Chấm dứt đạo đức giả: Chính sách đối ngoại Mỹ trong thời đại rò rỉ thông tin
Henry Farrell và Martha Finnemore, Forein Affairs, tháng 11/tháng 12. 2013
Trần Ngọc Cư dịch
HENRY FARRELL là Phó Giáo sư Khoa Chính trị và Sự vụ Quốc tế tại Đại học George Washington. Xin theo dõi ông ta trên Twitter @henryfarrell. MARTHA FINNEMORE là Giáo sư Đại học Khoa Chính trị và Sự vụ Quốc tế tại Đại học George Washington.
Chính
phủ Mỹ tỏ ra giận dữ khi có người làm rò rỉ những tư liệu mật về hành
vi không mấy tốt đẹp của mình. Rõ ràng là, chính phủ này có lối ứng xử
như thế: ba năm trước, sau khi Chelsea Manning, một binh nhì bộ binh Mỹ
lúc bấy giờ mang tên Bradley Manning, chuyển hàng trăm ngàn bức điện mật
cho nhóm chống bí mật WikiLeaks, nhà cầm quyền Mỹ đã cầm tù người lính
này trong những điều kiện mà báo cáo viên đặc biệt của LHQ về vấn đề tra
tấn cho là tàn ác và vô nhân đạo. Nhân vật hàng đầu của Đảng Cộng hòa
tại Thượng viện, Mitch McConnell, xuất hiện trên chương trình Meet the Press của NBC không bao lâu sau đó, đã gọi người sáng lập WikiLeaks, Julian Assange, là “tên khủng bố công nghệ cao.”
Gần
đây hơn, sau khi các chương trình theo dõi bí mật do Mỹ cài đặt bị
Edward Snowden – một cựu nhân viên kỹ thuật của Cơ quan An ninh Quốc gia
– tiết lộ, các quan chức Mỹ đã tiêu phí nhiều vốn liếng ngoại giao
trong nỗ lực thuyết phục các nước khác từ chối việc cho Snowden tị nạn.
Và Tổng thống Mỹ Barack Obama đã hủy bỏ một cuộc họp thượng đỉnh được dự
kiến từ lâu với Tổng thống Nga Vladimir Putin khi ông này không chịu
đồng ý làm theo.
Tuy nhiên, bất chấp những nỗ
lực này, chính quyền Mỹ thường gặp phải nhiều khó khăn trong việc giải
thích chính xác vì sao những kẻ rò rỉ thông tin này đặt ra một đe dọa
nghiêm trọng. Trên thực tế, không có gì trong những rò rỉ của Manning và
Snowden đáng gây sốc cho những ai chú ý theo dõi. Cựu Bộ trưởng Quốc
phòng Robert Gates, người bất đồng ý kiến về những hoảng hốt do vụ
Wikileaks gây ra, đã gợi ý như thế khi ông nói với các nhà báo năm 2010
rằng những thông tin rò rỉ chỉ có một hậu quả “tương đối khiêm nhượng”
và không gây tổn thất cho các nguồn tin hay các phương pháp tình báo.
Snowden chắc chắn đã gây tổn thương cho các nguồn tin và phương pháp
tình báo, nhưng ông không tiết lộ điều gì thực sự nằm ngoài dự kiến của
mọi người. Trước khi ông ta phơi bày sự thật, hầu hết mọi chuyên gia đã
đinh ninh trong đầu là Mỹ đang mở những cuộc tấn công mạng nhắm vào
Trung Quốc, cài đặt bọ điện tử tại các trụ sở cơ quan châu Âu, và theo
dõi việc truyền thông trên mạng Internet toàn cầu. Thậm chí cả tiết lộ
nảy lửa nhất của Snowden – rằng Mỹ và Anh đã gây tổn thất cho những hệ
thống phần mềm và mã hóa trong ngành truyền thông được thiết kế để bảo
vệ đời tư và an ninh trên mạng – cũng chỉ xác nhận những gì mà các quan
sát viên am tường thời sự đã ngờ vực từ lâu.
Mối
đe dọa sâu sắc hơn mà những người rò rỉ thông tin như Manning và
Snowden đặt ra còn tinh tế hơn một cuộc tấn công trực tiếp vào nền an
ninh quốc gia của Mỹ: họ phá hoại khả năng ứng xử đạo đức giả và không
bị bắt quả tang của Washington. Mối nguy không nằm trong việc họ rò rỉ
những thông tin mới mẻ, mà nằm trong việc họ cung cấp văn bản để khẳng
định những việc mà trên thực tế Mỹ đang làm và vì sao phải làm vậy. Khi
những hành vi này trở nên mâu thuẫn với những ngôn từ hoa mỹ của Chính
phủ, như vẫn thường xảy ra, thì các đồng minh của Mỹ càng khó bỏ qua
hành vi lén lút của Washington và các địch thủ của Mỹ lại càng dễ dàng
biện minh cho hành vi lén lút của họ.
