Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012

George Friedman - Bầu cử, ghế tổng thống và chính sách đối ngoại Hoa Kỳ
George Friedman
Nguyễn Công Huân chuyển ngữ
Chiếc ghế tổng thống Mỹ được thiết kế để mang lại thất vọng. Mỗi ứng viên phải hứa hẹn đem lại cho người dân những điều vượt quá quyền lực của mình. Chẳng ai tưởng tượng được một ứng cử viên có thể trúng cử bằng cách nhấn mạnh rằng nội các của mình có quá ít quyền lực, và vì thế người đi bầu đừng trông đợi nhiều ở ông ta. Và như thế các ứng cử viên luôn hứa hẹn những chương trình tuyệt vời và mang tính thay đổi toàn diện. Những gì người chiến thắng có thể cung cấp thực sự phụ thuộc vào các thể chế khác, các quốc gia khác và thực tế cho phép ông ta. Mặc dù khoảng cách giữa lời hứa và thực tế sẽ phá hủy những ứng cử viên ba hoa, đó là điều mà những nhà lập quốc của chúng ta tin rằng sẽ bảo vệ nền cộng hòa. Họ không tin vào chính phủ nói chung và văn phòng thủ tướng nói riêng.
Tất cả các thể chế như Quốc hội, Tòa án tối cao và Hội đồng Dự trữ Liên bang đều có khả năng hạn chế quyền lực của tổng thống trong nước. Điều này cộng với quyền tự chủ của mỗi bang đã trói tay trói chân tổng thống rất chặt, đúng như những nhà lập quốc của chúng ta mong muốn. Để đạt được bất cứ điều gì đáng kể, tổng thống phải tạo ra một liên minh quyền lợi chính trị trong các ngành khác của chính phủ để đưa ra quyết định. Ấy thế mà cùng một lúc – đây chính là một nghịch lý chính của văn hóa chính trị Mỹ - ghế tổng thống được coi là một thể chế mang tính quyết định và người nắm giữ văn phòng tổng thống được coi là người giữ vị trí quan trọng hơn cả.

