Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012

Hạt Thóc
Thảo Trường

“Này là mình Ta, sẽ bị nộp vì..."

Sau Công đồng Vaticano 2 giáo hội thay đổi một số nghi thức việc cử hành thánh lễ, trong đó có việc sử dụng tiếng địa phương, cho nên tôi mới hiểu được những lời linh mục nói. Trước kia thầy cả đọc bằng tiếng La Tinh tôi chẳng hiểu gì cả và có lẽ hầu hết giáo dân trên thế giới đều ù ù cạc cạc như tôi mặc dù người nào cũng quì cũng đứng cũng ca cũng hát cũng thưa cũng gởi rất là cung kính. Hồi nhỏ tôi cứ tưởng bà nội tôi biết tiếng La Tinh nhưng thực ra nội chỉ được đi học chữ Nho. Cũng bởi tôi thấy nội đi lễ nhà thờ. Bây giờ tôi đã thuộc một số lời Chúa phán cùng các môn đệ của ngài. “Này là mình ta sẽ bị nộp vì các con”... “Này là máu ta, máu Tân Ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội... “Từ ngày sang ở bên Mỹ, thỉnh thoảng đi lễ nhà thờ Mỹ, xem linh mục Mỹ làm lễ, lại thuộc thêm những lời Chúa bằng tiếng Anh “... Do this in memory of me... “ Vì hiểu được lời lẽ cho nên mỗi lần đi nhà thờ tôi hình dung ra như mình đi dự một bữa tiệc tượng trưng, tham dự vào một điển tích lịch sử, tôi đi tìm một chốn nương thân vào quá khứ ngay trong hiện tại. “...Phúc cho ai được mời lên dự tiệc Thiên Chúa...” Cộng sản là những nhà truyền giáo hữu hiệu nhất... ai đó đã nói như vậy, chẳng hiểu đúng sai, nhưng những người đã bị cộng sản bỏ tù đày ải, thảy đều cảm thấy cuộc đời khốn kiếp đến không hiểu nổi, rằng không còn cái gì khốn nạn hơn cộng sản. Thế cho nên những lúc đau khổ tột cùng ấy, nhớ đến lời Chúa thì không có gì an ủi thấm thía hơn. Nằm trong nhà giam tối tăm tuyệt vọng mà ngẫm nghĩ đến những lời cầu kinh trầm buồn “Chúa Jesus lo buồn vì thương hết người thế... Chúa Jesus mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất... Chúa Jesus rửa chân cho các đầy tớ... Chúa Jesus thương thành Jerusalem chảy nước mắt ra... Chúa Jesus truyền phép thánh thể nuôi lấy linh hồn chúng tôi...” “Này là mình Ta” và người ta đã làm như thế hai ngàn năm nay. Linh mục kế tục các tông đồ diễn lại cái sự tích ấy theo lời Jesus nói và việc Jesus làm. Tôi xem. Như một kẻ tham dự. Hằng ngày. Cũng sau công đồng, việc tiến hành lễ có thêm các thừa tác viên phụ với linh mục trong việc dọn tiệc. Linh mục làm thay Chúa đãi tiệc, trước kia linh mục bưng bánh và rượu đi mời người dự, nay Hội Thánh canh tân cho phép một số người đến dự tiệc, phụ với linh mục làm công việc bưng bánh và rượu mời đồng đạo để bữa tiệc được tiến hành nhanh hơn. Đó cũng là một thích nghi với thời đại vội vã. Các thừa tác viên được tuyển chọn và huấn luyện bởi các linh mục. Những vị thừa tác viên này cũng là những ông những bà trong các gia đình thuộc địa phận giáo xứ. Đối với một số gia đình thì đây cũng là một việc hãnh diện tăng thêm vinh dự và phúc đức cho bản thân. Các ông các bà được chọn làm người hầu tiệc tinh thần do Chúa khoản đãi cũng được hưởng số rượu còn lại trong các chén. Ngày trước mỗi khi rước lễ giáo dân quỳ ngửa mặt há miệng cho linh mục cầm bánh đặt vào lưỡi mình rồi ngậm lấy và nói Amen. Bây giờ người rước lễ đứng đưa hai bàn tay ngửa, linh mục cầm bánh đặt vào lòng bàn tay “Này là mình thánh Chúa” người dự tiệc tự mình cầm bánh đưa lên miệng ăn cũng nói Amen. Sự thay đổi được đặt ra vì trong Tân Ước chép “Hãy cầm lấy mà ăn”, hơn nữa y khoa phòng ngừa thời nay cũng có phần khắt khe kỹ lưỡng hơn xưa. Cộng sản nói phét tự do tín ngưỡng và “tự do không tín ngưỡng” nhưng ai để lộ ra mình theo đạo sẽ bị trù. Trong trại giam còn cấm truyền đạo vì thế mọi việc lễ lạy cầu kinh đều bị đàn áp. Tù và linh mục lén trao mình thánh trong những lúc gặp nhau ở nhà bếp, máu thịt Chúa được gói trong giấy báo nhét ở đâu đó cho kín. Nhưng chính cái nghi lễ lén lút đó mới là thực lòng. Con sa cơ thất thế nên con cầu xin cứu vớt thực sự. “Xin Chúa thương sót chúng tôi”.



