Tác phẩm "Tình báo Trung Quốc" của Roger Faligot |
Tác giả tìm
cách trả lời câu hỏi, tình báo Trung Quốc có phải là mạnh nhất thế giới
?
Là nhà báo
và chuyên gia về châu Á, Roger Faligot đã lặng lẽ điều tra tại Trung Quốc, Hồng
Kông, Nhật Bản, Úc, thu thập được nhiều tài liệu độc đáo, khai thác các kho lưu
trữ đặc biệt và phỏng vấn nhiều nhà chuyên môn : chuyên gia về tình báo, chính
khách, nhà ngoại giao, nhà phân tích quân sự, người đào thoát và các nhà ly
khai.
Những tiết
lộ trong sách giúp người đọc biết được cách thức Trung Quốc dựa vào để mong tiến
lên thành siêu cường : nhờ có mạng lưới tình báo tích cực hoạt động trong tất cả
mọi lãnh vực, kết hợp binh pháp gián điệp có từ thời xưa, chính sách trấn áp về
mọi mặt của bộ máy an ninh, và các công nghệ mới – chiến tranh mạng, tình báo
kinh tế và những trận đánh chớp nhoáng trên internet.
Tác giả Roger Faligot |
Tác giả cũng
cho biết làm thế nào Bắc Kinh đào tạo được đội ngũ hacker chuyên tấn công các
trang mạng chính phủ những nước khác.
Cuối cùng,
sau khi mô tả mạng lưới hùng hậu chuyên theo dõi các phong trào chống Thế vận
hội Bắc Kinh, tác giả cho biết các vận động viên và các phóng viên thể thao đã
bị tình báo TQ theo sát như thế nào, thông qua một trung tâm tình báo đặc biệt
có ngân sách lên đến 1,3 tỉ đô la
!
Sách ra đời
từ tháng 2/2008, đến nay có lẽ đã lạc hậu nhiều, « bạn vàng » nay đã hiện đại
hóa vượt bực, nhưng dù sao cũng có lẽ giúp chúng ta đỡ mơ hồ một
chút.
Một chi tiết
nhỏ: Ở cuối sách có phụ lục Who’s Who 50 lãnh đạo tình báo ghi dấu ấn đậm
nét trong lịch sử gián điệp Trung Quốc. Đứng đầu danh sách này (xếp theo thứ tự
vần) là Cao Guisheng, năm 1954 là phóng viên Tân Hoa
Xã ở Hà Nội.
Sách gồm các
chương sau :
Lời bạt : Nụ
hôn từ Bắc Kinh
Chương 1 :
Trận chiến Thượng Hải
Chuơng 2 :
Cơ quan tình báo thời Mao
Chương 3 :
Cách mạng Văn hóa của các gián điệp
Chương 4 :
Đặng Tiểu Bình và « những con cá dưới đáy biển »
Chương 5 :
Năm mươi lăm ngày đêm Thiên An Môn
Chương 6 :
Chiến dịch Thu Lan
Chương 7 :
Gián điệp toàn cầu hóa thời Giang Trạch Dân
Chương 8 :
Bộ Công an và KGB cũ đối đầu với Mỹ
Chương 9 :
Chiến tranh kinh tế và “thủ đoạn cá mút đá”
Chương 10 :
Những con chuột chũi của Phòng 610 và « ngũ ngư »
Chương 11 :
De Gaulle - Sarkozy : Nước Pháp, tâm điểm của mục tiêu
Chương 12 :
Đạo quân chiến tranh mạng Trung Quốc
Chương 13 :
Trung Quốc, huy chương vàng gián điệp
Thụy My xin
phép dịch dần chương 12 dưới đây
Chương
12 : Đạo quân chiến tranh mạng của Trung Quốc
Tháng Chạp
năm 2006. Nhìn từ trên không, căn cứ Pine Gap ở phía nam Alice Springs hiện ra
với những ăng-ten parabol và những mái vòm trắng, giống như một trạm thu phát vệ
tinh bình thường. Trên thực tế, đây là viên ngọc quý giá của điệp báo phương Tây
để đối phó với Trung Quốc.
Nằm trên
vùng đất đỏ của thổ dân ở trung tâm nước Úc, căn cứ này là « cấm địa » trên bản
đồ du lịch. Danh bạ điện thoại địa phương chỉ cho biết có sự hiện diện của một
Joint Defence Facility với các chi nhánh xã hội và y tế. Một cụm từ cho
thấy Úc không phải là người quản lý duy nhất.
Căn cứ Pine Gap |
Được xây
dựng năm 1966, căn cứ trên đây do cơ quan Úc DSD (Defence Signals
Directorate) cùng phụ trách với NSA (National Security Agency) của
Mỹ. Trung tâm này tham gia cuộc chiến tranh điện tử, với việc thu thập các dấu
hiệu thông tin với tầm vóc quy mô và diễn dịch chúng. Trong nghề tình báo, người
ta thường gọi tắt là SIGINT, từ cụm từ tiếng Anh Signals
Intelligence.
