đã triệu tập một cuộc họp của bộ chính trị vào ngày 24 tháng Mười Hai 1949 để thảo luận về vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao với VNDCCH. Phiên họp kết luận rằng sẽ lợi nhiều hơn hại nếu Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với VNDCCH trước khi người Pháp thừa nhận nước CHNDTQ.[18] Bốn ngày sau, Lưu đại diện cho Uỷ ban Trung ương ĐCSTQ gửi một bức điện đến Hồ Chí Minh nêu rõ việc Trung Quốc đồng ý thành lập quan hệ ngoại giao với chính quyền ông. Liên Sô và các quốc gia Đông Âu có thể theo sau, Lưu nói. Để tạo điều kiện dễ dàng cho việc này, Lưu khuyên Hồ nên đại diên VNDCCH tuyên bố việc sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước khác. Sau khi báo cho Hồ rằng ĐCSTQ sẽ gửi một đại diện đến Việt Nam,[19] Lưu cũng yêu cầu vị lãnh đạo Việt Minh gửi một đại biểu cao cấp sang Bắc Kinh để thảo luận các vấn đề liên quan đến cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc.[20]


La Quí Ba, người đứng đầu Nhóm Cố vấn Chính trị Trung Quốc tại VNDCCH, 1951-54; Đại sứ Trung Quốc tại VNDCCH, 1954-57 (Tài liệu của Tân Hoa Xã)

Để dễ bề liên lạc với Cộng sản Việt Nam, vào đầu tháng Giêng 1950 Lưu đã chọn La Quí Ba làm người đại diện liên lạc của Uỷ ban Trung ương ĐCSTQ với ĐCSVN. La lúc ấy đang là giám đốc Văn phòng Quân uỷ Trung ương ĐCSTQ. Lưu chỉ đạo La sang Việt Nam để tiếp xúc với ĐCSĐD, để điều tra điều kiện hoạt động bân ấy và để báo cáo những phát hiện của mình cho Bắc Kinh hầu giúp lãnh đạo đảng ra quyết định giúp đỡ Hồ. Lưu dự trù La ở lại Việt Nam trong ba tháng.[21]
Để giúp La làm quen với phong tục Việt Nam, Lưu đã điều Dương Thượng Côn, giám đốc Văn phòng Trung ương ĐCSTQ để giới thiệu La với Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy lúc ấy đang ở Bắc Kinh. Lưu cũng giám sát việc lựa chọn các thành viên trong nhóm của La, bao gồm một nhân viên tuỳ tùng, một chuyên viên điện đài, một số thư ký và bảo vệ. Sau khi La đi Việt Nam vào ngày 16 tháng Giêng, Lưu đã đánh điện cho Uỷ ban Trung ương ĐCSĐD vào ngày hôm sau, thông báo việc bổ nhiệm La làm đại diện ĐCSTQ.[22] Trên thực tế La đã ở lại Việt Nam lâu hơn nhiều so với dự tính của Lưu. Sau này ông đã trở thành người đứng đầu nhóm cố vấn chính trị Trung Quốc và được bổ nhiệm làm đại sứ Trung Quốc tại VNDCCH năm 1954. Ông giữ chức vụ này cho đến năm 1957.
Mong muốn đạt được tính chính danh và được quốc tế công nhận, vào ngày 15 tháng Giêng 1950 VNDCCH đã gửi điện đến Bắc Kinh, chính thức yêu cầu xác lập quan hệ ngoại giao. Hai ngày sau, từ Moscow, Mao đánh điện cho Lưu Thiếu Kỳ ra lệnh cho ông chuyển lời đồng ý của Trung Quốc trong việc thiết lập quan hệ chính thức với VNDCCH. Trong cùng bức điện, Mao đã chỉ thị cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc chuyển tiếp yêu cầu thiết lập quan hệ ngoại giao của VNDCCH đến Liên Sô và các nước Đông Âu.[23]
Tại Moscow, Mao đã báo với Stalin rằng Trung Quốc đang sẵn sàng thừa nhận VNDCCH và tích cực hỗ trợ cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Đông Dương. Ủng hộ kế hoạch của Mao, vị lãnh tụ Sô Viết nói rằng Trung Quốc nên công nhận VNDCCH trước và Liên Sô sẽ làm theo sau. Ông cũng nói với Mao rằng Moscow sẵn sàng cung cấp những viện trợ cần thiết cho Hồ Chí Minh.[24] Stalin chần chừ trong việc thừa nhận VNDCCH vì sợ làm mất lòng Pháp vì lúc ấy Paris đang phản đối kế hoạch của Hoa Kỳ trong việc tái vũ trang Tây Đức.[25]
Ngày 18 tháng Giêng, CHNDTQ trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận nước VNDCCH. Liên Sô kế bước vào ngày 30 tháng Giêng và không bao lâu các chính phủ Cộng sản tại Đông Âu và Bắc Hàn cũng làm theo. Bằng cách đi đầu trong việc thừa nhận VNDCCH và hối thúc những quốc gia xã hội chủ nghĩa khác làm theo, ĐCSTQ đã có một lựa chọn rõ ràng đối với cuộc cách mạng đang nổi lên tại Đông Dương và đặt tình đoàn kết với đảng anh em lên trên khả năng tạo dựng quan hệ ngoại giao với Pháp.[26]
Người Pháp đã giận dữ trước hành động của Moscow và Bắc Kinh. Paris đã tố cáo Liên Sô vi phạm luật quốc tế: “Việt Nam là một bộ phận của Liên hiệp Pháp, và với chính quyền Bảo Đại mà Pháp vừa chuyển giao chủ quyền mà nước này có được trong khối Liên hiệp Pháp.” Cho đến lúc ấy, Pháp vẫn còn do dự có nên noi gương Anh Quốc thừa nhận nước CHNDTQ hay không. Quan điểm ngả theo hướng này giờ đây đã bị dẹp bỏ.[27]
Nôn nóng thiết lập mối quan hệ cá nhân với giới lãnh đạo ĐCSTQ, Hồ đã quyết định đích thân đến thăm Bắc Kinh. Với tinh thần kiên định và bền bỉ, vị lãnh tụ Việt Minh mảnh khảnh cùng với Trần Đăng Ninh, một uỷ viên Trung ương ĐCSĐD, đã đi lội rừng suốt mười bảy ngày trước khi vượt qua địa phận Quảng Tây.[28] Được tin Hồ đến, ngày 26 tháng Giêng Lưu Thiếu Kỳ đã chỉ đạo các cán bộ đảng tại Vũ Hán tổ chức một cuộc “đón chào ấm cúng” cho vị khách Việt Nam và “cẩn thận đưa ông về Bắc Kinh.”[29]
Sau khi Hồ đến Bắc Kinh vào ngày 30 tháng Giêng, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức, phó chủ tịch Chính quyền Nhân dân Trung ương và tổng tư lệnh Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) đã mở tiệc đón chào ông. Hồ tường thuật tình hình tại Việt Nam và yêu cầu Trung Quốc viện trợ. Các lãnh đạo Trung Quốc nhanh chóng đồng ý thoả mãn yêu cầu của ông. Sau đó Lưu đã điện cho Mao để báo cáo về cuộc gặp mặt.[30] Ông nói với Mao rằng đảng đã thành lập một hội đồng bao gồm Chu Đức, Nhiếp Vinh Trăn, quyền Tổng Tham mưu QĐGPNDTQ, Lý Duy Hán, giám đốc Bộ Mặt trận Thống nhất ĐCSTQ và Liệu Thừa Chí, phó chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Hoa kiều thuộc Chính quyền Nhân dân Trung ương để giải quyết các vấn đề mà Hồ đưa ra.[31] Từ Moscow, Mao và Chu Ân Lai gửi điện cho Lưu nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến vị lãnh tụ Việt Nam. Họ chúc mừng Hồ về việc VNDCCH tham gia “đại gia đình dân chủ phản đế do Liên Sô lãnh đạo” và chúc Hồ sớm thành công trong việc thống nhất đất nước.[32]
Theo lời Hoàng Văn Hoan, đại sứ VNDCCH đầu tiên tại CHNDTQ, Lưu đã bảo Hồ rằng ông biết Pháp sẽ đình chỉ việc công nhận CHNDTQ vì việc Bắc Kinh đã đoàn kết với Việt Minh. Trung Quốc sẽ không sợ hãi, Lưu nói tiếp, vì sau này khi Trung Quốc hùng mạnh lên, người Pháp sẽ phải công nhận nó.[33] Phát biểu của Lưu rất quan trọng vì nó nói rõ rằng Trung Quốc sẵn sàng trả giá trong việc ủng hộ Việt Minh và bỏ qua việc được Pháp công nhận, một bằng chứng biểu lộ cam kết của Bắc Kinh với “chủ nghĩa vô sản quốc tế.” Nó cũng cho thấy việc người Pháp đã hiểu sai chủ ý của Trung Quốc vì một số quan chức tại Pháp đã muốn Bắc Kinh từ bỏ trợ giúp cho Hồ để đổi lại việc được công nhận.


La Quí Ba chụp ảnh chung với các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam trước một nhà khách, 1950. Hàng đầu từ trái sang phải: Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, La Quí Ba, Tôn Đức Thắng. (Tài liệu của Tân Hoa Xã)

Chính phủ Trung Quốc đã nhờ đại sứ Liên Sô N.V. Roshchin chuyển đến Kremlin đề xuất của họ là Liên Sô nên mời Hồ đến thăm Moscow và nói chuyện trực tiếp với Stalin. Ngày 3 tháng hai Hồ đi Liên Sô. Tại thủ đô Liên Sô, Stalin đã bảo Hồ rằng trợ giúp Việt Minh chủ yếu là vấn đề của Trung Quốc. Khi tham dự quốc tiệc vinh danh Mao vào ngày 6 tháng Hai, Hồ đã nói với Stalin - “nửa thật nửa đùa”, theo lời Ngũ Tư Quyền - rằng Liên Sô nên ký một hiệp ước với VNDCCH với những điều khoản tương tự như đã ký với CHNDTQ. Nhưng Stalin đã từ chối. Hồ rời Moscow về Bắc Kinh cùng với Mao và Chu vào ngày 17 tháng Hai.[34]
Đến Bắc Kinh vào ngày 3 tháng Ba, Hồ trao đổi thêm với lãnh đạo ĐCSTQ về việc Trung Quốc viện trợ cho VNDCCH. Sau những nhận định về lịch sử và điều kiện hiện tại của mỗi đảng, Lưu đề nghị rằng để tạo điều kiện thuận lợi trong việc Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam, VNDCCH nên thiết lập các lãnh sự quán tại Nam Kinh và Côn Minh, thủ phủ của Quảng Tây và Vân Nam. Hồ chấp thuận lời đề nghị này. Trong thời gian ở lại Bắc Kinh, Hồ đã chỉ thị cho Hoàng Văn Hoan rằng từ đây về sau trọng tâm đối ngoại của Việt Nam là Trung Quốc chứ không phải Thái Lan. (từ 1948 đến 1949, Hoàng Văn Hoan đã hoạt động tổ chức Việt kiều tại Thái ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp.) Hồ bổ nhiệm Hoan là đại diện chính thức của đảng và nhà nước Việt Nam tại Trung Quốc, chỉ thị cho ông bắt đầu công tác chuẩn bị thiết lập đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh.[35]


La Quí Ba (thứ sáu từ phải sang) và vợ là Lý Hàm Trân (thứ năm từ trái sang), chụp ảnh với Hồ Chí Minh (thứ tám từ phải sang) và những quan chức Cộng sản Việt Nam, 1952. (Tài liệu của Tân Hoa Xã)