Một lần con chiên khô đạo đem xoong trả nhà bếp, qua hàng rào nhà giam số 3 thì có ông linh mục tuyên uý tù, bạn cũ, cầm một chồng xoong đưa ra nói:
– Nhân tiện trả giùm với.

Rồi thấp giọng linh mục nói nhanh:
– Bánh lễ trong xoong ấy, sấp mình mà ăn năn rồi rước lấy.

Anh con chiên khô đạo hiểu ngay, đỡ lấy chồng xoong, đồng thời rất nhanh cầm ngay miếng bánh mỏng và nhỏ xíu bằng móng tay út, bỏ lên miệng nuốt và nhẩm “Amen”. Nhác thấy công an đứng gần đó con chiên bèn truyền đạt ngay cho linh mục một bài học:
– Lười chảy thây ra, có mấy cái xoong cũng không chịu đi trả, quen thói đẩy việc cho người khác.

Công an nhân nghĩa lên lớp:
– Nhân tiện giúp anh ấy, làm cái gì mà khó tính thế.

Con chiên bèn được thể lậu bậu thêm cho thày cả một mách nữa:
– Lười biếng quen thân, bóc lột sức lao động người khác... Rút kinh nghiệm nghe không.

Về sau có dịp gặp lại nhau, ông linh mục nói:
– Trận xỉ vả ấy của ông là lần bị mắng mỏ sung sướng nhất đời tôi.

Người khô đạo cũng gật đầu:
– Với tôi, lần rước lễ ấy cũng là lần rước lễ hạnh phúc nhất.

Sang Mỹ thấy giáo dân di tản cũng tập họp thành những xứ đạo đông đảo, các sinh hoạt lễ lạy bằng tiếng mẹ đẻ, nhà thờ thì hợp đồng thuê giờ của Mỹ, rộng rãi sang trọng. Ghế ngồi bóng láng, bàn quì bọc đệm da êm ái, đèn điện sáng láng như thiên nhiên diễm ảo, không khí mát mẻ trong lành. Các nhà truyền giáo lịch lãm dịu dàng, giáo dân ăn mặc đi đứng ngồi quì thảnh thơi lịch sự, chỉ trông cũng đã thấy đáng vào nước Thiên Đàng. Bánh lễ trắng muốt, to, tròn, lại có in hình thánh giá nổi, đựng trong những chén vàng có chân cao, chứ không bé bỏng bần hàn như Mình Thánh Chúa trong cái xoong chưa rửa ở cái thời bị bách hại nơi quê nhà. Nhà thờ Mỹ cũng có bàn thờ riêng Đức Mẹ một bên, thánh Giu-se riêng một bên, giống như các nhà thờ bên Việt Nam. Người công giáo nào thì cũng cùng niềm tin giống nhau, cái khác là cách tin kính. Dưới chân Đức Mẹ đèn nến sáng trưng. Có cả mấy chục ngọn nến và mấy chục lẵng hoa tươi thắm. Bên bàn thờ thánh Giu-se thì vắng tanh vắng ngắt không nến không hoa. Cái gì của Bà thì Bà sở hữu, cái gì của Ông thì Ông sở hữu.
Không thấy vị chức sắc nhà xứ hay linh mục nào tự ý xê dịch chuyển đổi các của lễ trên hai bàn thờ. Có tín đồ nói:
– Tại vì Mẹ được nhiều người thờ phượng.

Đúng, Mẹ có nhiều con cái sùng bái vì ai xin điều gì Mẹ cũng cho. Như thế là Thánh Giu-se không được sùng bái vì không ai xin gì hay có xin mà ngài không cho chăng?

Có một anh khô đạo than tếu rằng anh ta có xin nhưng ngài bảo:
– Mày sang xin bả bên kia kìa, tao có giữ cái gì đâu mà cho...

Bà vợ ông thừa tác viên nghe chuyện thì trách:
– Các cậu báng bổ thế chết xuống hỏa ngục.

Có người than:
– Nếu thiên đàng có bà thì chúng tôi cũng xin đi nơi khác cho thoải mái.

Bà ấy bốp chát:
– Phét, đừng nói chuyện trên mây, hãy cứ nhìn dưới đất này, sao tôi di tản sang Mỹ các cậu cũng xuất cảnh theo sau.

Anh khô đạo gật gù:
– Cũng may mà Chúa không lập gia đình, nếu không người ta cứ đổ xô đi xin xỏ với gia đình, sẽ chẳng còn bao người nghĩ đến Chúa nữa. Không tin mở Tân Ước ra mà coi, không một dòng nào nói đến sự đó suốt cuộc đời ba mươi ba năm trần thế của ngài.

Thế mà chẳng may có linh mục lại không chịu giữ như thế. Ông giáo sư triết học cười bênh:
– Thằng ấy, ý nói ông linh mục lấy vợ, can đảm.

