Hồ
Phú Bông
Gấp
cuốn truyện dày hơn 400 trang, cỡ chữ 11, tôi ngồi im
thật lâu. Bên ngoài đang mưa. Qua khung cửa trời xám
xịt. Một buổi sáng xám xịt. Dư âm của cuốn truyện
cũng xám xịt. Cái xám xịt bắt đầu của một cơn bão
lê thê... trong tâm hồn!
Những
ai sinh vào thời thập niên 1940, dù bên nầy hay bên kia,
quốc gia hay kháng chiến đọc cũng thấy chút vương vướng
chính mình trong đó. Là khởi đầu của Việt Minh. Là
khởi đầu của Cách Mạng. Là khởi đầu của Kháng
Chiến. Là khởi đầu của thức tỉnh.
Yêu
nước. Nhiệt huyết. Tin tưởng. Ảo tưởng. Rồi,
tuyệt vọng. Đến, bị hủy diệt!
Bối
cảnh là những trí thức trẻ yêu nước, từ bỏ thị
thành, từ bỏ mộng công danh theo thói lề cũ để đi
theo tiếng gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Việt
Minh. Đi theo tiếng gọi... có các danh xưng lạ lẫm “vùng
tự do”, “vùng giải phóng”, “vùng bị chiếm”,
“vùng tề”, “tiểu tư sản”, “tạch tạch sè”,
“dinh tê”!… Các nơi thuộc chính quyền Quốc gia kiểm
soát đều là “vùng bị chiếm”. Chính quyền Quốc gia
là “tề”, là “Việt gian”. Ranh giới đã rõ ràng:
Một bên là “Tự Do”, một bên là “Bị Chiếm”, một
bên là “Kháng Chiến”, một bên là “Việt Gian”, như
hai mảng màu trắng/đen tương phản. Rạch ròi, sinh/tử.
Bước qua đường ranh, hoặc là yêu nước, hoặc phản
động! Con người bỗng chốc trở thành mảng màu đơn
giản không tư duy. Không còn là những gam màu pha trộn
như những dằn vặt nội tâm. Từ ranh giới đó, đơn
giản chỉ còn lại là Kháng Chiến hay Kẻ Thù. Mà kẻ
thù thì phải giết. “Thề phanh thây uống máu quân
thù!” [2] Giết lầm còn hơn bỏ sót! Còn Kháng Chiến?
Thì phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận tất cả. Cả
những cái khuất tất, phi đạo lý với phương châm lấy
cứu cánh biện minh cho phương tiện! Ai tự đặt câu hỏi
về những hành động man rợ, những điều tai nghe, mắt
thấy, phân vân, tự dằn vặt nội tâm giữa đúng/sai,..
là khởi đầu của bị nghi ngờ. Mà bị nghi ngờ là
bước đầu bị cô lập. Từ bị cô lập đến bản án
“phản động” là khoảng cách gần trong gang tấc! Kết
quả của phản động dĩ nhiên là cái chết!
Theo
Kháng Chiến là vâng phục. Vâng phục tuyệt đối. Nghĩ
lại, xét lại... đều là “đầu óc cá nhân chủ nghĩa”.
Là “đầu óc tiểu tư sản” tạch tạch sè. Nhắm mắt
bịt tai mới là hy sinh. Hy sinh cho đến cuối cùng! Hy
sinh cho ai? Cho cái mà người ta gọi là Kháng Chiến!
Nhưng Kháng Chiến là ai? Kháng chiến cho ai? Thật mơ hồ,
không thể nhận diện! Những khuôn mặt lãnh đạo Kháng
Chiến bao giờ cũng thật lạnh lùng. Là bóng tối mông
mênh. Bóng tối trùm khuất, bao phủ. Là bóng ma, là ông
kẹ chuyên lùng bắt trẻ em! Và bối cảnh là rừng rậm,
miền ma thiêng chướng khí!
Những
người đã tham gia kháng chiến khi có chút uy tín, được
tin tưởng từ đồng đội là những người không còn lối
quay lại. Con đường chỉ một chiều! Quay lại là phản
bội. Quay lại là Việt gian. Quay lại là phản động!
Các
nhân vật trong tập truyện, đều thoát ly đi kháng chiến
vì hoài bão. Họ thuộc thành phần trí thức trẻ, tiêu
biểu, trong sáng nhưng cuối cùng đều gặp nhau tại Trung
tâm Cải hối Tây Hạ, thực tế là Trại tù Khổ sai Tây
Hạ!