Đến tháng Tư, Hồ gửi Bắc Kinh một loạt yêu cầu viện trợ bao gồm việc thành lập một trường quân sự tại Trung Quốc, điều động các cố vấn quân sự Trung Quốc đến Việt Nam, và cung cấp vũ khí. Lưu Thiếu Kỳ chỉ huy việc thực hiện công cuộc viện trợ của Bắc Kinh. Ông giúp lựa chọn địa điểm đặt trường quân sự Việt Nam, nhấn mạnh rằng các chức vụ hiệu trưởng và các trưởng khoa phải là người Việt. Hồ chấp nhận đề nghị của Lưu, và trường quân sự sau đấy được thành lập tại Vân Nam.[36]
Để người Việt làm quen với quan điểm quân sự của Mao, Lưu chỉ thị La Quí Ba giới thiệu cho họ mười nguyên tắc quân sự mà Mao đã tổng kết từ tháng Mười hai 1947.[37] Các nguyên tắc này bao gồm: (1) tấn công các lực lượng đơn lẻ và cô lập của địch trước và tấn công các lực lượng mạnh và tập trung của địch sau; (2) chiếm đóng những thành phố nhỏ hoặc trung và các khu vực hẻo lánh trước khi chiếm đóng các thành phố lớn hơn; (3) mục tiêu chính là loại bỏ hiệu lực của địch hơn là chiếm giữ các thành phố; (4) trong mọi trận đánh, tập trung lực lượng mạnh mẽ tuyệt đối để xoá sạch quân địch; (5) không được tham chiến mà không chuẩn bị; (6) nâng cao tinh thần binh lính; (7) tìm cách xoá sạch kẻ thù lúc chúng đang hành quân; (8) khi tấn công các thành phố, kiên quyết chiếm giữ toàn bộ các điểm phòng thủ của địch và các thành phố phòng thủ yếu kém; (9) tịch thu vũ khí và những quân mới tuyển của kẻ thù; (10) tận dụng thời gian giữa các chiến dịch để nghỉ ngơi, tập luyện và củng cố lực lượng.[38]
Về yêu cầu của Hồ trong việc gửi các chuyên gia quân sự sang Việt Nam để làm cố vấn tại các bộ tư lệnh và sư đoàn, và làm sĩ quan chỉ huy ở cấp trung đoàn và tiểu đoàn, giới lãnh đạo ĐCSTQ trả lời rằng họ sẽ gửi cố vấn nhưng không gửi sĩ quan chỉ huy. Vào ngày 17 tháng Tư, Quân uỷ Trung ương ĐCSTQ ra lệnh thành lập Đoàn Cố vấn Quân sự Trung Quốc (ĐCVQSTQ) bao gồm các cố vấn có khả năng giúp đỡ tại những trung tâm quân sự và tại ba sư đoàn Việt Minh và tại một trường đào tạo sĩ quan. Các chuyên gia quân sự sẽ được chọn ra từ các Tập đoàn Dã chiến Quân thứ Nhì, Tam và Tứ. Nhóm CVQS bao gồm bảy mươi chín cố vấn và phụ tá. Tổng số người trong ĐCVQSTQ là 281.[39] Việc Việt Nam yêu cầu sĩ quan chỉ huy Trung Quốc ở cấp trung và tiểu đoàn cho thấy Việt Minh gặp trở ngại rất lớn trong thành phần chỉ huy và cho thấy họ không có kinh nghiệm và tự tin để điều khiển các đơn vị lớn hơn mức đại đội.
Để đáp ứng yêu cầu của Hồ về tiếp tế quân sự, Lưu Thiếu Kỳ bảo La Quí Ba rằng ĐCSTQ sẽ “làm hết sức mình để thoả mãn yêu cầu của Việt Nam.” Đối với nhu cầu về các mặt hàng phi quân sự của Việt Nam như quần áo, thuốc men và máy móc, Lưu phác thảo một nguyên tắc rất hào phóng: “Nếu Việt Nam không có hoặc thiếu nguyên liệu để trao đổi, những mặt hàng này tạm thời được xem như viện trợ quân sự. Trong tương lai khi có thể trao đổi chung được và khi Việt Nam có thể xoay trở được nguyên liệu, [chúng ta] sẽ yêu cầu họ trả lại một phần các mặt hàng này. Hiện tại vì họ không thể trả được, chúng ta sẽ không nhắc đến. Chúng ta nên chú trọng vào việc giúp đỡ họ đánh bại chủ nghĩa đế quốc một cách hiệu quả và nên đặt những vấn đề khác xuống hàng thứ yếu.”[40]
Ngày 27 tháng Sáu 1950, Mao, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức đón tiếp các thành viên cao cấp của ĐCVQSTQ tại Bắc Kinh. Để chuẩn bị cho họ làm việc tại Việt Nam, lãnh đạo đảng đã yêu cầu Hồng Thuỷ (Vũ Nguyên Bác)(tướng Nguyễn Sơn - ND), một tướng người Việt trong QĐGPNDTQ trình bày một khoá ngắn hạn về địa lý, khí hậu và các diễn biến quân sự tại Việt Nam. Vào cuối tháng Bảy, ĐCVQSTQ được chính thức thành lập tại Nam Kinh với Tướng Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn, Mai Gia Sinh và Đặng Dật Phàm làm phó đoàn. Tại Nam Ninh, Hoàng Văn Hoan đã cung cấp thêm thông tin về tình hình Việt Nam cho ĐCVQSTQ.[41]
Nôn nóng trong việc chính thức hoá quan hệ ngoại giao, Hồ Chí Minh đề nghị trao đổi đại sứ với CHNDTQ. Trong một bức điện gửi vị lãnh tụ Việt Nam vào ngày 7 tháng Bảy 1950, Chu Ân Lai đã từ chối yêu cầu của Hồ trên cơ sở là chiến sự tiếp diễn tại Việt Nam khiến VNDCCH “bất tiện” trong việc tiếp nhận đại sứ từ các nước khác. Chu nói rằng sẽ hợp lẽ hơn khi cứ để La Quí Ba làm đại diện liên lạc cho ĐCSTQ và nán lại việc thông báo ông làm đại sứ Trung Quốc.[42] Trong lúc ấy, Hồ cũng gửi yêu cầu tương tự đến Moscow. Trong khi đồng ý đón nhận đại sứ của chính phủ Hồ, Bộ Ngoại giao Liên Sô xem việc bổ nhiệm một đại sứ Sô Viết tại VNDCCH thì không phù hợp vì chính phủ Việt Nam vẫn chưa có một địa điểm văn phòng lâu dài.[43]
Từ tháng Tư đến tháng Chín 1950, Trung Quốc đã gửi cho Việt Minh một lượng lớn hàng quân sự và phi quân sự bao gồm 14 nghìn súng trường và súng ngắn, 1.700 súng máy và súng trường không giật, 150 súng cối, 60 đại bác và 300 súng bazooka cùng với đạn dược, thuốc men, dụng cụ liên lạc, quần áo và 2.800 tấn lương thực.[44] Quân Việt Minh rất thích loại súng bazooka và súng trường không giật, họ gọi chúng là “khoẻ như voi.”[45] Quyết định giúp đỡ Việt Minh của Mao vô cùng đặc biệt trong hoàn cảnh cuộc chiến Triều Tiên bắt buộc ông phải đình chỉ việc đánh chiếm Đài Loan.
(còn tiếp)
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Ba, 07/01/2014          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20140106/trach-cuong-trung-quoc-va-nhung-cuoc-chien-tranh-viet-nam-1950-1975-p-2
=======================================================================
Trạch Cường - Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975 (c.1 - p.3)