Ít quan
chức Mỹ nào coi khả năng ứng xử đạo đức giả của mình như một tài nguyên
chiến lược chủ yếu. Thật vậy, một trong những lý do để hành vi đạo đức
giả của Mỹ rất có hiệu quả là vì nó phát xuất từ sự chân thành: hầu hết
các nhà chính trị Mỹ không nhận ra quốc gia họ có bộ mặt tráo trở như
thế nào. Nhưng khi Mỹ thấy khó chối cãi sự cách biệt giữa lời nói và
việc làm của mình, nước này sẽ đối diện với những lựa chọn ngày càng khó
khăn – và cuối cùng có thể bị buộc phải bắt đầu thực hiện những điều
mình rao giảng.
MỘT BÁ QUYỀN ĐẠO ĐỨC GIẢ
Đạo
đức giả giữ vị trí trung tâm trong quyền lực mềm của Washington – khả
năng làm cho các nước khác chấp nhận tính chính đáng trong các hành động
của Mỹ – nhưng ít có người dân Mỹ nào chịu đánh giá cao vai trò của đạo
đức giả. Những đầu óc tự do có xu thế tin tưởng rằng những nước khác
hợp tác với Mỹ vì các lý tưởng Mỹ có sức thu hút và hệ thống quốc tế do
Mỹ lãnh đạo là sòng phẳng. Những người theo chủ nghĩa thực tế có thể có
cái nhìn yếm thế hơn, nhưng nếu họ có nghĩ gì về hành vi đạo đức giả của
Washington chăng nữa, họ vẫn coi nó không hệ trọng. Đối với họ, chính
cái quyền lực cứng và lạnh lùng [sức mạnh quân sự] của Washington, chứ
không phải các lý tưởng của nó, đã thúc đẩy các nước khác hợp tác với
Mỹ.
Hẳn nhiên, Mỹ không phải là tên đạo đức giả
duy nhất trong các vấn đề chính trị quốc tế. Nhưng hành vi đạo đức giả
của Mỹ có ý nghĩa nghiêm trọng hơn hành vi đạo đức giả của các nước
khác. Đấy là vì hầu hết thế giới ngày nay đang sống trong một trật tự mà
Mỹ đã xây dựng, một trật tự vừa được bảo hiểm bằng chính sức mạnh của
Mỹ vừa được hợp pháp hóa bằng các lý tưởng tự do. Những cam kết của Mỹ
đối với chế độ pháp trị, dân chủ, và mậu dịch tự do được khắc sâu trong
các định chế đa phương mà Mỹ đã giúp thành lập sau Thế chiến II, gồm
Ngân hàng Thế giới, Quĩ Tiền tệ Quốc tế, Liên Hiệp Quốc, và về sau này
Tổ chức Thương mại Thế giới. Mặc dù có những thách đố gần đây đối với
địa vị siêu cường của Mỹ, từ Chiến tranh Iraq đến cuộc khủng hoảng tài
chính, nhưng trật tự quốc tế vẫn là một trật tự Mỹ.
Hệ
thống này cần đến đạo đức giả làm dầu trơn cho guồng máy của nó chạy
đều. Để đảm bảo rằng trật tự thế giới này tiếp tục được coi là chính
đáng, các quan chức Mỹ phải thường xuyên cổ vũ và đòi hỏi sự trung thành
đối với các nguyên tắc tự do cốt lõi của nó; Mỹ không thể áp đặt địa vị
bá quyền của mình đơn thuần bằng vũ lực. Nhưng như những rò rỉ gần đây
cho thấy, Washington cũng không thể nhất quán tuân theo những giá trị mà
nó cổ vũ. Sự không ăn khớp giữa lời nói và việc làm này tạo ra nguy cơ
là các quốc gia khác có thể kết luận dứt khoát rằng trật tự do Mỹ lãnh
đạo trên cơ bản là thiếu chính nghĩa.