Lương,
thiên về văn học, triết lý với những mộng mị (trg.
284) có vợ 2 con. Gia đình anh có thể về thành nhưng anh
chọn ở lại quê tham gia kháng chiến. Ở lại để được
giao dạy lớp bình dân học vụ. Khi con bị bệnh nặng,
đói, không thuốc men.., Lương sắp xếp để vợ con về
Huế chữa bệnh và sẽ trở ra. Vì gốc tích Lương thuộc
thành phần địa chủ, phú hào nên không bao giờ được
trọng dụng, lại thêm vợ con về thành nên bị nghi ngờ.
Buổi chiều Lương lang thang dọc bờ sông mà bên kia là
đồn Tây, miên man suy nghĩ vì thương nhớ vợ con... Ngày
hôm sau, bỗng giặc Pháp sang sông tấn công, càn quét xóm
làng, anh bị nghi làm gián điệp! Cuối cùng là tù mà
không thể đối chất. Với tâm lý dao động, tuyệt vọng
nên Lương phải tìm cách vượt thoát. Kháng Chiến biết
điều đó nên tạo điều kiện để Lương vượt ngục.
Sụp bẫy, Lương bị bắn chết.
Trần,
Huỳnh bạn thân của Lương chứng kiến. “Anh
cúi xuống, ánh lửa bập bùng trên khuôn mặt người chết
gây một cảm giác sống động. Đột nhiên anh đọc thấy
trên khuôn mặt đó những chuỗi ngày bình yên thơ mộng
xa xa...” “... anh quỳ bên Lương, nắm chặt bàn tay cứng
lạnh, hơi lạnh này lạ nhỉ… cái lạnh của người
chết không giống một hơi lạnh nào khác...” (trg
288)
Cái
chết của Lương vì chính Lương, không phải vì Kháng
Chiến!
Huỳnh
đánh trận bị thương nhưng Kháng Chiến bỏ rơi, lạc và
trú ẩn trong một gia đình để chữa trị, lại bị nghi
là đào thoát theo địch! Mặc dầu thế, với trăn trở
tâm huyết của một trí thức, biết nông dân bị tắm
máu trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc
và kế hoạch đó có thể sẽ áp dụng tại miền Trung
nên Huỳnh viết điều trần phản đối. Trần can ngăn
được đôi lần nhưng cuối cùng Huỳnh cũng thực hiện
ý định vì nghĩ rằng đây là điều cần phải lên tiếng
để kháng chiến khỏi chệch hướng! Kết quả, dĩ nhiên
vì một lý do nào đó, Huỳnh vào tù. Trại tù đặt
Huỳnh vào trạng thái luôn luôn bị căng thẳng tinh thần
vì biết Huỳnh có bệnh tim bẩm sinh. Cứ đêm đêm bất
ngờ mở khóa vào đánh thức Huỳnh, gọi đi làm việc!
Nhiều người trước đó đã bị gọi đi như vậy mà
không bao giờ trở lại! Mỗi lần như thế Huỳnh bị
sốc!
Trong
cơn bệnh Huỳnh muốn được nắm lấy bàn tay Trần: “..
Bàn tay mày mềm và ấm lắm, tao muốn nắm lấy nó thế
thôi.”
(trg 297) Tình bạn trong cùng quẫn, đơn sơ chỉ có vậy,
nhưng là cả một sự san sẻ, là điểm tựa tinh thần!
Huỳnh nhớ đến bàn tay cứng lạnh của Lương khi chôn,
khác hẳn với bàn tay mềm ấm của Trần, là một trao
gửi thiết tha! Và, cuối cùng cái chết đã đến. Huỳnh
chết vì cơn tim khi bị gọi đi bất ngờ! (trg. 359)
Như
thế cái chết của Huỳnh là tự nhiên, “chết vì bệnh
tim!”, Kháng Chiến không liên quan!