Diên Vỹ chuyển ngữ
Những Động cơ của Mao
Tại sao Mao lại niềm nở trợ giúp Hồ Chí Minh trong năm 1950? Quyết định của Mao được thúc đẩy bởi một hỗn hợp các yếu tố phức tạp bao gồm địa chính trị, hệ tư tưởng và lịch sử. Trước tiên, Đông Dương là một trong ba mặt trận (hai mặt trận kia là Triều Tiên và Đài Loan) mà Mao xem là điểm yếu dễ bị các nước đế quốc dẫn đầu bởi Hoa Kỳ tấn công. Vị lãnh tụ Cộng sản Trung Quốc xem những diễn tiến tại Triều Tiên, Đài Loan và Việt Nam đều liên quan đến nhau. Không những ông quan ngại về một thái độ thù địch quốc tế xuất phát từ Đông Dương mà còn về những tàn dư của lực lượng Quốc Dân Đảng tại Việt nam. Sau khi phe Cộng sản chiếm giữ Quảng Tây vào tháng Mười hai 1949, một số đơn vị của Tưởng Giới Thạch đã chạy sang miền bắc Việt Nam trong khi những nhóm khác lẩn vào các vùng núi ở Quảng Tây. Sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, những nhóm quân Quốc Dân Đảng này bắt đầu quấy nhiễu các chính quyền Cộng sản vừa thành lập tại Quảng Tây. Mao thật sự lo ngại về tình hình này. Trong suốt năm 1950 và đầu 1951, ông đã dồn hết nỗ lực để xóa bỏ những tàn dư của Quốc Dân Đảng.[47] Nhìn theo bối cảnh này, việc đánh bại quân Pháp ở miền bắc Việt Nam sẽ gia cố mạnh mẽ khu vực biên giới Trung Quốc và củng cố vị thế của CHNDTQ.
Bên cạnh mối quan tâm cấp bách về an ninh trên, lòng tin vào nhiệm vụ quốc tế trong việc hỗ trợ cách mạng phản đế tại châu Á cũng góp phần lớn vào quyết tâm giúp đỡ Hồ Chí Minh của Mao. Khi Mao dấn thân vào con đường cách mạng, ông đã mong muốn chuyển hoá không những Trung Quốc mà cả thế giới. Cũng như hệ thống thế giới cũ đã làm thoái hoá Trung Quốc, sự xuất hiện của hệ thống mới sẽ đóng góp cho sự hồi sinh của Trung Quốc. Mao và các đồng chí của mình cho rằng có một quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới. Một cuộc cách mạng quốc tế sẽ giúp củng cố và chính danh hoá cuộc cách mạng Trung Quốc.[48]
Một chỉ thị nội bộ của đảng do Lưu Thiếu Kỳ soạn thảo ngày 14 tháng Ba 1950 đã minh hoạ quan điểm về mối tương quan giữa cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới. “Sau chiến thắng cách mạng của chúng ta,” bản tài liệu tuyên bố, “việc hỗ trợ bằng mọi cách các đảng Cộng sản và nhân dân trên các nước bị áp bức khác ở châu Á để họ chiếm được tự do là một nhiệm vụ quốc tế mà ĐCSTQ và nhân dân Trung Quốc không thể lẫn tránh. Nó cũng là một trong những phương pháp quan trọng nhất nhằm củng cố chiến thắng của cách mạng Trung Quốc trên vũ đài thế giới.”[49]
Tin rằng Trung Quốc đóng vai trò đặc biệt trong việc tái định hình một trật tự thế giới cho cách mạng tương lai, Mao đang đi theo bước chân của những vĩ nhân tiền phong khác trong các cuộc Cách mạng Pháp và Nga. “Những viễn kiến đầy tham vọng,” sử gia John Lewis Gaddis nhận thấy, “thì cần thiết để tiến hành các loại cách mạng: những kẻ muốn lật đổ trật tự cũ cần có những cơ sở của lòng tin trước sự hiện hữu của những khó khăn thực tế.”[50] Một viễn kiến về tư tưởng có thể khuyến khích mọi người từ những xuất xứ khác nhau hợp lực như những đồng chí và khiến họ mạo hiểm và trả những cái giá của cuộc cách mạng chống lại thể chế cầm quyền.[51]
Phần lớn, giới lãnh đạo ĐCSTQ can thiệp vào Đông Dương để xây dựng hình ảnh và diện mạo của Trung Quốc trên thế giới. Với việc đồng nhất cách mạng Trung Quốc với các phong trào giải phóng dân tộc tại các nước kém phát triển, Mao và các đồng sự của mình tin rằng khuôn mẫu cách mạng của họ mang tính quan trọng và thích đáng ở tầm mức quốc tế, giúp chỉ ra phương hướng cho những dân tộc khác đang đấu tranh giải phóng đất nước. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng CSTQ lần 7 vào năm 1945, Lưu Thiếu Kỳ đã nồng nhiệt ca ngợi đóng góp của Mao vào cuộc cách mạng Trung Quốc, hăng hái khẳng định rằng ý tưởng của Mao mang tầm vóc quan trọng đối với phong trào giải phóng các dân tộc mọi nơi, đặc biệt là với “nhân dân phương Đông.” Là người Âu châu, Marx và Lenin chủ yếu chỉ quan tâm đến các vấn đề của châu Âu và ít lưu ít đến Trung Quốc hoặc châu Á, Lưu nhận định vào đầu năm 1946, trong khi là một người Á châu, Mao đã chuyển hoá chủ nghĩa Marx “từ dạng thức châu Âu sang châu Á.” Phấn khởi trước những thắng lợi vừa đạt được của ĐCSTQ, tại Hội nghị Nghiệp đoàn các Quốc gia châu Á và châu Úc tổ chức tại Bắc Kinh năm 1949, Lưu đã tuyên bố rằng “con đường nhân dân Trung Quốc đang hướng tới để đánh bại chủ nghĩa đế quốc và tay sai và thành lập nước Cộng hoà Nhân dân cũng là con đường nhân dân các nước thuộc địa và bán thuộc địa nên đi theo trong cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân.”[52] Ngày 4 tháng Giêng 1950, báo Sự Thật đã đăng tải bài phát biểu của Lưu, xác định sự chấp thuận của Stalin.[53]
Vào tháng Sáu 1951. Lục Định Nhất, nhà lý luận hàng đầu của ĐCSTQ đã viết một bài báo ca ngợi mang tên “Tầm Quan trọng Thế giới của Cách mạng Trung Quốc” trên tờ Tri thức Thế giới, một tập san về các vấn đề quốc tế phản ánh quan điểm của Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Ông đã phân biệt sự khác nhau giữa cuộc Cách mạng Tháng Mười như là “ví dụ kinh điển cách mạng tại các nước đế quốc” và cuộc cách mạng Trung Quốc nhưng là một sự kiện tương ứng cho “các nước thuộc địa và bán thuộc địa.” “Trong các nước thuộc địa và bán thuộc địa,” Lục tuyên bố, “nhân dân Việt Nam, Miến Điện, Mã Lai và Phi đã dấy lên cuộc chiến giành độc lập dân tộc chống lại chủ nghĩa đế quốc và các phong trào giải phóng dân tộc trên các quốc gia như Ấn Độ và Nhật Bản cũng đang lớn mạnh. Khuôn mẫu và kinh nghiệm Trung Quốc giúp tăng cường sự tự tin của nhân dân tại các nước này trong việc giành chiến thắng cũng như tăng cường ý chí chiến đấu của họ.” Tư tưởng Mao Trạch Đông, Lục kết luận, không những quan trọng tại Trung Quốc và châu Á mà còn trên cả thế giới. “Nó là một đóng góp mới trong kho tàng chung của chủ nghĩa Marx-Lenin.”[54]
Vì thế cuộc chiến Đông Dương vừa là một thử nghiệm vừa là một xác định rằng diện mạo vừa có được của CHNDTQ như người đi đầu trong những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tại các khu vực thuộc địa và bán thuộc địa. Nó tạo ra một kích hoạt ngoại sinh cho quá trình vận động định dạng dân tộc và xác nhận với bản thân quốc gia và “những người khác” rằng Trung Quốc có thể bảo vệ hình ảnh đẹp đẽ của mình như là một người ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc chống lại chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.[55]
Sự ủng hộ của Stalin đã khuyến khích Mao đóng vai trò tích cực hơn trong việc phát triển phong trào cách mạng tại châu Á. Có một phân chia nhiệm vụ trong thế giới Cộng sản lúc ấy. Khi Lưu Thiếu Kỳ đến thăm Liên Sô vào tháng Bảy 1949, Stalin đã bảo ông rằng trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển từ Tây sang Đông, đến Trung Quốc và Đông Á. Với việc chuyển trọng tâm cách mạng thế giới sang hướng Đông này, vị lãnh tụ Kremlin muốn ĐCSTQ gánh thêm trách nhiệm trong việc phụ giúp cách mạng dân chủ dân tộc tại các nước thuộc địa và bán thuộc địa trong khi Liên Sô sẽ lãnh thêm trách nhiệm ở phía Tây.[56]
Tinh thần nhiệt tình hỗ trợ cách mạng tại châu Á được phản ánh rõ ràng trong một hướng dẫn mà Lưu Thiếu Kỳ gửi vào năm 1950 đến cán bộ đảng ở vùng nam Trung Quốc, chỉ đạo họ sẵn sàng tiếp xúc với các đảng Cộng sản tại Đông nam Á. Trong một bức điện gửi ngày 3 tháng Ba cho Trần Canh, chủ tịch Chính quyền Tỉnh Vân Nam và tư lệnh Tỉnh đội Vân Nam, và Tống Nhiệm Cùng, Bí thư Tỉnh uỷ Vân Nam và chính trị viên Tỉnh đội Vân Nam, Lưu Thiếu Kỳ viết rằng với việc giải phóng Vân Nam và Quảng Tây, các đảng Cộng sản ở vùng Đông nam Á, đặc biệt là Việt Nam và Miến Điện sẽ gửi đại diện đến Trung Quốc để tìm cách tiếp xúc với ĐCSTQ. “Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với chúng ta,” Lưu tiếp tục. “các uỷ ban trung ương của các đảng Cộng sản khác vẫn chưa thiết lập quan hệ chính thức và thường xuyên với chúng ta. Nếu họ gửi người sang Vân Nam và Quảng Tây để thành lập các quan hệ này, chúng ta nên nồng nhiệt đón tiếp và giúp đỡ họ. Trong tương lai, họ có thể sẽ điều động đại diện thích hợp đến thường trú bí mật ở Vân Nam hoặc Quảng Tây.”[57]
Xu hướng quân sự của Mao đối với cách mạng châu Á cũng được bộc lộ qua việc ông đối xử với Đảng Cộng sản Nhật. Ngày 6 tháng Giêng 1950, Tập san Cominform (Cơ quan Thông tin của các Đảng Cộng sản và Công nhân - ND) đăng một bài viết phê bình Nosaka Sanzo, một thành viên trong bộ chính trị ĐCS Nhật vì đã nhất quyết theo đuổi đường lối hoà bình trong việc giành quyền lực và cho rằng việc Mỹ đóng quân ở Nhật giúp thúc đẩy quá trình dân chủ hoá Nhật Bản. Bài báo kêu gọi ĐCS Nhật dùng bạo lực để phản đối việc Mỹ sử dụng quốc gia này vì mục đích quân sự.[58] Hưởng hứng quan điểm của Cominform, ngày 14 tháng Giêng Mao đã chỉ đạo Hồ Kiều Mộc, trưởng Phòng Thông tin CHNDTQ, viết một bài nhận định đăng trên tờ Nhân dân Nhật báo kêu gọi ĐCS Nhật “dùng các biện pháp thích hợp để khắc phục những sai lầm của Nosaka Sanzo.”[59]
Trong việc cung cấp viện trợ cho VNDCCH, giới lãnh đạo ĐCSTQ cũng đã nghĩ đến mối quan hệ cá nhân và tinh thần đoàn kết vô sản mà họ và Hồ Chí Minh đã vun đắp trong những năm tháng đấu tranh trước đây. Cùng chia sẻ những giá trị và lý tưởng như nhau, họ đã trải qua những khó khăn và trở ngại tương tự. Các nhà lãnh đạo ĐCSTQ vẫn còn nhớ rất rõ sự phụ giúp kịp thời và quan trọng của Hồ đối với quân đội mình tại miền nam Trung Quốc năm 1946 khi họ sắp bị Quốc Dân Đảng tiêu diệt. Trong cuộc trao đổi với La Quí Ba ngày 13 tháng Giênt 1950 Lưu Thiếu Kỳ có nhắc riêng đến sự kiện này để nhấn mạnh việc cần thiết phải giúp Hồ.[60] Có một mối tương đồng trong tính toán của giới lãnh đạo ĐCSTQ về quyết định giúp đỡ Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh trong năm 1950. Cũng như Hồ, Kim đã cung cấp nơi trú ẩn và tiếp tế cho quân đội ĐCSTQ và gia đình họ khi họ bị buộc phải rút quân từ Mãn Châu sang miền Bắc Triều Tiên trong giai đoạn đầu của cuộc nội chiến Trung Quốc, khi quân số và vũ khí của lực lượng Quốc Dân Đảng còn mạnh hơn rất nhiều. Với quyết định tham gia cuộc Chiến tranh Triều Tiên nhằm giải cứu chính quyền đang tan rã của Kim năm 1950, lãnh đạo ĐCSTQ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đáp trả thịnh tình mà họ từng nhận được từ Cộng sản Triều Tiên trước đây.[61]