Tất
nhiên, từ lâu nay Mỹ đã từng qua được trót lọt các hành vi đạo đức giả
của mình. Chẳng hạn, qua một thời lâu dài Mỹ rêu rao những ưu điểm của
việc chống bành trướng vũ khí hạt nhân và cưỡng ép một số quốc gia từ bỏ
tham vọng hạt nhân của họ. Nhưng đồng thời Mỹ đã ngấm ngầm chấp thuận
chương trình hạt nhân của Israel và, năm 2004, đã ký kết một hợp đồng
chính thức với Ấn Độ khẳng định nước này có quyền sử dụng năng lượng hạt
nhân dân sự mặc dù trước đó Ấn Độ đã coi thường Hiệp định Cấm phổ biến
Vũ khí hạt nhân bằng cách tự mình thủ đắc vũ khí hạt nhân. Trong một
thái độ tương tự, Washington nói rất hay ho về dân chủ, nhưng Mỹ chỉ
đứng nhìn khi quân đội Ai Cập lật đổ một chính phủ dân cử vào tháng Bảy
vừa qua, không chịu gọi đích danh một cuộc đảo chính là cuộc đảo chính.
Còn về “cuộc chiến chống khủng bố”: Washington mạnh mẽ thúc đẩy các
chính phủ khác về vấn đề nhân quyền, nhưng lại đòi hỏi nhiều biệt lệ
rộng rãi cho lối ứng xử của mình khi Washington cảm thấy sự an toàn của
mình bị đe dọa.
Lý do cho đến nay Mỹ ít hứng
chịu hậu quả về sự đạo đức giả này là vì các quốc gia khác rất thích
nhắm mắt làm ngơ. Do thừa hưởng quá nhiều lợi ích công cộng toàn cầu mà
Washington cung ứng, những quốc gia này ít khi muốn phê bình bá quyền Mỹ
về hành vi xấu xa của nó. Chỉ trích công khai có rủi ro là đẩy Chính
phủ Mỹ đến những lập trường ích kỷ có hại cho một trật tự thế giới rộng
lớn hơn. Ngoài ra, Mỹ có thể trừng phạt những ai dám vạch ra sự bất nhất
trong cách hành động của mình bằng cách giáng cấp quan hệ thương mại
hay thông qua các hình thức trả đũa trực tiếp khác. Do đó, các đồng minh
thường bày tỏ riêng những mối quan tâm của mình. Các địch thủ của Mỹ có
thể công khai lên tiếng chỉ trích, nhưng không mấy nước được nhìn nhận
là có thẩm quyền đạo lý để làm việc này. Những than phiền của Trung Quốc
và Nga gần như không gợi lên niềm khâm phục đối với những chính sách
trong sạch hơn của hai nước này.
Mức độ dễ dãi
mà Mỹ có thể hành động bất nhất đã tạo ra tâm lý tự mãn cho các lãnh đạo
nước này. Vì ít có nước nào chịu vạch ra sự trắng trợn trong thái độ
đạo đức giả của Mỹ, và vì những nước làm việc này thường không được đếm
xỉa đến, các chính trị gia Mỹ đã trở nên vô cảm trước các tiêu chuẩn kép
[double standards] của nước họ. Nhưng nhờ có Manning và Snowden, những
tiêu chuẩn kép này càng ngày càng khó được bỏ qua.
SỰ QUAN TRỌNG CỦA THÁI ĐỘ NGHIÊM CHỈNH
Để
thấy được sự tác động qua lại này sẽ kết thúc như thế nào, ta hãy xét
đến ý nghĩa tiềm ẩn trong những tiết lộ của Snowden đối với chính sách
an ninh mạng của Mỹ. Cho đến rất gần đây, các quan chức Mỹ không bàn về
những khả năng tấn công của nước mình trên mạng Internet, mà chỉ nhấn
mạnh các chiến lược phòng thủ chống lại các cuộc tấn công từ nước ngoài.
Đồng thời, họ đưa ra những cảnh báo ngày càng trực tiếp về tin tặc
Trung Quốc, mô tả chi tiết mối hiểm họa đối với các mạng lưới điện toán
Mỹ và sự thiệt hại tiềm năng cho quan hệ Mỹ-Trung.
Nhưng
từ lâu Mỹ vẫn lén lút tấn công dữ dội vào các máy điện toán Trung Quốc –
và của các địch thủ khác. Chính phủ Mỹ lặng lẽ đổ hàng tỉ đôla vào việc
phát triển các khả năng tấn công, cũng như các khả năng tự vệ, trên
không gian mạng. (Thật ra, cả hai khả năng thường có thể hoán đổi nhau –
lập trình viên nào có đủ mưu mẹo bảo vệ hệ thống điện toán của mình
cũng đều biết cách xâm nhập hệ thống của kẻ khác.) Và Snowden xác nhận
rằng quân đội Mỹ không những xâm nhập các máy điện toán quân đội Trung
Quốc mà còn xâm nhập các máy điện toán của các công ty điện thoại di
động Trung Quốc và của trường đại học uy tín nhất nước này.