Trần,
viết văn, làm thơ, làm báo tuyên truyền. Nhờ đi nhiều,
tiếp xúc nhiều, lại tận mắt chứng kiến việc xử tử
một cô gái trẻ “lấy Tây” là “Việt gian” bị bắt
vì về “vùng tự do” thăm mẹ. Người thi hành án tử
hình đã dùng 3 mũi tên tẩm thuốc độc của “Mọi”
để thí nghiệm mức độ công hiệu (trg 23). Hành động
xử tử “Việt gian lấy Tây” đó là khởi đầu trăn
trở của Trần trên bước đường kháng chiến! Mẹ Trần
ở Huế, sắp xếp hôn nhân cho anh với một người con
gái xứng đôi nhưng Trần cứ lần lữa! Trần bị bệnh
nặng được Hiếu chăm sóc hết lòng với nhiều xúc động
nên tình yêu tự nhiên đến. Hiếu, một thiếu phụ xấu
xí, mắt lé và đã có 2 con với người chồng trước,
theo kháng chiến tử trận. Kháng Chiến đang tận dụng
tiếp hoàn cảnh của Hiếu để công tác về thành mà
không hề đoái hoài đến hoàn cảnh mẹ góa con côi.
Trần yêu và làm đơn xin cưới Hiếu nhưng không được
chấp thuận! Trần và Hiếu bỗng là cái gai trong mắt
Kháng Chiến để cuối cùng Trần bị đẩy vào tù trong
lúc Hiếu đã mang thai!
Trần
hỏi ông Châu, giám ngục nhà tù Tây Hạ, khi vừa bị gọi
vào: “Huỳnh
chết rồi bây giờ đến lượt tôi phải không anh Châu?”
(trg.
364)
Mang
bụng chửa đi thăm nuôi Trần, Hiếu bị “trượt cầu
treo” vì trời mưa, chết trôi sông cả tuần không ai
biết (trg 365). Ông Châu thông báo cho Trần là “chôn
cất chị tử tế ở cánh đồng phía bắc làng Nguyệt,
ngay trên gò có cây bàng đó”!
“Trần
biết rõ cái gò đất có cây bàng, nơi người ta chôn vùi
nàng và con chàng ở đó. Nó nằm chơ vơ giữa cánh đồng
rộng mênh mông bên cạnh giòng sông, gần đồn Tây làng
Nguyệt”
(trg 367).
Do
lệnh trên, ông Châu cho Trần đi gặp Đoàn Việt, giám
đốc sở công an Liên Khu. Tại đây Trần được trả tự
do. Đoàn Việt bóng gió Trần có thể “dinh tê” về
thành. Được tự do nhưng Trần tìm về nhà Hiếu. Tình
cờ gặp lại Quý, đệ tử của Trần trước kia, với bà
già Tư, người buôn thúng bán bưng nghèo khó nhưng có tấm
lòng bác ái đang chăm sóc 2 con mồ côi của Hiếu (trg
380). Trần sắp xếp để bà Tư và hai con Hiếu về Huế
sống với mẹ anh.
Dù
bị đầy đọa nhưng vì lý tưởng nên Trần vẫn không
“dinh tê” như Đoàn Việt đã nói.
30
Tết, Trần dự tính với vài người thân quen: “Thôi
hay là anh đề nghị như thế nầy, anh em mình chung nhau mở
một cái quán, chia ra làm hai gian, một bên hai cô sẽ bán
bún bò Huế, còn một bên kia thì anh hớt tóc. Anh nghĩ
đó là cách tốt nhất cho những người đi kháng chiến
bị bỏ rơi như chúng mình. Hai cô nghĩ sao?”
(trg 397).
Tối
đó, Trần bơi qua sông viếng mộ Hiếu và con anh, nơi anh
đã được ông giám ngục Châu ân cần chỉ điểm. Và,
mìn nổ.
“Thông
báo chính thức của Tỉnh bộ Thừa Thiên
Nguyễn
Trần, nguyên chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Quân Đội Nhân
Dân, trước đây đã có hành động phản cách mạng, phản
nhân dân, vừa được chính phủ khoan hồng phóng thích ra
khỏi trại Cải hối Tây Hạ sau thời gian học tập cải
huấn.
Đêm
giao thừa rạng ngày mộng một Tết, tên Nguyễn Trần đã
bỏ mạng trên cánh đồng làng Nguyệt vì dẫm phải mìn
trong khi y đang tìm đường đi đến đồn Pháp gần đó
để toan đầu hàng giặc” (trg
405).