Trong buổi gặp mặt với các thành viên cao cấp của Đoàn Cố vấn Quân sự Trung Quốc vào ngày 27 tháng Sáu 1950, các lãnh đạo ĐCSTQ đều đồng nhất nhấn mạnh tinh thần chủ nghĩa quốc tế. Mao nói rằng “cách mạng ta đã giành được thắng lợi, chúng ta có nhiệm vụ giúp những nước khác. Việc này gọi là chủ nghĩa quốc tế.” Lưu Thiếu Kỳ lập luận rằng đảng có “những nguyên nhân quan trọng” trong việc quyết định giúp đỡ Việt Minh. “Việt Nam là một khu vực hiện đang được thế giới chú ý nhiều nhất,” Lưu nói tiếp, “và nhiệm vụ của các đồng chí mang tầm cỡ quốc tế.” Chu Đức bổ xung rằng “là những người theo chủ nghĩa quốc tế chúng ta nên xem việc giúp đỡ Việt Nam là một nhiệm vụ quốc tế quan trọng và không nên từ bỏ bất cứ nỗ lực nào trong việc giúp người Việt giành được thắng lợi.”[62] Rõ ràng là thừa cơ từ chiến thắng Quốc Dân Đảng vừa qua, giới lãnh đạo ĐCSTQ hăng hái phát động phong trào cách mạng ra ngoài biên giới Trung Quốc. Chắc chắn là những thành công ban đầu của Kim Nhật Thành trong Chiến tranh Triều Tiên cũng đã khuyến khích Mao và các đồng chí trong thời điểm này.
Cuối cùng, việc Bắc Kinh can thiệp vào Đông Dương cần được phân tích trong bối cảnh của quan hệ truyền thống giữa Trung Quốc và các nước láng giềng. Trên khía cạnh lịch sử, người Trung Quốc mang quan điểm quốc gia họ là trọng tâm của thế giới, xem các nước khác là thấp kém hơn. Các hoàng đế Trung Quốc xem Việt Nam nằm trong quĩ đạo của ảnh hưởng Trung Quốc và đặt nước này trong hệ thống chư hầu. Họ không ngần ngại đưa quân sang Việt Nam để tái lập hoà bình và trật tự nếu vị vua chư hầu hiện tại đang bị đe doạ bởi khởi nghĩa trong nước hoặc ngoại xâm. Ví dụ như trong giai đoạn 1788 đến 1790, hoàng đế nhà Thanh là Càn Long đã gửi một đoàn quân viễn chinh đến Việt Nam để khôi phục triều Lê vừa bị phiến quân địa phương lật đổ. Khoảng một thế kỷ sau, chính quyền nhà Thanh một lần nữa lại can thiệp vào Việt Nam từ 1884-85 để chống lại sự xâm lược của người Pháp.[63] Mao và các đồng chí của mình, những người luôn xem trọng lịch sử đã không thể bỏ qua những tương ứng lịch sử này.
Đối với người Việt thì họ có truyền thống hướng về Trung Quốc để tìm kiếm khuôn mẫu và nguồn động lực. Trong suốt lịch sử của mình, các vị vua Việt đã bắt chước và phỏng theo các phương pháp và định chế của Trung Quốc để biến mình thành một lực lượng chính danh bất chấp việc Trung Quốc liên tục can thiệp vào công việc của họ. Tôn trọng hoàng đế Trung Quốc bề trên là phương cách duy nhất để tránh chiến tranh của người Việt, và chấp thuận những phong tục Trung Quốc đã trở thành thói quen của giới cầm quyền Việt Nam. Chỉ đến khi người Pháp xuất hiện vào thế kỷ thứ mười chín làm gián đoạn mạnh mẽ mối liên hệ văn hoá kéo dài nhiều thế kỷ giữa Việt Nam với Trung Quốc, nơi mọi người Việt có giáo dục đều học tiếng Trung cũng như nền văn hoá và nguyên tắc đạo đức gắn liền với nó. Chính sách của Pháp trong việc dẹp bỏ chữ Hán và chữ Nôm trong giới trí thức Việt, tạo ra việc tiếp nhận bảng chữ cái 29 mẫu tự để viết tiếng Việt mà trong các thập niên 1920 và 1930 đã dẫn đến cuộc cách mạng tri thức làm nền móng cho sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc hiện đại. Những người quốc gia Việt Nam hướng về châu Âu để tìm kiếm quan điểm tri thức thay vì Trung Quốc.[64] Trong một ý nghĩa nhất định, quyết định của Hồ trong việc tìm kiếm trợ giúp từ Mao không chỉ được cân nhắc thuần tuý trên cơ sở ý thức hệ. Nó còn phù hợp với thói quen trong lịch sử của Việt Nam là chuyên hướng về Trung Quốc để tìm kiếm khuôn mẫu trong khi vẫn giữ nguyên quyền độc lập.
Điều quan trọng cần lưu ý là ngay từ ban đầu các lãnh đạo ĐCSTQ đã lưu tâm đặc biệt đến quan hệ của họ với Việt Minh và chỉ đạo các cố vấn Trung Quốc không được tỏ vẻ ngạo mạn khi sang Việt Nam. Ngày 8 tháng Tư 1950 Lưu Thiếu Kỳ bảo La Quí Ba rằng các cán bộ Cộng sản Việt Nam lẫn Trung Quốc đều chưa biết rõ nhau. Vì việc thiếu hiểu biết chung về nhau này, Lưu nhắc nhở vị đại diện ĐCSTQ rằng “những hiểu lầm không cần thiết và cảnh giác quá mức” có thể xảy ra. Vì cả hai đảng đều từng trải qua nhiều năm đấu tranh cách mạng. Lưu kết luận, họ nên xây dựng một sự tin tưởng lẫn nhau.[65]
Ngày 27 tháng Sáu cả Mao và Lưu đều nhấn mạnh cho ĐCVQSTQ tầm quan trọng của quan hệ đoàn kết thân tình giữa hai đảng. Họ khuyên các cố vấn Trung Quốc tránh xa tâm lý sô-vanh nước lớn và không được bày tỏ thái độ khinh thường với người Việt.[66] Trong một bức điện gửi cho La Quí Ba vào tháng Tám, Lưu đã chỉ thị cho La không được áp đặt quan điểm của mình đối với người Việt và không nên phật lòng nếu họ không làm theo đề nghị của ông.[67]
Những ý kiến của Mao và Lưu cho thấy rõ ràng cả hai đều rất nhạy cảm đối với lòng tự hào dân tộc của người Việt và nhận thức rõ những hiềm khích lịch sử giữa hai quốc gia sau những lần Trung Quốc can thiệp vào Việt Nam. Cũng có thể là khi các lãnh đạo ĐCSTQ kêu gọi những cố vấn Trung Quốc nên có thái độ khiêm tốn và tôn trọng vì họ vẫn còn nhớ đến những bài học đầy cay đắng của các cố vấn Liên Sô tại Trung Quốc trong thời kỳ cách mạng Trung Quốc mới thành hình. Đầu thập niên 1930, thái độ thô lỗ và kiêu ngạo của các cố vấn Đệ Tam Quốc Tế đã gây thiệt hại nặng nề cho ĐCSTQ và Hồng quân, khiến họ phải rời bỏ các căn cứ ở miền nam Trung Quốc và tham gia vào cuộc Vạn lý Trường chinh. Bất chấp nỗ lực rõ rệt của họ nhằm tôn trọng ý kiến của người Việt, các chương sau sẽ cho thấy các lãnh đạo Trung Quốc đã thất vọng và giận dữ khi những đồng chí Việt Nam tách khỏi hướng đi của Trung Quốc.
Chủ trương “nghiêng về một phía” của Hồ Chí Minh đã tạo ra những hệ quả nghiêm trọng trong cuộc chiến Đông Dương. Với việc đứng về phe xã hội chủ nghĩa ông đã làm tình trạng phân cực của cuộc Chiến tranh Lạnh tại châu Á thêm rõ rệt. Cũng như việc Mao đạt được hiệp ước liên minh Trung-Sô để cân bằng Trung Quốc trước mối đe doạ của Mỹ và phát triển lý tưởng Cộng sản, Hồ kêu gọi giúp đỡ từ Trung Quốc và Liên Sô để chống lại người Pháp và bảo vệ những thành quả cách mạng của mình. Với việc nhờ Trung Quốc giúp đỡ ông đã tăng cường khả năng người Mỹ sẽ can thiệp sau này. Với những lựa chọn của mình, Hồ đã củng cố thêm sự liên kết của hai phía trong Chiến tranh Lạnh. Như là một động thái nghiêng về phía tả, ĐCS Đông Dương, trên lý thuyết đã bị giải tán vào mùa thu năm 1945 nhằm hấp dẫn thành phần quốc gia phi Cộng sản, lại tái xuất hiện vào Đại hội Toàn quốc lần Hai vào tháng Hai 1950 với cái tên Đảng Lao Động Việt Nam; một tổ chức khác cho Cambodia đã được thành lập sau đó vào năm 1951, và Đảng Nhân Dân Lào được thành lập vào năm 1955. Hồ được bầu làm chủ tịch và Trường Chinh làm tổng bí thư đảng. Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học hỏi kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc, và một điều lệ mới của đảng chỉ ra rằng “Đảng Lao Động Việt Nam sẽ tổng hợp các học thuyết Marx, Engels, Lenin, Statlin và Tư tưởng Mao Trạch Đông với thực tiễn cách mạng Việt Nam để làm nền tảng tư tưởng và cương lĩnh hành động của đảng.” Chân dung Mao được treo cùng với các chân dung của Marx, Engels, Lenin và Statin tại hội trường đại hội.[68]
Trần Canh và Chiến dịch Biên giới
Tháng Sáu 1950 Hồ Chí Minh quyết định phát động một chiến dịch biên giới để tạo đường liên lạc với Trung Quốc. Lúc này người Pháp đang kiểm soát một dãy tiền đồn dọc theo biên giới Trung Quốc. Việc xóa bỏ các vị trí của Pháp sẽ giúp củng cố căn cứ Việt Minh tại Việt Bắc, loại bỏ các trở ngại trên tuyến vận chuyển hàng tiếp tế từ Trung Quốc và đặt quân của Hồ vào vị thế mạnh hơn để phát động các cuộc tấn công vào vùng châu thổ sông Hồng nhiều lúa gạo trong tương lai.
Thoạt đầu, Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN; quân đội Việt Minh lấy tên này từ năm 1950) dự định sẽ sử dụng bốn trung đoàn tinh nhuệ đang được huấn luyện và tổ chức tại Trung Quốc từ tháng Tư 1950 để tấn công Lào Cai và Cao Bằng, hai tiền đồn quan trọng của Pháp trên RC4 (Đường Thuộc địa số Bốn) song song với biên giới Trung Quốc. Sau khi cân nhắc những khó khăn trong việc tiếp vận, họ thay đổi kế hoạch bằng cách tập trung vào Cao Bằng. Bên cạnh việc yêu cầu Trung Quốc cung cấp tiếp liệu và gửi đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam càng sớm càng tốt, Hồ cũng đã yêu cầu gửi sang một cố vấn quân sự Trung Quốc cao cấp để điều phối toàn bộ chiến dịch biên giới.[69]
Sau khi nhận được yêu cầu của Hồ, lãnh đạo ĐCSTQ đã chọn Tướng Trần Canh làm đại diện và cố vấn quân sự cao cấp đến QĐNDVN. Không như nhiều vị tướng QĐGPND khác xuất thân từ tầng lớp nông dân, Trần là một người có học thức. Đẹp trai và trau chuốt, ông được mệnh danh là một “vị tướng học giả”. Ông sinh năm 1903 trong một gia đình địa chủ giàu có tại Hồ Nam; ông nội ông từng là một chỉ huy trong quân đội nhà Thanh. Lên sáu tuổi, Trần bắt đầu theo học Khổng giáo. Năm 1919, ông tham gia vào quân đội của một lãnh chúa Hồ Nam; năm năm sau, ông trở thành một người Cộng sản. Lịch sử quân sự là môn ông ưa thích khi còn là học viên tại Học viện Quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu trong giữa thập niên 1920. Trong thời gian ấy, ông cũng quen biết Hồ Chí Minh. Trong thời nội chiến, ông là tư lệnh Quân đoàn số 4 thuộc Tập đoàn Dã chiến Quân thứ Nhì QĐGPND. Đơn vị ông chiếm đóng Vân Nam vào đầu năm 1950.[70]
Trong một bức điện gửi ngày 18 tháng Sáu 1950. Lưu Thiếu Kỳ chỉ đạo Trần chuẩn bị một kế hoạch thực tế và khả thi sau khi xem xét các yếu tố về tình hình chiến sự, diễn biến chính trị, kinh tế, địa hình và giao thông tại Việt Nam cũng như khả năng tiếp vận của Trung Quốc, đặc biệt là về mặt giao thông. Lưu nói rằng đảng sẽ dùng kế hoạch này làm nền tảng cho những chương trình trợ giúp khác, bao gồm việc gửi hàng tiếp tế, đào tạo cán bộ, tổ chức quân đội, tuyển quân, quản lý tiếp vận và tham chiến. Lưu nhấn mạnh rằng kế hoạch này phải được Uỷ ban Trung ương đảng Việt Nam thông qua.[71]