Mặc
dù trước khi các tiết lộ của Snowden xuất hiện, nhiều chuyên gia đã
biết – hoặc chí ít tin chắc một cách hợp lý – rằng Chính phủ Mỹ có dính
dấp đến việc dùng tin tặc chống phá Trung Quốc, nhưng Washington vẫn có
thể liên tục từ chối công khai. Nhờ được che chở để khỏi bị chỉ trích
nặng nề, các quan chức Mỹ mở ra một chiến dịch quần chúng quan trọng
nhằm áp lực Trung Quốc phải dập tắt các hành động trái phép trên không
gian mạng, bắt đầu bằng những đe dọa và có lẽ sẽ dẫn đến việc đưa ra toà
các tin tặc Trung Quốc. Các quan chức Trung Quốc, mặc dù biết người Mỹ
đang có hành vi đạo đức giả, nhưng tránh chỉ trích họ trực tiếp để khỏi
gây thêm thiệt hại cho quan hệ hai nước.
Nhưng
Bắc Kinh thay đổi lôgic của mình sau vụ tiết lộ của Snowden. Trung Quốc
đột xuất có đủ mọi lý lẽ để công khai bài bác thái độ đạo đức giả của
Mỹ. Dẫu sao, Washington không thể tỏ ra hằn học với Bắc Kinh vì họ chỉ
trích một hành vi của Mỹ được xác nhận bằng chính các văn bản chính thức
của Mỹ. Trên thực tế, những tiết lộ này gần như không cho Trung Quốc
lựa chọn nào khác hơn là phải phản ứng công khai. Nếu Bắc Kinh không
vạch ra hành vi đạo đức giả của Mỹ, sự im lặng của họ sẽ bị giải thích
là dấu hiệu của sự yếu đuối. Tại cuộc họp báo sau khi Snowden đưa ra các
tiết lộ, một người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Trung Quốc nhấn mạnh
rằng vụ tai tiếng này “đã để lộ bộ mặt thật và lối ứng xử đạo đức giả
[của Mỹ] liên quan đến an ninh mạng.”
Mỹ thấy
mình ở vào thế lúng túng. Washington có thể cố gắng, như cựu giám đốc
phản gián Mỹ Joel Brenner thúc đẩy, vạch ra những khác biệt giữa việc
Trung Quốc sử dụng tin tặc bất hợp lệ để đánh cắp các bí mật thương mại
và việc Mỹ sử dụng kỹ thuật hoàn toàn hợp pháp để xâm nhập các mục tiêu
quân sự hay các mục tiêu khác liên quan đến an ninh quốc phòng. Nhưng
những phân biệt này có thể rơi vào tai người điếc. Washington đành phải
từ bỏ chiến dịch gọi đích danh thủ phạm để chống tin tặc Trung Quốc.
Những
rò rỉ của Manning và Snowden đánh dấu sự bắt đầu một kỷ nguyên mới
trong đó Chính phủ Mỹ không còn tin tưởng vào khả năng che giấu hành vi
bí mật của mình. Hàng trăm ngàn người Mỹ ngày nay có thể tiếp cận các
văn kiện mật có khả năng gây bối rối cho quốc gia nếu chúng được lưu
hành công khai [trên mạng]. Như những tiết lộ gần đây cho thấy, trong
thời đại máy hình điện thoại di động và thẻ nhớ flash drive, thậm chí
những luật lệ và cách trả thù nghiêm khắc nhất cũng không ngăn được loại
thông tin này rò rỉ ra. Do đó, Washington đang đối diện cái gọi là sự
suy sụp đang tăng tốc của bộ mặt đạo đức giả – một sự thu hẹp nhanh
chóng khoảng không gian mà Mỹ có thể xoay xở giữa những nguyện vọng cao
đẹp được tuyên bố và việc theo đuổi lợi ích vị kỷ đôi khi rất bệnh hoạn
của mình. Chính phủ Mỹ, các nước bạn, và thù địch của Mỹ không còn có
thể từ chối một cách thuyết phục mặt trái hắc ám của chính sách đối
ngoại Mỹ, mà phải đối đầu trực diện với nó.