Những hạn chế trong vũ đài Đối Ngoại

Tổng thống có quyền nhiều hơn đối với chính sách đối ngoại, nhưng chỉ hơn chút thôi. Ông ta bị mắc kẹt bởi dư luận xã hội, bởi sự can thiệp của Quốc hội, và trên tất cả, bởi thực tế của địa chính trị. Vì lý do đó, trong khi tổng thống George W. Bush tranh luận chống lại chính sách “xây dựng đất nước” (nation-building) trong chiến dịch tranh cử năm 2000, đến khi ngồi vào ghế tổng thống, ông ta lại chỉ làm mỗi việc này (và lãnh nhận chính xác hậu quả mà ông đã cảnh báo trong chiến dịch tranh cử). Và bất chấp ông cố gắng mô hình hóa chính sách ngoại giao của mình trong chiến dịch tranh cử thứ nhất thế nào, sự kiện 9/11 đã thay đổi hoàn toàn các dự định này của tổng thống.
Tương tự như vậy, Barack Obama vận động tranh cử bằng lời hứa tái xác định mối quan hệ của Mỹ với cả châu Âu và thế giới Hồi giáo. Cả hai thứ này đều không xảy ra. Mọi người đều thấy và ghi nhận rằng chính sách ngoại giao thời Obama chả khác mấy so với thời George W. Bush. Điều này không có nghĩa là Obama không có ý định thực hiện một chính sách đối ngoại khác, mà đơn giản là những gì tổng thống muốn và những gì thực sự xảy ra là việc rất khác nhau.
Sức mạnh thường được gán cho vị trí tổng thống Mỹ bị thổi phồng. Nhưng ngay cả như vậy, mọi người - bao gồm cả các nhà lãnh đạo - trên toàn thế giới vẫn tin vào sức mạnh đó một cách nghiêm túc. Họ muốn tin rằng một người nào đó kiểm soát những gì đang xảy ra. Cảm giác rằng không ai có thể kiểm soát được một thứ to lớn như một quốc gia, hay một thế giới, là một cảm giác đáng sợ. Lý thuyết âm mưu giúp người ta giải tỏa cảm giác khó chịu này, bởi người ta cho rằng một khi những kẻ xấu đang điều hành thế giới, thì chí ít là thế giới vẫn có ai đó điều hành. Tất nhiên, còn có một quan điểm thay thế khác, đó là trong khi không ai điều hành thế giới, thì các hành vi của nó vẫn có thể dự đoán được, miễn là bạn hiểu được các lực lượng phi cá nhân hướng dẫn nó. Đây là một khái niệm khó chịu và không thể chấp nhận được cho những người muốn tạo sự khác biệt trên thế giới. Đối với những người như vậy, cuộc đua tổng thống - như tranh chấp chính trị trên toàn thế giới - có ý nghĩa lớn.
Nói cho cùng, tổng thống không có khả năng thay đổi chính sách đối ngoại của Mỹ. Thay vào đó, lợi ích của nước Mỹ, cấu trúc của thế giới và các giới hạn của quyền lực là động lực xác định chính sách đối ngoại.
Xét theo nghĩa rộng nhất, chính sách đối ngoại hiện tại của Mỹ đã được định hình và sử dụng từ khoảng một thế kỷ nay. Trong thời gian đó, Hoa Kỳ đã tìm cách để cân bằng và tái cân bằng hệ thống quốc tế để kiềm chế các mối đe dọa tiềm năng ở bán cầu phía Đông, vốn đã bị tàn phá bởi chiến tranh. Nửa tây bán cầu nói chung, và Bắc Mỹ nói riêng, không chịu ảnh hưởng. Không có tổng thống nào dám nhận rủi roc ho phép xung đột đến Bắc Mỹ.
Ở một mức độ, quyết định của tổng thống là có giá trị: Những chiến lược mà họ theo đuổi nhằm giữ cho nửa tây bán cầu khỏi bị xung đột là có giá trị. Trong Thế chiến lần thứ nhất, Hoa Kỳ đã can thiệp khi quân Đức bắt đầu đe dọa đường hàng hải qua Atlantic, và chỉ vài tuần sau sự sụp đổ của Nga Hoàng. Vào thời điểm này của cuộc chiến, hệ thống Châu Âu dường như đã mất cân bằng, và Đức trở thành lực lượng thống trị. Vào Thế chiến lần thứ hai, Hoa Kỳ cũng theo đuổi một chiến lược tương tự, cho phép cả Châu Âu lẫn Châu Á trở nên bất ổn trước khi can thiệp. Điều này được gọi là chủ nghĩa biệt lập (isolationism), nhưng đó là một mô tả đơn giản của chiến lược dựa vào sự cân bằng quyền lực để tự điều chỉnh và chỉ can thiệp khi đó là giải pháp cuối cùng.
Trong cuộc chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đã đón nhận chiến lược ngược lại, đó là chủ động duy trì cân bằng quyền lực ở bán cầu phía Đông qua tiến trình can thiệp liên tục. Chúng ta cần nhớ rằng số lính Mỹ chết dưới thời chiến tranh lạnh là 100 ngàn (bao gồm Việt Nam, Triều Tiên và một số vùng xung đột nhỏ khác), một con số không kém so với 116 ngàn lính Mỹ chết trong Thế chiến lần thứ nhất, điều này cho thấy chiến tranh lạnh thực ra không lạnh, mà là một cuộc đối đầu đầy bạo lực.
Quyết định chủ động duy trì cân bằng quyền lực là một phản ứng trước những thất bại về chính sách ghi nhận ở Thế chiến lần thứ hai. Lập luận rằng can thiệp sớm có lẽ có thể ngăn cản sự sụp đổ cân bằng quyền lực ở Châu Âu, có lẽ đã chặn được chính sách phiu lưu của Nhật Bản, và cuối cùng là ít người chết hơn là con số 400 ngàn người Mỹ bị tổn thương trong cuộc chiến. Một đồng thuận sau thế chiến lần thứ hai rằng chủ động cân bằng quyền lực theo hướng “chủ nghĩa quốc tế” là biện pháp tốt hơn so với việc phó mặc cho tự nhiên tự cân bằng chính mình. Cuộc chiến tranh lạnh đã được chiến đấu theo chiến lược này.