northvietnammap.png
Bắc Việt Nam năm 1950. Nguồn: Jacques Dalloz, Chiến tranh tại Đông Dương. 1945-54 (Dublin: Gill & Macmillan, 1987)

Ngày 7 tháng Bảy Trần Canh rời Côn Minh đi Việt Nam. Trên đường ông cẩn thận điều tra các điều kiện tại Đông Dương. Đầu tiên ông dừng lại trại huấn luyện Nghiễn Sơn ở Vân Nam, nơi Sư đoàn 308 của QĐNDVN đang huấn luyện và trang bị. Tướng Chu Hi Hán, tư lệnh Tập đoàn quân 13, người chịu trách nhiệm đào tạo binh lính Việt Nam, báo cáo với Chu về công việc của mình. Trần cũng trao đổi với các chỉ huy Sư đoàn 308 về tình hình trong nước. Cải trang là một sĩ quan QĐNDVN sau khi vượt qua biên giới, Trần tiếp tục điều tra việc chuyển quân của quân Pháp ở miền bắc Việt Nam và tình trạng của QĐNDVN.[72] Việc Trần chú trọng vào trinh sát đi cùng hướng với phương pháp giảng dạy quân sự truyền thống của Trung Quốc là phải điều nghiên kỹ lưỡng trước khi tiếp cận kẻ thù. Tôn Tử, một nhà chiến lược xưa của Trung Quốc từng khuyên rằng: “Hiểu địch hiểu ta, trăm trận trăm thắng.”[73]
Trong nhật ký của mình, Trần nói rằng ông phát hiện ra Việt Minh không quan tâm đến việc huy động phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Vì nữ giới chiếm hơn nửa dân số Việt Nam, Trần tin rằng bỏ qua họ có nghĩa là bỏ phí hơn phân nửa nguồn nhân lực. Ông chỉ ra điều này với cách lãnh đạo Việt Nam.[74] Rõ ràng Trần đang áp dụng học thuyết “chiến tranh nhân dân” của Mao vào Việt Nam. Trong chiến tranh chống Nhật và nội chiến, Mao đã thành công trong việc huy động phụ nữ cho mục đích của mình.
Ngày 22 tháng Bảy, Trần báo cáo với lãnh đạo ĐCSTQ về những phát hiện của ông về QĐNDVN: “Một số đơn vị tinh nhuệ Việt Nam đang có tinh thần cao sau khi được huấn luyện và trang bị ở Vân Nam và Quảng Tây, nhưng các cán bộ Việt Nam trên cấp tiểu đoàn thiếu kinh nghiệm chiến đấu thực sự.” Với tình hình này, Trần đề nghị rằng nguyên tắc của chiến dịch biên giới nên là “phá huỷ lực lượng cơ động của địch trên các chiến trường và chiếm đóng một số tiền đồn nhỏ lẻ loi nhằm giành chiến thắng ban đầu trong khi có thêm kinh nghiệm và nâng cao tinh thần binh lính. Sau khi đạt được hoàn toàn các mục tiêu ban đầu, chúng ta có thể từ từ tiến đến các trận chiến cỡ lớn.” Về kế hoạch tấn công Cao Bằng của Việt Nam, Trần đề xuất chiến lược “bao vây tiền đồn và tấn công lực lượng tiếp cứu.” Đặc biệt Trần đề nghị QĐNDVN nên tấn công các tiền đồn lẻ loi gần Cao Bằng trước để lôi kéo lực lượng tiếp cứu của Pháp từ Lạng Sơn. “Nếu chúng ta có thể tiêu diệt được ba đến bốn tiểu đoàn cơ động từ Lạng Sơn thì sẽ dễ chiếm Cao Bằng và một số đồn gần Lạng Sơn.” Nếu điều này xảy ra, Trần tin rằng tình hình ở phía bắc và đông bắc Việt Nam “sẽ thay đổi lớn.” Trong bức điện gửi ngày 26 tháng Bảy, Quân uỷ Trung ương ĐCSTQ thông qua kế hoạch tác chiến của Trần.[75]
Ngày 28 tháng Bảy, Trần đến trụ sở hành chính của Việt Minh tại Thái Nguyên để gặp Hồ Chí Minh và La Quí Ba. Hồ rạng rỡ dang tay đón mừng Trần. Tại tư gia mình, Hồ đã đọc một bài thơ tiếng Trung mà ông sáng tác để đón Trần.[76] Vị đại diện Trung Quốc ở lại Thái Nguyên bốn ngày, trong thời gian đó ông báo cho Hồ kế hoạch của mình cho chiến dịch biên giới. Ông nói với vị lãnh tụ Việt Nam rằng QĐNDVN hiện tại chưa sẵn sàng tham chiến để lấy Cao Bằng. Trước hết Việt Minh nên tấn công các đồn nhỏ của Pháp để cùng lúc huấn luyện các chỉ huy và binh lính. QĐNDVN nên sử dụng chiến thuật vây đồn trong khi xoá sạch lực lượng tiếp cứu của địch trong các mặt trận cơ động. Đặc biệt, Trần đề nghị QĐNDVN trước hết nên tấn công Đông Khê, một tiền đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn để lôi kéo địch ra khỏi hai vị trí này và tiêu diệt chúng trên chiến trường. Hồ ủng hộ kế hoạch của Trần.[77] Trần viết trong nhật ký rằng sau khi trao đổi với Hồ cùng những lãnh đạo người Việt khác và lắng nghe báo cáo của La, ông thấy rằng các lãnh đạo Việt Minh có vẻ “thiếu kiên nhẫn”“đơn thuần chú trọng vào vũ khí” trong cuộc chiến chống Pháp của họ.[78]
ĐCVQSTQ cùng với Hoàng Văn Hoan rời Nam Ninh, Quảng Tây vào ngày 9 tháng Tám và đến căn cứ QĐNDVN tại Quảng Nguyên, một thị trấn gần Cao Bằng vào ngày 12 tháng Tám. ĐCVQSTQ gửi thành viên đến các Sư đoàn 304, 308 và 312. Cuối năm ấy, họ cũng gửi cố vấn đến Sư đoàn 316 và Sư đoàn Công binh và Pháo binh 316 (còn gọi là “Sư đoàn hạng nặng”). Cùng lúc ấy, Tướng Lý Thiên Hựu, phó tư lệnh Quân khu Quảng Tây đứng đầu uỷ ban tiếp vận chịu trách nhiệm chuẩn bị và vận chuyển lương thực, đạn dược và thuốc men đến Việt Nam. Hai bệnh viện dã chiến được dựng lên để cứu chữa lính Việt Nam.[79]
Hai ngày sau khi ĐCVQSTQ đến nơi, Trần Canh cũng đến Quảng Nguyên, ở đó ông gặp Vi Quốc Thanh. Tướng Hoàng Văn Thái, tổng tham mưu trưởng QĐNDVN đã báo cáo với Trần về tình hình triển khai của quân Pháp dọc đường số 4. Trần nói với Võ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh QĐNDVN về kế hoạch của mình cho chiến dịch biên giới. Giáp chấp thuận kế hoạch và mời vị cố vấn Trung Quốc nói chuyện với các chỉ huy cấp trung đoàn của QĐNDVN. Trần đã phát biểu trong bốn tiếng đồng hồ, tập trung vào những “thiếu sót” của QĐNDVN. Cử toạ đã rất chú ý đến bài nói chuyện của ông; Giáp từng nhắc đến nhiều lần là phát biểu của Trần “rất bổ ích”. Vào đêm trước chiến dịch biên giới, Hồ đã đến thăm bộ tư lệnh QĐNDVN, phó thác quân đội mình vào kế hoạch của Trần.[80]

chengeng-vonguyengiap.png
Võ Nguyên Giáp (phải) đón La Quí Ba (trái) tại biên giới Trung-Việt, 1950. (Tài liệu của Tân Hoa Xã)

Ngày 16 tháng Chín QĐNDVN tấn công vào Đông Khê và hai ngày sau đã chiếm được đồn này. Tại Đông Khê, quân của Hồ đã thắng trong một cuộc giao tranh pháo binh đầu tiên.[81] Nhưng con người khó tính Trần Canh vẫn chưa hài lòng với hiệu quả chiến đấu của quân đội Việt Minh. Đồn Đông Khê của Pháp có khoảng 260 lính trong khi lực lượng Việt Minh lên đến 10 nghìn với hoả lực pháo mạnh hơn. Khi trận chiến chấm dứt, QĐNDVN có khoảng 500 người tử vong và để hơn 20 lính Pháp tẩu thoát. Ban đầu Trần muốn quân Việt Minh chiếm được đồn chỉ trong vòng một ngày, nhưng họ đã phải mất đến hai ngày và ba đêm để kết thúc trận đánh. Trần phát hiện ra một số vấn đề trong các đơn vị của Hồ. Trước tiên, họ đã không đi đúng thời điểm tấn công như trong kế hoạch. Cuộc tổng tấn công được dự định là bắt đầu vào chạng vạng tối 16 tháng Chín, nhưng các đơn vị Việt Minh đã không khởi sự cho đến tảng sáng ngày hôm sau. Khi mặt trời lên, họ phải rút quân vì sợ Pháp không kích. Rồi họ phải tái tấn công vào chạng vạng tối hôm ấy. Thứ hai, các chỉ huy QĐNDVN sợ phải ra tuyến đầu, vì thế đã không tiếp cận được các đơn vị đột kích. Thứ ba, không có liên lạc giữa ban chỉ huy và các đơn vị. Thứ tư, một số cán bộ đã báo cáo láo để giấu những tin xấu. Trần đưa những vấn đề này ra cho Giáp.[82] Rõ ràng những sai lầm này là những ví dụ về “những thiếu sót” mà Trần đã chỉ ra trước trận Đông Khê.
Tuy nhiên việc chiếm được Đông Khê là một chiến thắng lớn của QĐNDVN trong việc cắt đứt đường 14, giải thoát Cao Bằng. Pháp đã đưa một toán quân do Trung tá Lepage dẫn đầu từ Lạng Sơn qua Thất Khê để tái chiếm Đông Khê. Cùng lúc ấy, một đơn vị khác của Pháp tiến về trung tâm căn cứ của Việt Minh tại Thái Nguyên. Trần đoán rằng quân Pháp tiến về Thái Nguyên nhằm đánh lạc hướng quân Việt Minh tại Đông Khê để quân Pháp tại Cao Bằng có thể tuồn ra và nhập với toán quân của Lepage. Vì thế, Trần đề nghị QĐNDVN giữ nguyên kế hoạch ban đầu và ở lại Đông Khê.[83]
Trần quyết định phục kích kẻ thù đang tiến về từ Thất Khê.[84] Ngày 30 tháng Chín, đoàn quân của Lepage rời Thất Khê đi Đông Khê nhưng bị phục kích tại khu vực đồi núi phía nam Đông Khê. Ngày 3 tháng Mười, Trung tá Charton bỏ Cao Bằng và dẫn quân về phía nam. Quyết định ngăn chặn việc hai đơn vị của Lepage và Charton gặp nhau, bộ tư lệnh QĐNDVN, theo đề nghị của Trần, đã ra lệnh cho Sư đoàn 308, Trung đoàn 209 và một tiểu đoàn độc lập bao vây và tiêu diệt toán quân của Lepage trước khi tấn công toán quân của Charton.[85] Ngày 8 tháng Mười, quân Việt Minh đã xoá sạch toán quân của Lepage. Hai ngày sau, họ cũng tiêu diệt nốt đơn vị của Charton. Cả Lepage lẫn Charton đều bị bắt. Không bao lâu sau Pháp đã rút khỏi Lào Cai, Lạng Sơn và Hoà Bình, để lại 11 nghìn tấn đạn dược và rời bỏ hầu hết khu vực phía bắc của châu thổ sông Hồng.[86]
Thành công của chiến dịch biên giới mang tầm quan trọng rất lớn đối với Việt Minh. Đến cuối năm, ngoại trừ tiền đồn duyên hải tại Móng Cái, Việt Minh đã hoàn toàn xóa sạch các đồn của Pháp dọc theo biên giới Trung Quốc và không còn một trở ngại nào trong việc vận chuyển quân đội và vũ khí từ Trung Quốc. Việc Pháp rút khỏi Hoà Bình cũng mở được liên lạc giữa Việt Bắc và khu vực “giải phóng” phía bắc Bắc Kỳ, sát nhập lãnh thổ Việt Minh thành một. Giờ đây Việt Minh có thể tuỳ ý tấn công khu vực châu thổ sông Hồng và rút về căn cứ Việt Bắc mà không sợ bị Pháp phản ứng. Theo lời nhà sử học William J. Duiker, Việt Minh “lần đầu tiên giữ được vai trò chủ động trong cuộc chiến.”[87] Chiến thắng biên giới cũng giảm bớt nỗi lo của Bắc Kinh bị tàn dư Quốc Dân Đảng tấn công ở Đông nam Á.
Sau khi chiến dịch biên giới kết thúc, Mao gửi điện đến Trần bày tỏ “rất hài lòng” đối với chiến thắng của Việt Minh. Vị lãnh tụ ĐCSTQ yêu cầu Trần giúp quân đội Hồ rút ra các bài học từ chiến dịch.[88] Trần đi đến các chiến trường, chỉ cho các tư lệnh QĐNDVN xem cách phát triển khả năng chỉ huy chiến đấu. Ngày 11 tháng Mười, Trần trao đổi với Hồ và Giáp, đưa ra những đề xuất toàn diện để phát triển QĐNDVN. Đề xuất của ông bao gồm việc tái cơ cấu quân đội Hồ, thăng chức các cán bộ, đối xử với tù binh, sửa chữa những đại bác và súng tịch thu được. Trần đề nghị lãnh đạo Việt Minh tổ chức các cuộc biểu tình ăn mừng để loan báo chiến thắng biên giới, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn và khen thưởng các cá nhân gương mẫu như là cách để nâng cao tinh thần chiến sĩ. Theo Trần, nên có những tấm gương khác nhau giữa cán bộ, chiến sĩ và dân vận tải. Để khuyến khích “chủ nghĩa anh hùng cách mạng,” Trần cũng kêu gọi Việt Nam tổ chức những buổi lễ tưởng niệm những người đã chết trong chiến dịch biên giới. Về việc đối xử với tù binh chiến tranh, Trần đề nghị Việt Minh trước tiên nên dùng họ vào việc làm suy giảm tinh thần kẻ thù bằng cách yêu cầu họ viết thư và phát biểu, và tuyển dụng lại nhiều tù binh người Việt trong khi trả tự do cho các tù binh người Ma Rốc và Pháp sau khi giáo dục họ tư tưởng cách mạng. Theo nhật ký của Trần, Hồ và Giáp “hoan hỉ” chấp nhận các đề nghị của ông.[89] Lời khuyên của Trần về việc ăn mừng chiến thắng, lựa chọn các tấm gương cá nhân và cách đối xử với tù binh dựa trên cách thức tương tự của Trung Quốc trong thời kỳ chống Nhật và nội chiến. Bằng cách quảng bá những nghi lễ theo phong cách Mao như tưởng nhớ và ca ngợi các gương anh hùng tại Việt Nam, Trần giúp giới thiệu một quá trình rất quan trọng mà qua đó các thành viên Việt Minh có thể gắn bó với nhau.
Từ ngày 27 đến 30 tháng Mười, Việt Minh đã tổ chức các cuộc họp tổng kết cho các chỉ huy trên cấp tiểu đoàn. Trường Chinh đã đại diện cho lãnh đạo Việt Minh đọc báo cáo kinh nghiệm chiến dịch biên giới. Theo yêu cầu của Hồ, Trần đã phát biểu trong bốn ngày tại hội nghị. Trước tiên ông phân tích những nguyên nhân tạo nên chiến thắng của Việt Minh, ca ngợi tinh thần dũng cảm và ngoan cường của các chiến sĩ. Cảnh báo họ không nên tự phụ với chiến thắng, Trần kêu gọi Việt Minh sẵn sàng trước sự can thiệp của Mỹ. Ông tiếp tục chỉ ra những điểm yếu của QĐNDVN bao gồm việc các chỉ huy không quan tâm đến lính, trừng phạt thể lực, chậm trễ triển khai mệnh lệnh, kỷ luật lỏng lẻo và thói quen chỉ báo cáo thành tích.[90]
Lãnh đạo Việt Minh rất hài lòng với kết quả của chiến dịch biên giới. Hồ Chí Minh cho Trần xem các bức điện ông gửi Stalin và ĐCS Pháp báo cáo thành công của chiến dịch.[91] Tán dương tài chỉ huy quân sự của Trần, Hồ nói rằng chiến dịch biên giới đã đạt được chiến thắng vĩ đại mà ông mong muốn, gọi nói là “thắng lợi của chủ nghĩa quốc tế vô sản.” Giáp cho rằng chiến dịch này đã đập tan kế hoạch của Pháp trong việc đóng cửa biên giới Việt Nam để phong toả Việt Minh. “Chiến thắng này cho thấy”, vị tổng tư lệnh QĐNDVN nói tiếp, “tư tưởng quân sự của Mao rất phù hợp với Việt Nam.”[92] Hồ yêu cầu Trần ở lại Việt Nam để hướng dẫn chiến dịch quân sự sắp tới của Việt Nam, nhưng Trần đã nhận được lệnh mới từ Bắc Kinh và rời Việt Nam vào đầu tháng Mười một 1950. (Ngày 8 tháng Sáu năm sau, Trần được bổ nhiệm phó tư lệnh lực lượng Chí nguyện Quân Trung Quốc và đã lên đường đi Triều Tiên vào tháng Tám.) Sau khi Trần ra đi, ĐCVQSTQ giữ toàn bộ vai trò cố vấn QĐNDVN.
(còn tiếp)
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Năm, 16/01/2014          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20140116/trach-cuong-trung-quoc-va-nhung-cuoc-chien-tranh-viet-nam-1950-1975-p3
=======================================================================
Trạch Cường - Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975 (c.1 - p.4)