– Nhờ ông tí, nhịn được mới là can đảm chứ không nhịn được mà can đảm nỗi gì? Anh đã hứa, anh đã chính thức hứa một cách có ý thức và anh là người trí thức, anh hoàn toàn tự do lựa chọn không ai ép anh, anh tự nguyện làm một kẻ như Ki-tô để rao truyền cho Ki-tô, thì anh phải ráng mà theo Ki-tô. Khi anh mê gái bỏ Ki-tô đi lấy vợ, thì anh hãy nhận là mình thua, anh trở về làm... thường dân như mọi người, anh phải “xuất”. Người ta có “kiến nghị” nhưng Công Đồng Vaticano chưa cho thì là chưa được, anh phải vâng lời hoặc là “xuất” chứ không thể “can đảm” bắt cá hai tay được.

– Chúa Giê-su cho Thánh Phê-rô một đêm chối ba lần...

Tiến sĩ triết học cứ bào chữa cho tiến sĩ triết học, giỡn hoài. Quo va dis? Hãy thành thực mà tự hỏi và tự trả lời mình. Cứ phải thế. Là vì sau mười bảy năm tù về Sài Gòn đi nhà thờ gặp tiến sĩ giữ xe đạp miễn phí cho bà con đi lễ, anh ta bèn khen:
– Ngày trước có linh mục hốt rác, ngày này dưới thời cộng sản ông tự nguyện làm phu giữ xe không công cho nhà thờ, làm việc xã hội nhà thờ thế là tốt, nhưng có định lập “uỷ ban đòi cải thiện chế độ lao tù” nữa không?

Giáo sư cười, anh ta cũng cười:
– Mẹ cóc, suốt mười bảy năm qua chúng tôi chẳng thấy cái “ủy ban đòi cộng sản cải thiện chế độ lao tù” nào của các ông cả, thế là thế “lào”?

Tiến sĩ Sorbone bèn lại cười trừ, mời đi ăn phở và tiết lộ sắp tái định cư ở Canada. Trước khi ăn cả hai đều làm dấu thánh giá, ấy là tiến sĩ chỉ bị cộng sản bắt bỏ tù có sáu tháng, thời gian chỉ bằng “cái lẻ của cái lẻ” của anh ta. Nếu Chúa bắt lỗi, cái anh này sẽ xuống đến đáy địa ngục.

Ở Sài Gòn anh ta thích đi lễ ở một nhà thờ ngay trung tâm thành phố nhưng lại rất vắng vẻ. Nhà thờ này là nơi bị cộng sản bách hại đầu tiên khi họ chiếm miền Nam. Họ tấn công nhà thờ bằng lực lượng công an, quân đội có chiến xa, bắt đi nhiều người, xử tử và cầm tù, đến nay đã mười bảy năm có linh mục vẫn chưa được thả. Từ đó họ chiếm luôn nhà thờ, sau nhiều năm chỉ trả cho giáo xứ một tầng trên. Do đó tầng dưới nhà thờ và các nhà xung quanh là lớp học vô sản ngày ngày oang oang thủy tổ loài người là khỉ, trong khi tầng trên vị linh mục già và vài chục giáo dân âm thầm tế lễ!

Ở Đà Lạt có một dòng nữ tu bị lấy một phần nhà cửa làm trường chăn nuôi trưng lên tấm bảng chữ lớn “Trung Tâm Thụ Tinh Nhân Tạo” cũng là ý đồ cộng sản. Nhà thờ nghèo bị khống chế đến nỗi giáo dân sợ không dám đến dự lễ và nhà xứ không có tiền nên trời nóng cũng phải tiết kiện điện không mở quạt. Có lễ chiều anh chỉ đếm được hai mươi bảy người mà phần nhiều là người già. Nhưng bàn thờ Đức Mẹ vẫn có nến có hoa. Và bàn thờ Thánh Giu-se cũng có nến có hoa. Bà giáo dân già vẫn lo việc lau chùi các bàn thờ đã lấy hoa và nến của Đức Mẹ cho Thánh Giu-se để bàn thờ nào cũng có đủ cả. Vì thế dưới chân vị thợ mộc thánh thiện suốt cả một đời cần cù nhẫn nhục hy sinh cũng có nến có hoa như Đức Mẹ.

Người khô đạo sang tới Mỹ, đi lễ ở nhiều nhà thờ sang trọng, Mỹ có, Việt có, nhưng anh vẫn cứ nghĩ tới những ngọn nến, những bông hoa dưới chân Mẹ, dưới chân Thánh Giu-se, ở một nhà thờ nghèo nàn, vắng vẻ, đang bị bách hại ở quê nhà.