Đồng thuận Chiến tranh Lạnh tan vỡ

Giữa năm 1948 và chiến tranh Việt Nam, sự đồng thuận này được duy trì. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, tuy nhiên, một quan điểm nổi lên trong Đảng Dân chủ rằng chính chiến lược chủ động cân bằng quyền lực đã đem lại mất ổn định ở bán cầu phía Đông, gây ra xung đột không cần thiết và do đó nước Mỹ bị các quốc gia khác xa lánh. Quan điểm này cho rằng chủ động cân bằng tăng khả năng xung đột, làm cho các liên minh chống Mỹ hình thành, và quan trọng nhất, cường điệu hóa nguy cơ mất cân bằng của hệ thống cũng như hậu quả của sự mất cân bằng này. Việt Nam được đưa ra như là một ví dụ về cân bằng quá mức.
Ý kiến phản biện cho rằng trong khi chiến lược chủ động cân bằng có thể tạo ra một số xung đột, thế chiến lần thứ nhất và lần thứ hai là minh chứng cho hậu quả của việc để mặc cho cán cân quyền lực tự đi theo con đường của mình. Quan điểm này cho rằng thất bại của Hoa Kỳ trong việc tham gia một cách chủ động, thậm chí là dùng vũ lực, để cân bằng với Liên Xô sẽ làm tăng khả năng xung đột trên những phương diện tồi tệ nhất cho Hoa Kỳ. Như thế, ngay cả trong trường hợp Việt Nam, chủ động can thiệp sẽ tránh được hậu quả tồi tệ nhất. Tranh luận giữa những người muốn hệ thống quốc tế tự điều chỉnh và những người muốn Hoa Kỳ phải chủ động điều khiển sự cân bằng đã diễn ra từ thời George McGovern tranh cử với Richard Nixon vào năm 1972.
Nếu chúng ta xem xét cẩn thận các phát biểu của Obama trong chiến dịch tranh cử 2008 và những nỗ lực của ông khi ngồi ở tòa Bạch Ốc, chúng ta có thể thấy ông đang cố gắng dịch chuyển chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ ra khỏi hướng chủ động can thiệp, và mong muốn để các cán cân quyền lực trong khu vực tự duy trì bản thân. Ông ta đã không di chuyển đột ngột sang chính sách này, như nhiều người ủng hộ ông trông đợi. Thay vào đó, ông ta từ từ tiến tới nó, đồng thời gia tăng nỗ lực của Hoa Kỳ ở Afghanistan, trong khi giảm bớt sự can thiệp ở các khu vực khác ở trong giới hạn mà hệ thống chính trị của Mỹ và các tiến trình toàn cầu cho phép.
Những nỗ lực của Obama để di chuyển ra khỏi chiến lược chủ động cân bằng đã được nhìn thấy ở châu Âu, nơi ông chỉ có những nỗ lực nhỏ để ổn định tình hình kinh tế, và ở vùng Viễn Đông, nơi mà không có nhiều thay đổi ngoại trừ một số tái định vị quân sự nhỏ lẻ. Syria cũng là nơi thể hiện xu hướng để cho cán cân quyền lực trong khu vực tự điều chỉnh của Obama. Sự tồn tại của chế độ tổng thống Syria Bashar al Assad sẽ gây ra mất cân bằng trong khu vực, tạo ra một không gian ảnh hưởng lớn hơn đáng kể cho Iran. Chiến lược của Obama là không can thiệp ngoài cung cấp hỗ trợ hậu cần hạn chế cho phe đối lập, nhưng để cho sự cân bằng trong khu vực tự đối phó với vấn đề này. Obama đã trông đợi ở Ảrập Xêút và Thổ Nhĩ Kỳ để ngăn chặn Iran bằng cách làm suy yếu al Assad, không phải vì Hoa Kỳ yêu cầu họ làm như vậy, mà bởi lợi ích của chính họ.
Quan điểm của Obama được xây dựng dựa trên những chỉ trích đối với chiến lược chủ động cân bằng thời chiến tranh lạnh, những người cho rằng khi không có một cường quốc lớn ở lục địa Âu Á đe dọa hòa bình của nửa bán cầu này, sự can thiệp của Hoa Kỳ chỉ đem lại những liên minh chống Hoa Kỳ và đó chính là mối lo ngại của Hoa Kỳ khi nó quyết định chủ động cân bằng quyền lực. Nói cách khác, Obama không tin rằng các bài học kinh nghiệm từ thế chiến lần thứ nhất và lần thứ hai có thể áp dụng cho hệ thống toàn cầu hiện nay, và như ở Syria, quyền lực toàn cầu phải để mặc cho quyền lực trong khu vực tự cân bằng.