Diên Vỹ chuyển ngữ
Những Thất bại và Tái Tổ chức Năm 1951
Rõ ràng là phấn khởi từ thắng lợi trong chiến dịch biên giới cũng chiến thắng của Trung Quốc trong những trận đầu tiên với lực lượng Liên Hiệp Quốc ở Triều Tiên, vào cuối năm 1950 ĐCVQSTQ và QĐNDVN quyết định phát động một cuộc tổng tiến công vào khu vực châu thổ sông Hồng. Một số cán bộ cao cấp của đảng xem chiến dịch biên giới là “một cuộc tấn công từng phần” sau đó chuyển thành một cuộc tấn công toàn diện.[93] Võ Nguyên Giáp là người cổ xuý chính cho việc chuyển sang giai đoạn thứ ba và cuối cùng của cuộc chiến tranh nhân dân (hai giai đoạn đầu là phòng thủ chiến lược và bao vây). Năm 1950 ông đã phát hành một tờ rơi có tên “Nhiệm vụ của Quân đội trong việc Chuẩn bị cho cuộc Tổng Phản công”, trong đó ông tuyên bố điều kiện đã chín mùi để lực lượng cách mạng chuyển sang tổng tấn công để loại bỏ kẻ thù với số lượng lớn và để chiếm đóng các thành phố. Giáp đề cập đến bốn điều kiện đánh dấu việc chuyển sang giai đoạn cuối cùng: (1) tinh thần quyết tâm chiến đấu của quân cách mạng cao hơn nhiều so với địch quân; (2) sự tiếp tục vượt trội của địch chỉ đơn thuần về mặt quân sự, có gây khó khăn cho Việt Minh nhưng không có nghĩa là bất khả kháng; (3) sự phát triển quan trọng của các yếu tố quốc tế (ám chỉ sự trợ giúp của Trung Quốc); và (4) sự vượt trội về chiến lược lãnh đạo của lực lượng cách mạng.[94] Một số lãnh đạo khác trong đảng cũng thiên về việc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng để giải quyết nạn thiếu gạo trong các vùng giải phóng.[95]
Tháng Giêng 1951, Giáp phát động Chiến dịch Hoàng Hoa Thám 1 bằng cách tấn công thủ phủ Vĩnh Yên, cách Hà Nội ba mươi bảy dặm về phía tây bắc trong khu vực miền tây của châu thổ sông Hồng.[96] Giáp chọn chiến thuật biển người mà Trung Quốc đang sử dụng tại Triều Tiên.[97] Tướng Jean de Lattre de Tasigny, tân tổng tư lệnh của Pháp tại Đông Dương,[98] đã đối phó bằng cách đưa quân dự bị theo đường hàng không từ Trung Kỳ đến Vĩnh Yên và ném bom xăng lên đối phương. Việt Minh đã không chiếm được thành phố và bị thiệt hại ít nhất là 6 nghìn quân.[99]
Nhưng thất bại này vẫn không làm thay đổi kế hoạch của Giáp. Vào cuối tháng Ba, ông đưa các đơn vị của mình về hướng đông để tấn công Mạo Khê nằm ở cực bắc châu thổ (Chiến dịch Hoàng Hoa Thám 2). Sau bước đầu đột phá thành công tuyến phòng ngự đầu của Pháp, phe tấn công đã không chiếm được thị trấn và phải từ bỏ kế hoạch của mình sau khi bị thất tổn nặng nề. Tấn công của Giáp vào khu vực Phủ Lý và Ninh bình trên Sông Đáy phía nam Hà Nội vào tháng Năm cũng chịu chung số phận.[100] Những thất bại này đã khiến các cố vấn Trung Quốc nghĩ rằng quá sớm và quá khó để Việt Minh đạt được một chiến thắng dứt điểm bằng các cuộc tấn công qui mô lớn tại một khu vực mà quân đội thuộc địa có thể huy động hoả lực vượt trội từ các căn cứ gần đấy. Họ nhận ra rằng họ phải thực tế và cẩn thận hơn trong việc giúp QĐNDVN vạch kế hoạch cho các chiến dịch tương lai.[101]
Trong một bức điện gửi Mao ngày 27 tháng Giêng 1951, Vi Quốc Thanh đã than phiền về QĐNDVN và đề nghị huấn luyện và tái tổ chức. Hai ngày sau, vị lãnh tụ ĐCSTQ trả lời, trước tiên ông ủng hộ kế hoạch của Vi và yêu cầu ông nên kiên nhẫn với người Việt, đừng khiến họ oán giận. “Những thiếu sót hiện nay của họ,” Mao nói tiếp, “cũng là những thiếu sót mà quân đội Trung Quốc từng mắc phải khi còn non nớt. Điều này không có gì lạ. Chúng ta chỉ có thể giúp họ bằng cách thuyết phục họ cải tiến dần trong thời gian đấu tranh lâu dài.”[102] Rõ ràng Mao đang nói đến sự thiếu kiên nhẫn của QĐNDVN trong việc phát động những cuộc tấn công qui mô lớn để chiếm các thành thị, ông so sánh việc này với kinh nghiệm tương tự của Hồng quân trong những năm đầu. Nhận định của Mao với Vi Quốc Thanh không những lộ vẻ bề trên đối với QĐNDVN mà còn oái ăm ở điểm vị lãnh tụ ĐCSTQ đang tự mình liên tục thúc đẩy các cuộc tấn công tại Triều Tiên, vượt quá lời tham mưu của tư lệnh Bành Đức Hoài. Tại Triều Tiên, Mao cũng mắc phải lỗi lầm thiếu kiên nhẫn tương tự mà ông đang chê trách giới lãnh đạo Việt Minh.
Vào đầu năm 1951, ĐCVQSTQ đề nghị với QĐNDVN một kế hoạch tái thiết hệ thống điều hành cũng như huấn luyện và tái tổ chức quân đội. Với sự chấp thuận của Hồ, ĐCVQSTQ đã giúp QĐNDVN đơn giản hoá cơ chế điều hành của ba tổng cục (Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần) và các sư đoàn. Các nhân sự dư thừa bị cắt giảm và điều xuống các đơn vị chiến đấu. ĐCVQSTQ phụ giúp ba tổng cục thảo các điều lệ và qui định để mỗi chiến sĩ đều hiểu rõ nhiệm vụ của mình. Các cố vấn Trung Quốc đóng tại cấp sư đoàn mở các lớp huấn luyện cho các chỉ huy cấp đại đội, trung đội và tiểu đội. Kết quả là QĐNDVN đã trở nên chuyên nghiệp hơn.[103]
Phương pháp truyền thụ ý thức hệ mà các cố vấn Trung Quốc đưa vào QĐNDVN được gọi là Chỉnh Huấn. Một tự điển xuất bản từ Hà Nội giải thích chỉnh huấn là “một phong trào cải cách tư tưởng trong cán bộ và nhân dân qua việc tổ chức nghiên cứu chính trị và tự phê bình để gắn liền với lý tưởng chung.” Tự điển này cũng chỉ ra từ gốc của chỉnh huấn là chỉnh phong, một chiến dịch sửa sai mà Mao từng phát động trong những năm đầu 1940 để củng cố vị trí của mình trong ĐCSTQ. Tháng Sáu 1951, tập san nghiên cứu chính trị của QĐNDVN là Quân chính Tập san đã nhắc đến chiến dịch chỉnh huấn sau trận Hoàng Hoa Thám vào tháng Tư trước và vạch ra một hướng đi cho mùa hè tới. Các chiến dịch chỉnh huấn sau này sẽ còn được thể chế hoá trong phong trào cải cách ruộng đất vào năm 1953.[104]
Bằng cách giúp Việt Minh thực hiện những cuộc vận động chỉnh huấn, các cố vấn Trung Quốc đã truyên truyền chủ thuyết “tinh thần cao hơn vật chất” của Mao, một phong cách nghiên cứu chú trọng việc chấn chỉnh ý thức hơn là các yếu tố khách quan. Phong cách Maoist này dựa trên tư tưởng tân Khổng giáo trước đây chuyên chú trọng vào ý thức của giới lãnh đạo được đào tạo chu đáo như là một yếu tố tự chuyển hoá trong việc bồi dưỡng đạo đức và chính trị quan.[105] Với tư tưởng tân Khổng giáo vốn đã có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam, các cố vấn Trung Quốc không gặp khó khăn mấy trong việc tìm ra những người hoan nghênh học thuyết Maoist chuyên nhấn mạnh vào “tư tưởng đúng đắn” trong hoạt động chính trị.
Nỗ lực củng cố QĐNDVN là một phần của chiến dịch tổng thể của Hồ với sự trợ giúp của các cố vấn Trung Quốc nhằm củng cố và phát triển chính quyền VNDCCH trong năm 1951. Vào đầu năm, theo yêu cầu của ĐLĐVN, Đoàn Cố vấn Chính trị Trung Quốc (ĐCVCTTQ) được thành lập với La Quí Ba làm chủ tịch. Đoàn này được chia thành nhiều bộ phận để đảm đương các lĩnh vực quân sự, tài chính và kinh tế, công an, văn hoá và giáo dục, mặt trận liên hiệp, củng cố đảng và cải cách ruộng đất. Đoàn có trên một trăm cố vấn. Trong suốt năm, ĐCVCTTQ đã bận rộn giúp đỡ Hồ soạn thảo luật lệ và chính sách liên quan đến tài chính, thuế má, trưng thu thóc, đàn áp các thành phần phản động, quản lý báo chí và truyền thanh, quan hệ với các đảng phái và đoàn thể phi Cộng sản và chính sách đối với người thiểu số.[106]
Lạm phát và thâm thủng ngân sách là hai vấn đề cấp bách nhất đang hủy hoại kinh tế VNDCCH. Để đối phó với tình trạng thiếu hụt lương thực và thương mại, chính phủ của Hồ đã dùng đến một chính sách táo bạo là lạm dụng việc phát hành tiền tệ vào đầu năm 1951. Ngày 22 tháng Giêng, Lưu Thiếu Kỳ ra lệnh cho La Quí Ba cảnh báo những người Cộng sản Việt Nam về mối nguy hiểm của việc này. Phương pháp đúng đắn để khắc phục những khó khăn kinh tế, Lưu nhấn mạnh, là phát triển sản xuất và thương mại.[107]
Bên cạnh việc quản lý kinh tế yếu kém từ phía trên, những cố vấn Trung Quốc còn phát hiện ra nạn tham nhũng trong giới cán bộ Việt Minh cấp dưới trong lĩnh vực tài chính cũng như nạn tiêu xài bừa bãi và phung phí hàng viện trợ của Trung Quốc. Giữa tháng Tư và tháng Năm, Lưu Thiếu Kỳ đã hai lần gửi thông điệp đến Hồ Chí Minh để cảnh báo những vấn đề này. Trong một bức điện ngày 20 tháng Tư, Lưu nhấn mạnh với Hồ tầm quan trọng trong việc trừng phạt những cán bộ đã vi phạm các luật lệ tài chính và giữ gìn kỹ luật để tất cả các nguồn tài chính và nguyên liệu được sử dụng hiệu quả nhất vì mục đích chống Pháp. Trong bức điện thứ hai gửi ngày 2 tháng Năm, Lưu bảo Hồ rằng nhiều hàng hóa Trung Quốc, trong đó có đạn dược, máy liên lạc, và dụng cụ quang tuyến đã bị bỏ bê không chăm sóc bên vệ đường hoặc trong những hang động tại Việt Nam. Ông yêu cầu vị lãnh tụ Việt Nam phải chấn chỉnh vấn đề này.[108]
Những biện pháp kinh tế tài chính mới được đề ra chủ yếu là để đặt ĐLĐVN vào một vị thế kinh tế tốt hơn nhằm phát động chiến tranh chống Pháp. Nhằm thiết lập một hệ thống ngân khố dồi dào cho VNDCCH, các cố vấn Trung Quốc đã giúp Cộng sản Việt Nam cải cách cơ chế thuế bằng cách bãi bỏ hệ thống cũ bao gồm thuế rượu, muối và thuốc phiện, và đưa ra năm loại thuế mới trong nông nghiệp, thương mại, lâm nghiệp, giết mổ gia súc và xuất nhập khẩu. Loại thuế quan trọng nhất trong chúng là nông nghiệp, nhắm vào địa chủ và nông dân như nhau. Tỉ giá thuế được xác định bởi quan chức và dân số dựa theo thu nhập và chi phí gia đình. Vì hệ thống thuế mới vay mượn từ Trung Quốc khá khác biệt với cán bộ và nhân dân Việt Nam, ĐLĐVN đã thành lập một cơ quan thuế nông nghiệp đặc biệt để giám định, mở lớp huấn luyện cán bộ thu thuế và tìm cách giải thích qui chế thuế mới với dân chúng. Bên cạnh chế độ thuế mới, chính quyền cũng thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và phát hành tiền mới được in từ Trung Quốc. Năm 1952, chính quyền Việt Nam tuyên bố rằng hệ thống thuế mới 1951 đã thành công.[109]