Căn cứ lớn
này của Úc ra đời từ thời Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông và chiến tranh
Việt Nam. Bốn mươi năm sau, nhờ có các kỹ thuật mới, hoạt động của trung tâm đã
nhân gấp mười : Pine Gap ghi lại lập tức các cuộc trao đổi trong quân đội Trung
Quốc, cũng như của các nước láng giềng Bắc Triều Tiên và Việt Nam…
« Đó là
một khu rừng các công sự dưới mặt đất, nơi làm việc của gần 800 kỹ thuật viên và
nhà phân tích Úc, Mỹ. Họ có liên lạc trực tiếp với trung tâm chỉ huy của NSA tại
Fort Meade, tiểu bang Maryland. Nhóm B phụ trách châu Á sẽ dịch lại các thông
tin ». Tại Canberra, một cựu nhân viên kỹ thuật Úc đã giải thích như thế
trước khi tôi đến Alice Springs.
Trung tâm
nghe lén này không đơn độc, mà được hỗ trợ bởi những trạm thông tin khác tại Úc
dưới sự quản lý của Hải quân, DSD và các đơn vị đặc biệt khác. Bên cạnh đó còn
kết hợp với một đơn vị của New Zealand - Government Communication Security
Bureau. Toàn bộ những cơ quan này hợp thành một liên minh với NSA của Bắc Mỹ
và “người anh em” Canada, cũng như Government Communication Headquarter
(GCHQ) của Anh - cơ quan nghe lén lớn nhất của phương Tây, chỉ đứng sau
NSA.
Đối mặt với
Trung Quốc, GCHQ từ năm 1947 đã triển khai các “tai nghe” ở Hồng Kông: một trạm
đặt tại Little Sai Wan, có 140 kỹ thuật viên Úc, một trạm nữa ở Tai Mo Shan
thuộc “tân lãnh thổ”, và một trạm vệ tinh đặt tên là Fort Stanley, tại bán đảo
Chung Hom Kok, do Không lực Hoàng gia và DSD quản lý.
Tuy nhiên
Anh đã phải tháo dỡ để tránh bị Ban 3 (tạm dịch từ San Bu hay
APL-3), đơn vị phụ trách SIGINT của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc xơi trọn, khi Hồng Kông được trao trả cho Trung Quốc năm 1997. Sau đó GCHQ
đã thiết trí các “tai nghe nhỏ” tại cao ủy Anh, tức lãnh sự quán, được mệnh danh
là “Fort Alamo”. Còn DSD của Úc thì tổ chức một đơn vị nghe lén tại lãnh sự quán
ở Hồng Kông, liên hệ trực tiếp với trung tâm Watsonia gần
Melbourne.
Trước khi lá
cờ đỏ thế chỗ cho lá cờ Anh, người Anh đã cho gắn hàng trăm “con rận”, “con
gián” điện tử tại trại Prince-de-Galle, nơi trở thành bộ chỉ huy quân sự Trung
Quốc.
Khi chiến
dịch Kittiwake của trạm vệ tinh Fort Stanley bị chấm dứt năm 1993, DSD quản lý
một trạm khác ở Geralton miền tây nước Úc. Trạm này cũng làm các nhiệm vụ: đo
lường từ xa các thử nghiệm tên lửa đạn đạo của Trung Quốc, phóng vệ tinh, thu
thập các dữ liệu vệ tinh gồm các thông tin hình ảnh (PHOTINT), thông tin điện tử
(ELINT) và các thông tin khác liên quan đến Trung Quốc.
Trong khuôn
khổ một hiệp ước về nghe lén có từ thời chiến tranh lạnh, các hoạt động này là
một phần của hệ thống ECHELON đã gây nhiều tranh cãi tại châu Âu. Người ta lo
ngại nhà nước can thiệp vào cuộc sống riêng của các công dân bình thường – nghe
những cuộc đối thoại riêng tư, chuyển hướng fax và email…
Bảng cấm trên đường vào căn cứ Pine Gap |
Nhưng ở đây,
giữa vùng sa mạc nước Úc, các kỹ thuật viên không hề quan tâm đến: cả ngày lẫn
đêm họ phải giám sát một Trung Quốc đỏ, được xem là một chế độ độc tài, gây lo
ngại vì lớn mạnh về quân sự và hung hăng trong kinh tế. Alice Springs là một
chọn lựa tốt, theo các chuyên gia. Vùng đất hẻo lánh này, nơi mà du khách có thể
gặp gỡ hoặc thổ dân, hoặc các kỹ sư nghe lén một cách vô tình, vốn có truyền
thống về bắt sóng thông tin, và bản vẽ địa hình cũng rất sẵn.