Romney và chủ động cân bằng

Romney có quan điểm cho rằng chủ động cân bằng là cần thiết. Trong trường hợp của Syria, Romney tranh luận rằng bằng cách cho phép hệ thống tự xử lý vấn đề, Obama đã cho phép Iran thăm dò và rút lui mà không phải đón nhận hậu quả nào, và không cung cấp một giải pháp thực sự cho vấn đề cốt lõi. Vấn đề cốt lõi là Mỹ rút quân khỏi Iraq đã để lại một khoảng trống cho Iran - hoặc sự hỗn loạn – nảy nở, và rằng tình hình sẽ sớm trở nên đe doạn và bất ổn đến mức Hoa Kỳ sẽ phải can thiệp. Để khắc phục điều này, Romney đòi hỏi trong chuyến thăm Israel một giải pháp quyết định cho vấn đề Iran, không chỉ đơn thuần là kiềm chế Iran.
Romney cũng không đồng ý với quan điểm của Obama rằng không tồn tại một thế lực bá quyền đáng kể ở lục địa Á-Âu đáng để Hoa Kỳ phải lo lắng. Romney đã nêu lên sự nổi lên của nước Nga như là một mối đe dọa tiềm năng đối với lợi ích của Mỹ đòi hỏi hành động của Mỹ trên một quy mô đáng kể. Ông cũng lập luận rằng trong trường hợp Hoa Kỳ bỗng dưng xác định rằng Trung Quốc đại diện cho một mối đe dọa, thì mức độ lực lượng hiện tại được sử dụng để cân bằng nó sẽ là không đủ. Đối với Romney, những bài học của thế chiến lần thứ nhất và lần thứ hai và chiến tranh lạnh rất khớp nhau. Để cho cân bằng quyền lực tự đi con đường của nó sẽ chỉ trì hoãn sự can thiệp của Hoa Kỳ, và đem lại một giá đắt hơn. Theo ông, chiến tranh lạnh kết thúc như nó đã kết thúc chính là bởi có sự can thiệp chủ động của Hoa Kỳ, bao gồm cả tham chiến khi cần thiết. Nếu không có sự chủ động này, chiến tranh lạnh có thể đã kết thúc khác đi và cái giá mà Hoa Kỳ phải trả có thể đã cao hơn.
Tôi cũng có cảm giác rằng Romney ít nhạy cảm với dư luận toàn cầu hơn so với Obama. Romney sẽ lưu ý mọi người rằng Obam đã thất bại trong việc gây ảnh hưởng lên dư luận toàn cầu, mặc dù có những trông đợi rất lớn trên thế giới vào nhiệm kỳ tổng thống của Obama. Theo Romney thì đó là bởi đáp ứng mong muốn của thế giới sẽ là điều không thể, vì chúng là mâu thuẫn. Ví dụ, trước khi thế chiến lần thứ hai, dư luận thế giới bên ngoài khối Trục lên án Hoa Kỳ vì đã không can thiệp. Nhưng đến thời chiến tranh lạnh và cuộc chiến tranh thánh chiến, họ lại lên án Hoa Kỳ vì đã can thiệp. Đối với Romney, sự lên án của thế giới không thể là một hướng dẫn cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong khi Obama sẽ tranh luận rằng tinh thần chống Mỹ của thế giới là nhiên liệu cho chủ nghĩa khủng bố và các liên minh chống Mỹ, Romney đáp lại rằng ý thức hệ và lợi ích, chứ không phải tinh thần, sẽ khiến bất kỳ quốc gia nào chống lại quyền lực hàng đầu của thế giới. Cố gắng xoa dịu tình cảm do đó sẽ chuyển hướng chính sách của Mỹ ra xa con đường thực tế.