Chiến dịch Tây Bắc

Vào đầu năm 1952, Đoàn Cố vấn Quân sự Trung Quốc đề nghị QĐNDVN phát động chiến dịch Tây Bắc. Nằm dọc theo biên giới Lào, Tây Bắc là một khu vực nơi quân Pháp có hệ thống phòng ngự yếu. Giải phóng được khu vực này sẽ giải toả được mối đe doạ từ phía sau khu vực Việt Bắc do Việt Minh kiểm soát đồng thời tạo ra được một hậu cứ yểm trợ rộng rãi. La Quí Ba, người đang chỉ huy ĐCVQSTQ thay Vi Quốc Thanh đang chữa bệnh tại Trung Quốc, chịu trách nhiệm cho chiến dịch này. Ngày 16 tháng Hai, La gửi báo cáo đến Quân uỷ Trung ương ĐCSTQ trong đó phác thảo kế hoạch cho QĐNDVN trong năm 1952. Ông đề nghị rằng QĐNDVN nên tĩnh dưỡng và huấn luyện các lực lượng chính qui của mình trong nửa đầu năm trong khi tiếp tục chiến tranh du kích và tấn công Nghĩa Lộ và Sơn La vào nửa cuối của năm. Với Việt Bắc làm căn cứ, La tiếp tục, QĐNDVN có thể đưa quân sang Lào vào năm sau. Thông qua kế hoạch của La, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho ông bám chặt nguyên tắc “tiến triển vững chắc và bảo đảm chiến thắng trong mọi trận đánh” trong chiến dịch. Lưu Thiếu Kỳ bảo ông rằng “việc giúp Lào giải phóng là vô cùng quan trọng.” La chuyển kế hoạch của mình đến Giáp và ông chấp nhận. Hồ chú tâm nhiều vào chiến dịch Tây Bắc, yêu cầu ĐCVQSTQ giúp đỡ trong suốt chiến dịch. Tháng Tư, bộ chính trị ĐLĐVN thông qua kế hoạch tác chiến.[110]
Ngày 14 tháng Tư, La phác thảo kế hoạch chiến dịch Tây Bắc của ông với Bắc Kinh: QĐNDVN sẽ bắt đầu chiến dịch vào trung tuần tháng Chín bằng việc tấn công Nghĩa Lộ; sau đó sẽ đánh vào Sơn La; chiếm lĩnh hầu hết khu vực Tây Bắc vào cuối năm; và tấn công Lai Châu vào năm sau. Năm ngày sau Quân uỷ Trung ương ĐCSTQ thông qua đề xuất của La với điều kiện là QĐNDVN phải điều nghiên chiến trường và chuẩn bị tiếp tế kỹ lưỡng trước chiến dịch, đồng thời chú ý đến những vấn đề người dân tộc tại Tây Bắc. (Tây Bắc là khu vực có đa số người dân tộc cư ngụ.) Ngày 11 tháng Bảy, La gửi một kế hoạch tác chiến chi tiết của chiến dịch đến Quân uỷ Trung ương. Kế hoạch cũng bao gồm một yêu cầu của Việt Nam rằng Trung Quốc đưa quân từ Vân Nam vào Việt Nam để hợp tác chiến dịch. Ngày 22 tháng Bảy, Quân uỷ Trung ương trả lời rằng một nguyên tắc quan trọng của Trung Quốc là không gửi quân vào Việt Nam, nhưng họ có thể huy động một số đơn vị dọc theo biên giới như là một biểu hiện hỗ trợ. Tiêu diệt quân Pháp trong vùng Tây Bắc là trách nhiệm riêng của QĐNDVN. Bắc Kinh cũng đề nghị một số thay đổi trong kế hoạch của La.[111]
Ngày 31 tháng Bảy, La báo với Quân uỷ Trung ương rằng QĐNDVN sẽ bắt đầu quá trình giáo dục cho binh lính về những vấn đề người thiểu số vào đầu tháng Chín trước khi họ hành quân đến Tây Bắc vào giữa tháng. Ngày 8 tháng Tám, Quân uỷ Trung ương trả lời La rằng còn sớm để bắt đầu chiến dịch vào giữa tháng Chín, và nên hoãn lại đến tháng Mười hoặc thậm chí tháng Mười một để ĐLĐVN có đủ thời gian để chuẩn bị về chính trị, quân sự và tiếp tế.[112] Trong thời gian thăm viếng Liên Sô từ 17 tháng Tám đến 22 tháng Chín để yêu cầu viện trợ, Chu Ân Lai đã nhắc đến chiến dịch Tây Bắc với Stalin. Phê chuẩn kế hoạch chiến dịch, vị lãnh tụ Liên Sô cũng đề cập đến đàm phán hoà bình với Pháp. Nếu Paris từ chối, Việt Minh có thể tiến vào nam sau khi chiếm lĩnh Hà Nội. Chu đồng ý với nhận xét của Stalin.[113] Rõ ràng là Stalin muốn Hồ nên thương lượng với người Pháp trên vị thế vượt trội về quân sự.
Đầu tháng Chín, ĐLĐVN triệu tập hội nghị bộ chính trị và mời La tham dự. Giáp báo cáo tình hình chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc. Ông chỉ ra những khó khăn gặp phải, đặc biệt là việc tấn công Sơn La. Vào cuối tháng Chín, Hồ bí mật đi Bắc Kinh để thảo luận với các lãnh đạo Trung Quốc về chiến dịch Tây Bắc cũng như kế hoạch chiến lược để thắng cuộc chiến chống Pháp. Các lãnh đạo Trung Quốc đề nghị QĐNDVN trước tiên nên chiếm lấy Tây Bắc và phía bắc Lào rồi chuyển quân về phía nam để chiếm đánh vùng châu thổ sông Hồng. Hồ đồng ý với đề xuất này và trong một bức điện gửi Giáp và La ngày 30 tháng Chín, ông cho họ biết quyết định giữa ông và các lãnh đạo Trung Quốc: chiến dịch Tây Bắc chỉ liên quan đến Nghĩa Lộ, không có Sơn La; sau khi chiếm được Nghĩa Lộ, QĐNDVN nên xây dựng căn cứ cách mạng tại đấy.[114]
Từ Bắc Kinh, Hồ Chí Minh đã bí mật đi Moscow vào ngày 6 tháng Mười để tham dự Đại hội 19 Đảng Cộng sản Liên Sô.[115] Ngày 28 tháng Mười, Stalin, Lưu Thiếu Kỳ và Hồ đã thảo luận các chính sách hiện thời của Việt Minh.[116] Trong khi ta vẫn không biết được những chi tiết của các cuộc thảo luận, có thể là Hồ đã kêu gọi hậu thuẫn từ Stalin.
Vào đầu tháng Mười, bộ chính trị ĐLĐVN đã thảo luận những chỉ thị ngày 30 tháng Chín của Hồ và đồng ý loại bỏ Sơn La ra khỏi chiến dịch Tây Bắc. Trong thời gian ấy, Giáp đã ở mặt trận Tây Bắc và Trường Chinh báo cho ông biết quyết định của bộ chính trị. Ngày 14 tháng Mười, QĐNDVN tập trung tám trung đoàn để tấn công Nghĩa Lộ và những đồn chung quanh. Ngày 6 tháng Mười, Vi Quốc Thanh quay lại Việt Nam để cùng La chỉ đạo chiến dịch Tây Bắc. Sau khi QĐNDVN chiếm được Nghĩa Lộ, người Pháp đã rời bỏ Sơn La vào ngày 22 tháng Mười một. Đến ngày 10 tháng Mười hai, QĐNDVN đã giải phóng được một khu vực rộng lớn ở Tây Bắc.[117], tạo một vùng bàn đạp tiện lợi để QĐNDVN tiến hành các chiến dịch tại Lào.
Cải cách Ruộng đất 1953