Năm 1870
Charles Todd đã cho xây dựng một trạm điện tín, nối vùng sa mạc này với Adélaide
ở duyên hải phía nam và Darwin ở phía bắc, và xa hơn nữa, với vùng còn lại của
đế quốc Anh – bắt đầu bằng Hồng Kông và các trạm của Anh ở Tientsin và Thượng
Hải. Cùng trong thời kỳ Victoria này, những người Trung Quốc từ Phúc Kiến đã đổ
xô đến đây – những người tìm vàng, như cái tên Chinaman’s Creek, khi ra
khỏi Alice Springs, trên đường dẫn đến căn cứ bí mật của DSD-NSA.
Nhưng chính
những người Hoa mới đến mà cơ quan phản gián phải lo theo dõi. Australian
Security Intelligence Organisation (ASIO) tin rằng trong số cộng đồng nhập
cư năng động này, có một vài “con cá ở đáy biển”, các nhân viên tình báo của Bộ
Công an phụ trách tuyển mộ một kỹ sư, một nhà ngôn ngữ học gốc Hoa, dẫn dụ họ
bằng cách nhắc nhở rằng họ thuộc cộng đồng Hoa kiều rộng lớn.
"Nội bất xuất, ngoại bất nhập" |
Căn cứ Pine
Gap cũng là một chọn lựa về kỹ thuật, theo như giải thích của James Bamford, nhà
sử học của NSA. Bởi vì trong thập niên 60, vệ tinh bắt được những dữ liệu chưa
mã hóa và gởi trực tiếp đến căn cứ, tránh việc một chiếc tàu gián điệp lại bắt
được những tín hiệu này, giúp Matxcơva biết được đã bị lấy trộm những gì (Trung
Quốc hiện chưa đủ năng lực kỹ thuật để chơi trò này, nhưng không lâu nữa sẽ đạt
được).
Cũng giống
như Alice Springs nằm cách xa mọi thứ, tại trung tâm đất nước Úc đồng thời là
châu lục, những con tàu gián điệp du hành quá xa không thể nhận dạng được các
tín hiệu xa xôi, trong nghề gọi là footprint. Tiếp theo ở Pine Gap, các
kỹ sư mã hóa những gì nhận được rồi gởi đến trung tâm của NSA ở Fort Meade,
thông qua một vệ tinh khác.
Sau khi đảng
Lao động của Gough Whitlam thắng cử năm 1972, rồi đến việc công nhận Trung Quốc
về ngoại giao, CIA cho rằng chính quyền Canberra sẽ tiến hành đóng cửa Pine Gap.
Cả một thảm họa đối với cộng đồng tình báo Anh-Mỹ! Theodore Shackley, trưởng
phân bộ Đông Á của CIA thậm chí còn khuyến khích các hoạt động gây mất ổn định
chính phủ, tương tự tại Anh với chính phủ Harold Wilson. Trong các nền dân chủ,
ngành tình báo tôn trọng hệ thống và Hiến pháp, khi đặc quyền không bị ảnh
hưởng. Một số người lãnh đạo ngành này lại ước được như ở Trung Quốc: ít nhất
tại Bắc Kinh, cơ quan tình báo có đầy quyền lực, phối hợp với đảng và quân
đội…
Nhưng rốt
cuộc Pine Gap lại tiếp tục hoạt động, và chứng tỏ sự hữu ích của mình trong một
cuộc chiến bí mật. Nhờ căn cứ này mà Canberra biết được vụ Indonesia tràn vào
Đông Timor năm 1975, nghe được những trao đổi trong quân đội Trung Quốc, hay nếu
không giải mã được thì cũng nghiên cứu được những luồng thông tin ý
nghĩa.
Bằng chứng:
Ngày 17/02/1979, Pine Gap là nơi đầu tiên phát hiện ra
việc quân Trung Quốc xâm lăng Việt Nam. Tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi)
- cựu lãnh đạo các “tình nguyện quân” Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên,
chỉ huy cuộc tiến công xâm lược.
Các liên lạc
của phía Trung Quốc đã bị các tàu Nga gây nhiễu – Matxcơva đã ký với Hà Nội một
hiệp định hợp tác quốc phòng năm trước đó. Mục đích của cuộc chiến là đánh tập
hậu Việt Nam, trong khi người Việt đã tấn công chớp nhoáng Cam Bốt, bắt được
nhiều ngàn cố vấn Trung Quốc của bọn Khmer Đỏ.
Trận chiến
kết thúc bằng một thất bại vô cùng nhục nhã cho Quân đội Nhân dân Trung Quốc. Và
là một cái tát đau đớn cho Đặng Tiểu Bình, lên nắm quyền trở lại sau những hỗn
loạn của Cách mạng Văn hóa. Nhưng ông Đặng thấp lùn với đôi má phính luôn biết
cách bật dậy. Rút ra các bài học từ cú rờ-ve này, ông ta đề nghị cải cách sâu
rộng quân đội, bắt đầu từ cơ quan tình báo và chiến tranh trên
mạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001