Ở quê nhà, anh đã bị ở tù cộng sản. Cộng sản bắt buộc tù chính trị phải tự túc làm nuôi thân. Có làm có ăn, không làm không ăn. Chúng nói thế. Nhưng đầy rẫy những kẻ có làm không ăn, đó là những người dân. Và rất nhiều kẻ không làm mà ăn nhiều hưởng nhiều, đó là những ủy viên trung ương đảng và những bí thư đảng ủy các cấp. Chúng bắt anh làm quần quật suốt ngày nhưng cho ăn củ khoai củ sắn và ăn rất ít. Chúng nói anh làm không đủ ăn sáng. Cũng đúng thôi, một ngàn tù làm ngày làm đêm không đủ nuôi tù và hơn trăm cai tù ăn báo hại vào đó là vì quanh năm với cuốc xẻng đào xới bới đất trồng hết khoai lại đến sắn... đến mùa moi lên thái phơi khô mưa nắng lẫn lộn bỏ kho ít tháng sau mốc đem ra làm biên bản hủy. Rồi mấy cái máy kéo của “ông” Liên Sô cho để phơi sương phơi gió không chạy được, còn “thằng” Trời hồi này sao kỳ quá, mưa nắng thất thường. Cứ như thế mà đi lên chủ nghĩa xã hội với tất cả lý thuyết hào nhoáng khoe khoang dốt nát rỗng tuếch giả dối và ác độc. Khi chiếm được cả nước, đàn em của anh Hồ là tên Lê Duẩn bèn chỉ Miền Nam mà nói: “Hãy bắt chúng nó làm và cho chúng nó ăn.” Đó là cái lõi của cuộc giải phóng. Mà ăn có phải thịt cá gì cho cam, thức ăn chính là chất bột. Một cai tù đi thành phố nghe giảng về nói lại, “trong khi mình phấn đấu tăng khẩu phần chất bột lên thì các nước người ta... phấn đấu giảm chất bột xuống trong cơ cấu bữa ăn.” Anh ta còn khoe Liên Sô có mức ăn cao nhất, người lính bộ binh Liên Sô ăn hai mươi bảy kí lô chất bột một tháng. Nghe thế tù bình luận tếu:
– Tội nghiệp lính Cộng Hòa hồi trước ăn có hai mươi mốt kí.

– Còn lại phải ăn độn thịt cá rau...

– Tội nghiệp hơn nữa những người lính Mỹ và các nước Tây Âu mỗi bữa ăn có tí chất bột còn toàn độn thịt cá bơ sữa...

– Kẻ thì tranh ăn cho khỏi đói, người thì nhịn ăn cho bớt mập, đằng nào cũng tội nghiệp cả.

– Nhưng tội nghiệp nhất lại chính là những tên cộng sản ngu đần đã làm một cuộc chiến tranh vô ích. Chúng đã lật đổ, cướp quyền để rồi làm y như họ mà còn làm sau hơn chậm hơn dở hơn người ta nữa. Chung qui cũng chỉ là muốn giựt cho riêng mình. Chung qui cũng chỉ là đồ tranh ăn. Vì tranh ăn nên làm cách mạng. Làm cách mạng để được ăn. “Hai bộ quần áo, một khẩu súng ăn cơm “cụ” Hồ và đánh Tây...” Không cần suy nghĩ, không cần ý thức, thì là đánh thuê chém mướn chứ là cái gì, là cái máy giết mướn chạy bằng chất bột chứ là cái khỉ khô gì. Chỉ cần cho ăn là đi đánh. Lương thực thực phẩm hóa thành động cơ, hóa thành lý tưởng, hóa thành chủ nghĩa... “Thề phanh thây uống máu quân thù...”

Khi đói người ta dám ăn thịt nhau như khi rớt trên sa mạc hay lênh đênh ngoài biển không lương thực nước uống. Nhà tù cộng sản biết thế nên bắt tù nhịn đói để sai khiến và gọi như thế là cải tạo. Tù chưa ăn thịt nhau nhưng đã ăn cóc nhái ốc sên... và bán nhau cho quỉ để mong được sống sót, về sớm và thoát khỏi.

Lương thực chính trong tù là chất bột như khoai sắn. Cơm là thứ cao cấp. Thịt, cá là cỗ bàn lễ Tết. Mà cũng không riêng gì tù, dân ta ở Miền Bắc cũng khổ như thế, an phận suốt đời đến độ thành ca dao: “Quanh năm no đủ nhờ củ nhờ khoai, Suốt đời không nợ nần ai nhờ khoai nhờ củ”. Trong tù có mức ăn A, B, C, gọi là “chế độ ăn”. Bị trù lãnh mức ăn C là đói dài ngay. Phần A được mỗi bữa ba mẩu sắn luộc thì phần C chỉ còn hai mẩu vì mỗi tháng có chín cân. Phát cho bao nhiêu ăn bấy nhiêu không được tự ý kiếm chác. Lấy tức là ăn cắp. Đổi chác tức là buôn bán. Hai cái đó trái với xã hội chủ nghĩa, là... phản cách mạng. Theo bài giảng thì củ sắn rất bổ, lá sắn cũng rất bổ. Không tin à? Thế viện trưởng đại học Sài Gòn các anh đã tuyên dương cây sắn và đã liên hệ lá sắn bổ béo như với thịt bò các anh không thấy sao. Học hành tới tiến sĩ mà sao có nhiều anh khờ quá. Trại tù K1 Tân Lập Vĩnh Phú trong năm 1978 chết đói hơn trăm người gồm sĩ quan cấp úy, tá, tướng và linh mục chôn ở ba nơi không thấy sao? Bao nhiêu thế hệ thanh niên nước ta cơ thể còi cọt còm cõi vì củ sắn chiến lược không thấy sao mà còn ngoác miệng ra nói lấy lòng lấy điểm với chúng nó. Nịnh cộng sản thì được cái cứt chó gì hở quí vị, sợ chết thì chuồn mẹ nó ra nước ngoài mà sống, nói năng lăng nhăng thử hỏi bây giờ rồi cũng xuôi tay, có được chúng nó cho thêm củ sắn nào nữa không?