VIỆC LÀM PHẢI PHÙ HỢP VỚI LỜI NÓI, LỜI NÓI PHẢI PHÙ HỢP VỚI VIỆC LÀM
Chiếc
mặt nạ đạo đức giả rơi xuống, đặt Mỹ trước nhiều lựa chọn không thoải
mái. Bằng các này hay cách khác, chính sách và lời nói hoa mỹ của
Washington cần phải tiến tới gần nhau hơn.
Đường
lối dễ nhất mà Chính phủ Mỹ cần theo đuổi là phải từ bỏ luôn lối nói
hoa mỹ đạo đức giả và phải nhìn nhận những mục tiêu ích kỷ hẹp hòi trong
nhiều hành động của mình. Lúc đó những rò rỉ sẽ ít gây lúng túng – và
ít gây thiệt hại cho Mỹ hơn – nếu chúng chỉ xác nhận những gì mà
Washington đã tuyên bố là chính sách của mình. Trên thực tế, Mỹ có thể
làm theo bài bản của Trung Quốc và Nga: thay vì đặt hành vi của mình vào
khuôn khổ lợi ích chung, các nước này lên án bất cứ điều gì mà họ cho
là vi phạm chủ quyền quốc gia của họ và khẳng định quyền theo đuổi lợi
ích quốc gia theo ý mình. Washington cũng có thể làm như vậy, trong khi
tiếp tục trừng trị những kẻ tiết lộ thông tin mật bằng những án tù
nghiêm khắc, đồng thời đe dọa các nước có thể cho họ tị nạn.
Tuy
nhiên, vấn đề cần đặt ra với đường lối này là, lợi ích quốc gia của Mỹ
gắn liền với một hệ thống toàn cầu gồm các quan hệ đa phương và có đặc
tính tương đối cởi mở. Washington đã phá hoại sự cam kết của mình đối
với chủ nghĩa tự do bằng cách gợi ý là sẽ trả đũa bằng biện pháp kinh tế
đối với những nước dung túng những kẻ rò rỉ thông tin. Nếu Mỹ từ bỏ các
tuyên bố nhân danh lợi ích chung, cường quốc này sẽ báo hiệu cho thế
giới biết rằng nó không còn giữ cam kết với cái trật tự mà nó lãnh đạo.
Một khi các nước khác theo gương Mỹ để rút về bảo vệ lợi ích trần trụi
của mình, các giềng mối mậu dịch và hợp tác mà Washington đã mất hàng
thập kỷ để xây dựng có thể sẽ tan rã. Mỹ sẽ không tiếp tục giàu mạnh
trong một thế giới mà mọi người nghĩ về hợp tác quốc tế theo kiểu Putin.
Một
giải pháp tốt đẹp hơn sẽ là, Washington phải quay ngược lại, hành động
theo những cung cách phù hợp với lối nói hoa mỹ của mình. Đường lối này
cũng sẽ tốn kém và bất toàn, vì trong chính trị quốc tế, lý tưởng và lợi
ích thường xung đột nhau. Nhưng chính phủ Mỹ chắc chắn đủ sức đẩy lui
một số hành vi đạo đức giả mà không gây tổn thất cho an ninh quốc gia.
Một tiêu chuẩn kép về vấn đề tra tấn, một sự gần như dửng dưng đối với
thương vong của thường dân không phải là người Mỹ, sự bành trướng thô
bạo của nhà nước giám sát – không điều nào trong những điều này là thiết
yếu cho an ninh của nước Mỹ, và trong một số trường hợp, chúng phá hoại
an ninh đó. Mặc dù chính quyền đương nhiệm đã chặn bớt một số lạm dụng
của chính quyền trước đó, nhưng con đường trước mặt vẫn còn dài.
Việc
bảo mật có thể được biện hộ như một chính sách trong thể chế dân chủ.
Nhưng đạo đức giả trắng trợn rất khó được người khác tin theo. Cử tri
chấp nhận thực tế là họ không thể biết hết mọi điều chính phủ làm, nhưng
họ không thích bị lừa dối. Nếu Mỹ muốn giảm bớt sự lệ thuộc nguy hiểm
vào lối nói trí trá, nó phải chấp nhận một sự giám sát thật sự và một
cuộc tranh luận công khai, dân chủ về chính sách của mình. Thời đại của
việc giả đạo đức dễ dàng đã qua rồi.
H. F. – M. F.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 02:47
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/cham-dut-ao-uc-gia-chinh-sach-oi-ngoai.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001