Với
Kháng Chiến thì mỗi cái chết của kẻ bị tình nghi đều
do nạn nhân tự gây ra, lỗi hoàn toàn thuộc về cá nhân,
như cái chết của Lương, của Huỳnh, của Hiếu… Và,
quyết định trả tự do cho Trần là Kháng Chiến đã sòng
phẳng, “vô tư”! Mìn nổ là tự Trần tìm đến cái
chết!
Vì
uy tín của Trần nên Tỉnh bộ Thừa Thiên phải ra thông
báo “y
đang tìm đường đến đồn Pháp gần đó để toan đầu
hàng giặc”
mong giải tỏa dư luận!
Ai
làm Hiếu đang mang thai trượt chân xuống sông? Ai gài
mìn nơi mộ mẹ con Hiếu?
Giết
những người có uy tín trong hàng ngũ kháng chiến mà cộng
sản giấu được bàn tay vấy máu không phải chỉ trong
thời gian chiến tranh mà mãi tận cho đến bây giờ!
Ai
dám bảo những cái chết của tù nhân trại giam Tây Hạ
trong tập truyện chỉ là những dàn dựng tiểu thuyết
(?) trong lúc Việt Nam hiện tại, năm 2012, vẫn nhan nhản
những trường hợp người dân bị công an bắt về đồn
bỗng dưng ngã bệnh chết hay tự tử? Và, lại còn có
người trước khi tự tử đã viết thư dài dòng khen công
an đối xử tử tế, như trường hợp của anh Nguyễn
Công Nhựt, chồng chị Nguyễn Thị Thanh Tuyền bị chết
tại đồn công an Bến Cát ngày 25/4/2011 ở Bình Dương!
Tên
tập truyện Cõi Đá Vàng, theo tôi, không liên quan gì đến
nội dung tác phẩm. Nếu có, “nghĩa đá vàng” thì cũng
chỉ phảng phất chút tình sâu nghĩa nặng của Trần đối
với Hiếu và cái bào thai con anh khi anh quyết định bơi
qua sông...
Nhưng,
biết đâu, hình ảnh Trần cũng là hình ảnh lãng mạn
nào đó của Cố Đại Tá Phan Văn Tốn, chồng tác giả.
Vào một buổi sáng, năm 1970 (?) Trung Tá Phan Văn Tốn, Chỉ
huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự Đà Lạt, đi kiểm tra
đồn Nghĩa Quân Kim Thạch, thuộc quyền chỉ huy của ông,
bị mìn cài ở cỗng nổ do chưa kịp tháo gỡ! Vì thế
trang đầu của tác phẩm tác giả ghi: “Dâng
Tốn tác phẩm đầu tiên của Sâm. Cuộc đời này không
dung những kẻ yêu thương nhau. Em đã tìm thấy anh trong
Cõi Đá Vàng. Thanh Sâm.”
Kim
Thạch là Đá Vàng!
Tác
giả Nguyễn Thị Thanh Sâm hiện ở Seattle, Tiểu bang
Washington, Hoa Kỳ. Vì tuổi già dễ bị lú lẫn, trí nhớ
khi có khi không, nên không thể tìm hiểu thêm. Vì thế
hãy coi Cõi Đá Vàng như là một địa điểm định mệnh.
Địa điểm định mệnh của một tình yêu đang độ
bỗng gãy gánh nửa chừng.
Năm
đó Nguyễn Thị Thanh Sâm mới 37 tuổi!
____________________________________________________________________________
[1]
Tác phẩm Cõi Đá Vàng của Nguyễn Thị Thanh Sâm do An
Tiêm xuất bản năm 1971 tại Sài Gòn bị chìm khuất vì
chính sự hỗn mang và chiến trường sôi động. Hơn 40
năm bị lãng quên, “Hành trình của Cõi Đá Vàng” đã
được Trần Thị Nguyệt Mai kể lại (trg 05) nên tác phẩm
được phủi bụi thời gian. Thư Ấn Quán tái bản tháng
1 năm 2012 tại Hoa Kỳ thuộc Tủ sách Di sản Văn chương
Miền Nam. Đây là một Tủ sách do Trần Hoài Thư vì yêu
Di sản sách mà thực hiện. Biếu và không bán! Email:
tranhoaithu@yahoo.com
[2]
Lời bài quốc ca của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
nguồn: http://www.diendantheky.net/2012/08/ho-phu-bong-tan-man-sau-khi-oc-coi-vang.html?utm_source=BP_recent
--------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001