Ở Mỹ người ta sợ mập không dám ăn, ở nước ta thèm mà không được ăn. Ở Mỹ kỹ nghệ sản xuất dụng cụ tập thể dục, các lớp, các khoa tập tành cho người gầy đi quảng cáo phổ biến ồn ào và làm ăn khấm khá. Tiến sĩ có biết không, một nạn nhân ăn sắn trong tù ở trại giam Vĩnh Phú hồi đó đã phải tính toán hạn chế đến từng cử động để khỏi hao phí nhiệt lực của cơ thể, nay ông ta thoát chết ra nước ngoài làm nghề huấn luyện cho người ta nhịn ăn cách nào, vận động cách nào để chóng gầy, đã có học vị tiến sĩ như ông, rất giầu, rất nổi tiếng, nhưng thỉnh thoảng vẫn phải đi ra siêu thị Việt Nam mua củ sắn về luộc ăn để nhớ lại cái cảnh ăn thêm một củ sắn mà phải tự kiểm nhận tội ăn cắp, bị cùm một chân trong nhà kỷ luật bảy ngày đêm, hạ mức ăn xuống hạng C một tháng, cắt thăm nuôi sáu tháng... nếu miếng ăn là nhục là đau thì cái anh tiến sĩ tuyên dương cây sắn và ông tiến sĩ ăn trộm củ sắn ai nhục ai đau.


*

Hôm qua có mấy cụ già tán gẫu ở quán nước, một cụ nghe chuyện tức quá văng tục:
– Tiên sư chúng nó tù trồng sắn tù ăn chứ có ăn của mả chủ tịch nhà chúng nó đâu!

Một bác già khác hỏi:
– Thế, có ai, không ăn thóc nhà Chu không?

Câu chuyện trở nên xôm tụ:
– Thóc nào của nhà Chu? Chẳng có thóc nào của nhà nào cả. Tù làm tù ăn, bọn cán bộ ăn bám vào tù.

– Thực phẩm nào cũng là của Chúa. Linh mục làm tiệc, thừa tác viên bưng, có gì mà phải thắc mắc. Củ sắn sa vào tay bọn cai tù là vì nó đang bỏ tù mình nên nó lấy phần của mình, nhưng củ sắn vẫn là củ sắn của Chúa, nó bỏ đói cái thân thể của Chúa tạo ra thì ta cứ “cầm lấy mà ăn”, có gì mà nhục, có gì mà đau.

Một bác già kể, có nhà văn bị một nhà văn, bạn, làm chủ báo, nói rằng phải để cho đói thì đầu gối mới bò, nghĩa là khi thiếu thốn thì mới chịu viết bài cho báo. Hỏi bị đánh giá thế có đau không bèn cười nói rằng đó là chủ nói với thợ, không phải là một quan điểm văn nghệ. Làm văn là thích thú thì làm, đam mê mà làm, cũng như thích thì ăn không thích thì đi chơi, không bỏ. Cộng sản nó nói “Bắt chúng làm và cho chúng ăn”, nó nói thế vì nó là cộng sản, ai không là cộng sản thì không được nói thế, không nên nói thế dù là nhà văn muốn nói gì thì nói.

Một bác già khác mới sang Mỹ được một tháng thấy những cọng giá ở tiệm phở lớn và dài thì khen và chê cùng lúc:
– Giá sống to như giá đậu phọng, giá so đũa, nhưng ăn lạt nhách. Ở đây cái gì cũng to xác nhưng cái gì cũng lạt nhách, húng quế chẳng hạn...

– Còn nhiều thứ to con nhưng lạt nhách, rồi bác cũng sẽ quen dần thôi. Nơi chốn lưu vong này có những cái ngược đời dần dần được thích nghi đến một ngày sẽ không thấy nó ngược đời nữa mà sẽ thấy là nó... thuận chiều! Bởi vì mọi chuyện vẫn cứ tiếp tục truyền sinh, tiêu hóa, nẩy mầm, tuyệt chủng, thoát thai... Nghĩ cho cùng cái gì cũng phải cố mà hiểu. Cộng sản nó mắng quốc gia là có anh đã từng ăn một lúc, một mình nguyên một cái đùi gà, còn nhấn mạnh “cái đó là có ạ, chứ không phải không”, thế mà anh tù binh vẫn cứ phải ngồi phải nghe không cười... thì chuyện gì mà không hiểu được ở cõi đời này. Thôi thì ai muốn nói trời nói đất gì thì nói, ai muốn làm chủ và ai không muốn làm thợ cũng mặc. Đến một ngày sẽ không còn quản giáo nữa, không tin mở Tân Ước đọc thư của Paul gửi người Rome mà coi. Đã sang Mỹ rồi thì già vào nhà già mà ở, trong đó có ăn uống, có quần áo giường ngủ, có máy rút sinh lý, có lồng tắm treo tự động xịt nước xà bông, có tiêu chuẩn chôn cất khi qua đời... có đủ thứ kể cả nỗi cô đơn.