Hứa hẹn trong chiến dịch tranh cử và thực tế

Tôi đã cố gắng đưa ra những lập luận mà hai bên sẽ sử dụng nếu họ phải đối mặt trong một chiến dịch tranh cử, nơi mà mục tiêu của họ không phải là để lựa chọn một chính sách ngoại giao mạch lạc, mà đơn giản chỉ để làm bẽ mặt đối phương và kiếm phiếu. Trong khi không có gì cho thấy đây là một con đường thiếu hiệu quả của một ứng cử viên tổng thống, nó buộc chúng ta phải tìm kiếm các hành động và gợi ý để xác định vị trí thực tế của họ. Căn cứ vào hành động và gợi ý đó, tôi sẽ lập luận rằng những bất đồng của hai ứng cử viên về chính sách đối ngoại cuối cùng chỉ là “dựa vào cân bằng khu vực” hay “chủ động cân bằng”.
Nhưng không có nghĩa tôi kết luận rằng đây là lựa chọn mà đất nước chúng ta phải đối mặt với. Như tôi đã tranh luận ngay từ đầu, tổng thống Mỹ là thể chế yếu kém, bất chấp uy tín rất lớn của nó. Nó bị hạn chế bởi hiến pháp, bởi chính trị và bởi các hành động của người khác. Nếu Nhật Bản không tấn công Hoa Kỳ, người ta không chắc rằng Franklin Roosevelt đã có sự tự do để làm những gì ông đã làm. Nếu al Qaeda không tấn công vụ 9/11, tôi nghĩ rằng nhiệm kỳ tổng thống của George W. Bush sẽ rất khác.
Thế giới hình thành chính sách đối ngoại của Mỹ. Thế giới càng tích cực hơn, thì càng ít lựa chọn hơn cho vị trí tổng thống, cũng như những lựa chọn này càng nhỏ bé hơn. Obama đã tìm cách để tạo ra một không gian cho Hoa Kỳ có thể thoái lui khỏi chiến lược chủ động cân bằng. Làm như thế nằm trong quền lực hợp hiến của ông, và cho đến nay vẫn được hệ thống chính trị chấp nhận. Nhưng liệu thể chế quốc tế có cho phép ông đi tiếp con đường này hay không là cả một câu hỏi ngỏ. Jimmy Carter đã có một tầm nhìn tương tự, nhưng cuộc Cách mạng Iran và cuộc xâm lược của Liên Xô ở Afghanistan đã làm đắm nó. George W. Bush đã nhìn thấy sự phản đối của mình với chính sách xây dựng đất nước bị sự kiện 9/11 nhấn chìm, và nhiệm kỳ tổng thống của ông bị nghiền nát dưới sức nặng của thứ mà ông muốn tránh.
Tổng thống làm nên lịch sử, nhưng không phải dựa vào ý chí của họ. Họ bị ràng buộc và xô đẩy bởi thực tiễn. Khi chọn lựa một vị tổng thống, cần nhớ rằng các ứng cử viên sẽ nói tất cả những gì cần nói để được bầu lên, nhưng ngay cả khi họ nói thật mong muốn của mình, thì cũng chưa chắc họ có quyền lực để thực hiện chúng. Lựa chọn không nằm trong tay họ. Có hai đường lối ngoại giao khá rõ trong cuộc bầu cử lần này. Thế nhưng mức độ ảnh hưởng của đường lối chiến thắng lại không rõ ràng, mặc dù biết khuynh hướng của các ứng cử viên tổng thống, cho dù họ có hay không có khả năng thực hiện chúng, cũng có một số giá trị nhất định.
Xét cho cùng, vị trí tổng thống Mỹ được thiết kế để hạn chế quyền lực điều hành của ông ta. Ông ta có thể nhiều nhất là dẫn dắt, và nhiều khi ngay cả dẫn dắt cũng bị hạn chế. Đặt vị trí tổng thống trong góc nhìn này cho phép chúng ta duy trì cuộc tranh luận của mình trong đúng bối cảnh của nó.
Admin gửi hôm Thứ Ba, 31/07/2012 
nguồn:http://danluan.org/node/13607
-------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001