Những nhà cải cách Việt Nam đã kêu gọi cải cách ruộng đất từ những năm 1930, nhưng chính quyền thuộc địa Pháp liên tục bác bỏ đòi hỏi của họ. Ở miền bắc, bần nông và lao động nông nghiệp chiếm 60 phần trăm dân số trong khi chỉ sở hữu 11 phần trăm đất đai.[118] Trong nhiều năm, đảng của Hồ chỉ quanh quẩn trong một chính sách ôn hoà nhằm giảm tô canh tác vì sợ rằng một cải cách đất đai mạnh mẽ sẽ làm suy giảm tính đoàn kết kháng chiến qua việc kỳ thị giới địa chủ.[119]

Tuy nhiên việc đối đầu quân sự với Pháp đã trở nên khó khăn hơn dự tính của Hồ, nhưng với sự hỗ trợ của Trung Quốc, sức mạnh của QĐNDVN đã phát triển nhanh chóng. Để kết thúc cuộc chiến tranh đang kéo dài và để giảm bớt gánh nặng tổ chức và kinh tế cho đảng, vào cuối năm 1952 giới lãnh đạo ĐLĐVN đã quyết định vận động nông dân hỗ trợ công cuộc kháng chiến. Đổi lại họ sẽ được thưởng đất đai qua biện pháp đấu tranh giai cấp không chỉ với người Pháp và những kẻ hợp tác mà còn với những đảng viên và viên chức chính quyền xuất thân từ giai cấp địa chủ hoặc các gia đình nông dân giàu có. Cải cách ruộng đất sẽ phục vụ hai mục tiêu cho đảng: loại bỏ những thành phần yếu kém trong đảng và chính quyền và huy động nông dân yểm trợ kháng chiến.[120] Tháng Giêng 1953, Hội nghị Toàn thể ĐLĐVN đã thông qua một nghị quyết kêu gọi cải cách ruộng đất trong những vùng giải phóng.[121]

laquiba-factory.png
La Quí Ba (thứ tư từ trái sang) đang tham quan một xí nghiệp Việt Nam (Tài liệu của Tân Hoa Xã)

ĐCSTQ có kinh nghiệp dồi dào về cải cách ruộng đất nên Việt Nam đã thu thập những đề xuất của các cố vấn Trung Quốc. Trong buổi đầu sự nghiệp, Mao đã nhận ra rằng trong một đất nước nông nghiệp, biện pháp hữu hiệu nhất để vận động quần chúng thay đổi xã hội là cải cách ruộng đất. Việc Mao chiếm được quyền lực ở Trung Quốc đa phần là nhờ ông đã đánh động vào nhu cầu đất đai của nông dân. Giờ đây Trung Quốc đang hăng hái chuyển giao mô hình của mình vào Việt Nam. Mùa xuân 1953, Zhang Dequn đứng đầu Bộ phận Cải cách Ruộng đất và Củng cố Đảng trực thuộc Đoàn Cố vấn Chính trị Trung Quốc. Để tăng cường toán cố vấn của Zhang, Bắc Kinh đã gửi thêm 42 chuyên viên cải cách ruộng đất đến Việt Nam trong năm ấy. Trong bước đầu của quá trình cải cách, các cố vấn Trung Quốc đã dạy cán bộ Việt Nam cách phân tích tình hình giai cấp ở nông thôn trước khi điều họ về tiến hành chiến dịch giảm tô. Họ giúp ĐLĐVN thành lập các tổ chức nông hội, các liên đoàn thanh niên, phụ nữ và tái tổ chức các uỷ ban hành chính địa phương bằng cách tuyển mộ và đề bạt thành phần bần nông. Họ cũng đề nghị Việt Nam thực hiện “Hệ thống Ba Cùng” (tiếng Trung là tam đồng): cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với nông dân. Việc này nhằm giúp các cán bộ làm quen với cuộc sống kham khổ của nông dân cũng như những tố giác của họ đối với giới địa chủ. Các cán bộ sau khi tìm hiểu được những thống khổ của nông dân sẽ khuyến khích họ “đấu tố” những kẻ hợp tác với Pháp và giới địa chủ chuyên chế tại các cuộc biểu tình quần chúng nhằm kích động tinh thần giai cấp của nông dân. (Biểu tình quần chúng là một phương pháp hữu hiệu mà Mao từng sử dụng trong cách mạng Trung Quốc.) Tài sản và đất đai của những người theo Pháp và cường hào địa phương bị trưng thu và chia cho bần nông.[122]

laquiba-workers.png
La Quí Ba chụp ảnh chung với công nhân một xí nghiệp Việt Nam. (Tài liệu của Tân Hoa Xã)

Quyết định tiến hành chiến dịch cải cách ruộng đất của ĐLĐVN vào mùa đông 1952-53 đã tạo ra tâm lý bất an và bức xúc từ những sĩ quan QĐNDVN xuất thân từ gia đình địa chủ. Với tiến triển này cùng kinh nghiệm có được từ cách mạng Trung Quốc, ĐCVQSTQ tin rằng QĐNDVN cần thiết phải tiến hành chiến dịch giáo dục cải cách ruộng đất cho các sĩ quan và binh lính của mình để họ sẵn sàng tham gia phong trào cải cách ruộng đất sắp đến. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất ở Trung Quốc những năm 1940, Mao cũng đã tiến hành một chiến dịch củng cố chính trị cho QĐGPNDTQ (chỉnh quân) để hướng dẫn tư tưởng các sĩ quan và binh lính mình đi theo đúng đường lối của đảng về cải cách ruộng đất. Ngày 7 tháng Hai 1953, La Quí Ba gửi một báo cáo đến lãnh đạo ĐCSTQ đề nghị QĐNDVN tiến hành chiến dịch củng cố chính trị để các sĩ quan và binh lính nhận thức rõ mối khác biệt giữa giai cấp địa chủ và nông dân. Với chiến dịch này, La nhấn mạnh, ĐLĐVN có thể tăng cường chất lượng và hiệu quả chiến đấu cho quân đội mình và bảo đảm thành công quá trình thực hiện cải cách ruộng đất. Ngày 4 tháng Ba, Uỷ ban Trung ương ĐCSTQ đã phê chuẩn đề xuất của La.[123]

laquiba-advisers.png
La Quí Ba (thứ năm từ trái sang) và các cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam, 1950 (Tài liệu của Tân Hoa Xã)

Ngày 8 tháng Tư, ĐCVQSTQ đã trình bày cho QĐNDVN “Một Đề xuất Sơ bộ Về Củng cố Chính trị trong Quân đội,” trong đó phác thảo mục đích, yêu cầu và phương pháp của chiến dịch. Vào tháng Năm, ĐLĐVN chấp thuận đề nghị của ĐCVQSTQ. Một làn sóng cải tạo chính trị tràn vào các đơn vị QĐNDVN. Phương pháp yêu cầu các binh sĩ xuất thân từ tầng lớp bần nông “đấu tố” giới địa chủ chuyên chế được đưa ra và đạt được hiệu quả trong việc kích động việc phân tầng giai cấp giữa binh lính và sĩ quan. ĐCVQSTQ cho chiếu phim “Cô gái tóc trắng” nói về một người con gái gia đình bần nông bị địa chủ tàn ác bóc lột. Nhiều binh sĩ QĐNDVN đã bật khóc sau khi xem câu chuyện thương tâm của cô gái. Một người lính giận dữ đến nỗi khi tên địa chủ xuất hiện trên màn hình, anh đã giương súng bắn vào hắn. Trong chiến dịch củng cố chính trị, các cá nhân xuất thân từ tầng lớp công nhân và nông dân được đề bạt lên chức trong QĐNDVN. Chiến dịch đã phát huy tinh thần của quân đội Hồ, giúp họ sẵn sàng tham chiến với quân Pháp tại Điện Biên Phủ.[124]
Dựa trên những tiến triển ca chiến dịch giảm tô và tỉnh thức giai cấp, ĐLĐVN đã ban hành Luật Cải cách Ruộng đất tháng Mười hai 1953, trong đó qui định rằng qua quá trình cải cách ruộng đất, đảng sẽ dựa vào thành phần bần cố nông và tá điền, đoàn kết trung nông, hợp tác với phú nông và dần dần bãi bỏ hệ thống bóc lột phong kiến nhằm phát triển năng xuất, tạo điều kiện cho công cuộc kháng chiến chống Pháp. Bộ luật bao gồm các điều khoản bảo hộ các ngành công thương nghiệp và tầng lớp có ít đất phát canh cho thuê cũng như bảo hộ các cán bộ xuất thân từ tầng lớp địa chủ không bị đấu tố. Luật cũng cấm việc bỏ tù, đánh đập, tra tấn thân xác và tử hình. Để giám sát việc thực thi luật, ĐLĐVN thiết lập Uỷ ban Cải cách Ruộng đất do Trường Chinh đứng đầu.[125]
Phong trào cải cách ruộng đất 1953 đã tạo ra một thay đổi quan trọng đối với cơ cấu nông thôn hiện tại cũng như trong ĐLĐVN. Trong quá trình tiến hành Luật Cải cách Ruộng đất suốt hai năm sau đó, không những giới thân Pháp hoặc địa chủ trung lập mà cả những ai từng ủng hộ Việt Minh, hoặc thậm chí đã vào đảng, đã bị phạt, tịch thu tài sản và đôi khi thậm chí bị bỏ tù hoặc xử tử.[126] Trong khi chính sách cải cách ruộng đã thành công trong việc làm thoả mãn nhu cầu ất đai của giới bần nông và lôi kéo họ ủng hộ đảng - như đã thấy trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khi hơn 200 nghìn nông dân đã tải hàng tiếp liệu qua đồi qua núi giúp QĐNDVN - nó cũng đã tạo ra những hệ quả tiêu cực đối với đảng. Việc đấu tranh và đàn áp giai cấp quá mức trong thời kỳ cải cách ruộng đất đã đi ngược lại với chính sách mặt trận thống nhất của đảng, làm nhiễm độc môi trường chính trị, phân tán xã hội và kỳ thị một thành phần quan trọng trong quần chúng. Thấm nhuần chủ nghĩa sùng bái tư tưởng Mao, các cố vấn Trung Quốc là những người chịu trách nhiệm cho việc áp dụng phương pháp đấu tranh giai cấp cực đoan vào quá trình cải cách ruộng đất tại Việt Nam. Ảnh hưởng tiêu cực của nó là nguyên nhân quan trọng khiến Việt Nam đã lên án mô hình của Trung Quốc sau này.
Đến năm 1953, một quan hệ thắm thiết đã được hình thành giữa hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Chuyến thăm Trung Quốc của Hồ Chí Minh và việc ông gặp gỡ Mao và giới lãnh đạo Trung Quốc năm 1950 đã giúp thiết lập một mối quan hệ mật thiết giữa hai phong trào cách mạng ở tầng lớp tối cao. Qua việc đi đầu công nhận VNDCCH, Mao đã tạo ra một sự ủng hộ ngoại giao quan trọng đối với chính quyền Hồ. Qua việc chu cấp cố vấn và viện trợ, Bắc Kinh đã tăng cường rất lớn sức mạnh của Việt Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
(hết chương 1)
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Sáu, 17/01/2014          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20140117/trach-cuong-trung-quoc-va-nhung-cuoc-chien-tranh-viet-nam-1950-1975-c1-p4
======================================================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001