*

Mặt đồi đã phát quang, đã đốt cháy hết cây cỏ, đã dọn sạch, cứ một người đi trước dùng gậy thọc lỗ thì một người đi sau bỏ vào mỗi lỗ bốn hạt thóc. Chỉ bốn hạt thôi. Không ba mà cũng không năm. Thông số đã được định sẵn qua công trình nghiên cưú khoa học của bộ nông nghiệp nhà nước. Dùng chân gạt nhẹ một lớp đất mỏng phủ lên trên, mưa xuống, hạt thóc sẽ nẩy mầm mọc lên thành bụi lúa. Cứ thế mà làm. Gọi là lúa nương. Đấy là lao động sản xuất xã hội chủ nghĩa. Bác tù binh đi trước vừa thọc thọc lỗ vừa kể chuyện kiếm hiệp. Bác đi sau cầm một cái lá khoai nước đựng thóc giống, tay tra thóc, chân gạt đất, tai nghe, làm thính giả trung thành. Sinh hoạt văn hoá này tù binh gọi là “chiếu phim”.

“Lệnh Hồ Sung đánh với Điền Bá Quang để cầm chân tên đại đạo hái hoa này cho tiểu ni cô chạy nhưng Nghi Lâm cứ dùng dằng không nỡ bỏ người cứu mình chết dưới ngón khoái đao của dâm tặc, tức quá Lệnh Hồ Sung bèn réo cả sư thái của Nghi Lâm và các ni cô phái Hằng Sơn ra mà mắng nhiếc bêu riếu, rồi sỉ vả luôn cả ni cô nhỏ bé ngây thơ “Hay là nhà ngươi cũng thích cái tên dâm tặc này nên không muốn chạy đi, ôi thôi ta đã lầm, ta đành chết uổng phí bởi những kẻ không ra gì này rồi...” Nghi Lâm oan quá nhưng chỉ biết khóc, cô đành vừa chạy đi vừa ngoái cổ nhìn lại, cô chạy đi không phải vì muốn thoát thân mà vì cô sợ Lệnh Hồ công tử nổi giận, cô khổ quá vì những lời mắng nhiếc lầm lẫn của chàng, cô chạy đi để chàng khỏi hiểu lầm là cô có tình cảm với hắn. Điền Bá Quang vung đao chém sượt vai Lệnh Hồ Sung, máu ra thấm áo, hắn cười ha hả: “Tại hạ là kẻ không ra gì, nên mới háo sắc mê gái, chứ Lệnh Hồ đại huynh là đại đệ tử thuộc danh môn chính phái, đường đường một đấng anh hào chẳng lẽ cũng chỉ vì một ni cô tầm thường kia mà tranh giành với tại hạ sao. Hóa ra chúng ta cũng giống nhau ở cái điểm hảo ngọt này”. Lệnh Hồ Sung biết rằng Điền Bá Quang đã nương tay trong chiêu thức vừa qua nếu không chàng khó bề toàn mạng với cái khoái đao của hắn, nhưng vì muốn cứu danh dự cho phái Hằng Sơn là một trong Ngũ Nhạc kiếm phái, cho nên chàng phải dùng đủ mọi cái liều để cứu tiểu ni cô, chàng nói lớn: “Không biết, nhà ngươi phải thắng được ta thì mới bắt nạt được tiểu ni cô, đánh đi, đừng có nói nhiều.” Rồi chàng lại mắng Nghi Lâm “Ni cô xấu xí kia có chạy nhanh đi khuất mắt ta không hay là muốn nhìn thấy hắn giết ta thì mới mãn nguyện. Ra ngõ gặp ni cô đầu trọc đánh bạc cũng thua, đánh kiếm cũng thua...”

– Xạo...
– Ê, coi phim “chùa” mà còn chê bai bình phẩm.

– Nhưng Kim Dung tiên sinh phịa quá.

– Thì nghe cũng đỡ buồn, đỡ đói, đỡ lạnh, mau hết ngày giờ, qua cơn mê này... Với lại thử hỏi văn nghệ là cái gì, “chẳng qua là cái thứ người ta bày đặt ra để bỡn cợt lẫn nhau” mà thôi...

Cộng sản bắt các tù binh sĩ quan QLVNCH lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội cho chúng như thế và các sĩ quan tù binh cũng đã lao động như vậy. Các đồi lúa mọi được làm rải rác trên những khu rừng Việt Bắc.
Nhưng nếu để cho những con gà của chi bộ đảng nuôi cải thiện lên đồi bới ăn những hạt thóc thì hạt thóc sẽ tiêu hóa trong bìu gà, thịt gà sẽ có chất lượng nhưng vụ lúa sẽ thất thu. Trồng lúa hay chăn gà là việc của tù, tù khoẻ trồng lúa, tù ốm yếu bệnh tật cầm cái roi đứng ở sườn đồi chăn gà. Thóc và gà là tài sản của chi bộ đảng vì chi bộ đảng lãnh đạo toàn trại. Lại còn đàn gà riêng của vợ chồng cán bộ ở cái chòi nơi sườn đồi, hai người này cùng đơn vị lấy nhau, cuộc tình “góp gạo nấu cơm chung” rừng rú. Người nữ phụ trách việc đưa tù đi gặp gia đình và coi nhà thăm nuôi. Chị ta béo khỏe mặt rỗ hoa và hơi đen, đứng gần nghe mùi hôi nách. Người nam nhỏ con trắng trẻo gầy gò xanh xao, làm cán bộ võ trang mang súng dài đi theo đội giữ tù, hay ngủ gật khi gác. Nhiều lần bị cán bộ trại trưởng kiêm bí thư chi bộ đảng chửi:
– Đêm nào cũng “đéo” suốt, ngủ gật có ngày tù nó trốn thoát là tù thay cho tù.

Chị vợ cũng bị chửi “mày rút hết tỉ của nó”, nhưng chị chỉ cười nắc nẻ cho nên cũng chưa có “sự cố” gì. Vợ chồng vẫn là vợ chồng kiểu cách mạng. Người nữ cong mông chạy từ bên trại về thở hổn hển nói với người tù canh gà:
– Mấy con gà con kia là của tôi đấy nhé, anh cứ để cho nó lên đồi kiếm ăn không mất bao nhiêu thóc đâu, hôm nào chị ấy lên thăm tôi cho thêm giờ.

Anh cán bộ giáo dục đi ngang nói:
–  Đuổi hết, không chừa con nào, tất cả đều bình đẳng.

Rồi cán bộ giáo dục vỗ đánh bốp vào cái mông cong của người nữ, người nữ cũng chẳng vừa xông tới túm lấy dương vật của anh ta. Con trống kêu cúc cúc, con mái kêu cục cục... rồi cả hai đuổi nhau chạy về cơ quan. Bác tù già yếu bệnh tật cầm chiếc roi đứng ngơ ngác nơi sườn đồi giữa đàn gà không rõ con nào nhà nước con nào cá biệt.


*

Quán ăn gần nhà, ở cộng hòa Bolsa. Gần phòng mạch bác sĩ sửa sắc đẹp. Gần văn phòng luật sư chuyên lo về ly dị và phá sản. Gần tòa báo. Gần bến xe buýt. Đủ thứ tiện nghi... Chỉ không có xích lô đạp. Thế mà nói là giầu nhất thế giới. Ở hàng bún, phở, nên các bác cũng nói chuyện nước lèo. Hỏi nhau:
– Bên này nấu nước lèo bằng gì?

– Thì cũng bằng xương bò chứ bằng gì nữa bây giờ. Chẳng lẽ xương người.

– Còn lâu. Mới sang. Ngớ. Biết gì.

– Thế nấu bằng cái gì?

– Không ai rỗi hơi đi nấu cầu kỳ như bên ta. Ở xứ công nghiệp người ta làm ăn theo cung cách công nghiệp. Bột ngọt là chính. Với lại bên này người ta sợ mỡ béo ông ơi.

– Hỏi thử chủ quán coi.

Chủ quán không đợi hỏi, nói ngay:
– Bí quyết làm ăn, phải trả tiền tôi mới chuyển giao kỹ thuật công nghiệp.

Một bác già kể:
– Cần gì hỏi. Bà bảo trợ của tôi mỗi lần nấu nước lèo, ăn bún, ăn phở, là phải đi xa lắm, đến tận lò thịt tư nhân, xin, là họ cho không cả thùng xương đem về nấu.

– Tha hồ ăn xíu quách...

– Không. Xíu quách bỏ hết. Hầm lấy nước trong thôi. Để trong tủ lạnh cho mỡ béo đóng váng trên mặt, hớt vứt đi luôn.

– Chả bù với hồi tù ở Hoàng Liên Sơn, chia nhau cả xương trâu, da trâu mà gặm, ăn tất, con trâu làm thịt ăn, chỉ bỏ xương cứng quá không nhai được, mà thôi. Mà sao thịt trâu nó ngon và thơm thế, ăn vào chỉ thấy khoẻ chẳng thấy đau ốm bệnh tật gì cả. Chia nhau xương trâu mà gặm mút lấy cái tủy béo lắm, dùng chiếc đũa mà thọc cho tủy nó lòi ra rồi mút. Hết xẩy! Hồi đó còn nghĩ rằng khi nào về nhà sẽ mua luôn một cái cẳng trâu biểu diễn tài chế biến nấu nướng cho cả nhà ăn một bữa đã đời, thỏa thuê, ai ngờ...

– Ai ngờ bây giờ về rồi, ở đây, họ vứt hết, vất cả thịt chứ đừng nói đến da xương...

Chán thật. Gần trưa các bác già ngồi lâu mệt mỏi cũng lần lượt ra về trả lại cái bàn bừa bãi chén bát ly tách cho quán Huế Vua ăn. Người khô đạo về tới chung cư, nặng nhọc bước chân lên cầu thang, nặng nhọc mở cửa vào phòng, thả mình trên tấm giường chiếc, nhìn lên trần nhà... Căn buồng nhỏ và thấp, còn nhỏ và thấp hơn căn phòng trên cao ốc mà ngày xưa bác già đã sống suốt mười mấy năm ở đường Tự Do, Sài Gòn.
Năm 75 bác già bị cộng sản bắt tại căn nhà này đem đi nhốt mười mấy năm suốt từ Nam ra Bắc mà không có xử án. Nhốt chán cũng phải thả bác về, nhưng căn phòng xưa đã có người khác ở, bao nhiêu sách vở bản thảo của bác trong căn phòng đó đã bị mất hết. Ở Sài Gòn hơn một năm bác có ý đi tìm và còn định đi... kiện đòi lại các tác phẩm của mình nhưng một nhà văn khuyên bác bằng cách đùa giỡn là gửi cho bác một củ khoai lang và chỉ cách cho bác đi ra nước ngoài. Thế là bác trở thành một ông Mỹ già gốc Á Châu, hưởng tiền già, ở căn phòng chung cư của những người già này, để rồi ngày ngày ra quán ngồi uống trà tán gẫu.
Chán lại về căn phòng nhỏ nằm nhìn lên trần nhà.

Căn phòng này không “sang trọng” bằng căn phòng ngày xưa, nó đúng là một cái hộp, bác nghĩ thế nhưng không sao, chỉ tiếc là không có con nhện nào chăng tơ trên trần như những hình ảnh kỷ niệm cũ. Có lúc bác nghĩ thầm “biết thế đấm buồi vào...” Thỉnh thoảng đêm đêm bác nghe văng vẳng tiếng nổ đì đùng từ nơi bắn pháo bông ở Disneyland vọng về như là có giao tranh ở ngoại ô Sài Gòn. Ở căn phòng xa xứ này bác nhớ tới căn phòng quen thuộc bao năm cũ. Nhưng dù sao thì ở cõi tạm này, nơi lưu đày biệt xứ này, bác sống, bác viết, như bác đã sống đã viết, ở căn phòng xưa cũ, hồi thành phố chưa bị cộng sản chiếm. Ở đây bác có thể viết theo ý mình những gì bác thích mà không phải bò vì đói hay sợ công an nó bóp dái. Cùng lắm thì bác bấm máy print mấy bản dán ở chợ, ở cột đèn, hay dán nơi thùng rác của chung cư... Gọi là có xuất bản. Có phát hành. Như ai... Rồi quẹo vào siêu thị mua một củ sắn đem về luộc mà ăn qua ngày. Còn điều này, bác nghĩ, có thể, ở đây, căn phòng này, sẽ là nơi bác mãn phần... Bác kê chiếc giường giữa phòng, như một cái lỗ huyệt giữa miếng đất. Cái giường kiểu Mỹ không giống lọai giường bên ta, nó chỉ là một khung sắt trên có hai tấm đệm. Xung quanh giường là những tiện nghi như điện thoại, computer, máy fax, tủ lạnh, bình trà, sọt rác... tất cả mọi thứ cần dùng bác già bày biện chỉ việc với tay là tới... Nơi góc buồng là phòng vệ sinh cũng là một thứ cần thiết.

Bác già nằm vắt tay trên trán thì chuông điện thoại reo, bác nhoài người cầm ống nghe:
– Vâng tôi nghe, thưa cha…

– Tìm cha để muốn hỏi xem có phải đúng như vậy không và điều đó có phải là giáo luật hay chỉ là tự nhiên từ xưa đến nay như thế...

– Thưa cha tôi nhắc lại, bánh lễ còn lại sau buổi tiệc phải cất đi, mỗi giáo dân, mỗi lần rước lễ chỉ được một miếng bánh, tiêu chuẩn một ngày, thậm chí nếu lỡ có đánh rơi rớt cũng phải nhặt lên mà ăn không được bỏ phí, cũng giống như có lần đói quá cha con mình đã xâm những hạt cơm dính rá ăn. Chỉ có rượu khi đã rót ra chén thì nếu còn thừa sẽ được uống hết. Dạ, tôi nghe rõ và hiểu. Cám ơn cha đã xác định cho tôi những điều tôi muốn biết. Dạ, cũng hợp lẽ tự nhiên thôi, cơm gạo khoai sắn hay máu thịt Chúa thì cũng đều được quí trọng và phải được dành dụm cả. Lương thực thực phẩm nào cũng là của Chúa, củ sắn cũng của Chúa và phải được trân trọng. Nhưng bánh thịt có lúc quí hơn rượu. Nhất là khi ta đang đói. Khoai sắn có lúc ngon như cơm gạo, chắc cha còn nhớ lúc chúng ta suýt chết đói ở trại giam cộng sản Việt bắc, tôi thì nhớ rõ lắm và sẽ chẳng bao giờ quên. Còn nhớ là cha đã cho mượn quyển Tân Ước mà cha giấu được cho tôi đọc. Nhớ. Vẫn nhớ. Hôm rồi có nghe một bài phát thanh của cha. Anh Hiền chơi violon đã qua đời vì bịnh sau khi chúng nó thả anh ra khỏi tù. Tôi còn cầu mong cho cha lên Hồng Y nữa cơ, thiệt đấy, nếu được như vậy tôi sẽ đãi cha một củ sắn nướng, không đùa đâu, rất nghiêm chỉnh, thưa cha.

– ”Xin ơn trên phù hộ chúng ta”.

– Vâng. Chào cha.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2012/08/hat-thoc.html?utm_source=BP_recent
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001