Trần Mạnh Hảo
Tác giả gửi trực tiếp tới Blog Mai Xuân Dũng
Sài Gòn 16-8-2012
Trần Mạnh Hảo
Tác giả gửi trực tiếp tới Blog Mai Xuân Dũng
Sáng nay 16-8-2012 vào mạng,
đã thấy hai trong số hàng trăm tờ báo chính thống là tờ SGGPonline và THANH
NIÊNonline lên tiếng lại về vụ án ăn cắp thơ (đạo thơ) động trời của ông GSTS.
Hoàng Quang Thuận; vì trước đó hai tờ báo này cũng a dua với các báo lớn lề phải
khác là Nhân Dân, Quân Đội nhân dân, Công an nhân dân, An ninh thủ đô, Văn nghệ,
Văn nghệ trẻ, Tạp chí nhà văn, Văn nghệ quân đội…Đài truyền hình Việt Nam…thi
nhau ca tụng ông Hoàng Quang Thuận là thánh thơ, Phật thơ, thần thơ…nên Hội nhà
văn mới làm hội thảo ca ngợi thơ thần thánh này lên mây; ông Thuận từng được ông
Hữu Thỉnh chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam viết thư giới thiệu tập thần thơ này
tham dự giải Nobel năm 2011. Việc giới thiệu ông Thuận dự giải Nobel còn sự tiếp
tay của Bộ ngoại giao của chính phủ Việt Nam…
Vì sao một tập thơ ăn cắp văn
người khác (đạo văn) là “ Thi Vân Yên tử” của GSTS. Hoàng Quang Thuận lại được
cả nền truyền thông vĩ đại của nhà nước cộng sản, lại được hội nhà văn của chế
độ, được các quan chức cao cấp của chế độ thi nhau ca tụng đến át cả thơ Nguyễn
Du, Nguyễn Trãi đến như vậy? Khi luật sư Nguyễn Minh Tâm đã dày công chỉ ra cụ
thể việc ăn cắp thơ của Hoàng Quang Thuận rõ như ban ngày thế mà bà nhà văn Võ
Thị Xuân Hà còn cố bao che, nói là sẽ xin lập một hội đồng (hội đồng chuột hay
ma?) làm rõ Hoàng Quang Thuận có đạo văn hay không ? Chúng tôi xin trích một
đoạn trong bài viết của luật sư Nguyễn Minh Tâm để mọi người tường tận rằng
Hoàng Quang Thuận, một giáo sư tiến sĩ (gà sống thiến sót), một ngài Viện
trưởng viện công nghệ viễn thông danh giá chung quy chỉ là một tên ăn
cắp. Tình cờ, khi
lên Yên Tử, tôi vào quầy sách của Ban quản lý, thấy cuốn “CHÙA YÊN TỬ, LỊCH SỬ -
TRUYỀN THUYẾT DI TÍCH VÀ DANH THẮNG” của tác giả Trần Trương, Trưởng Ban quản lý
Yên Tử (1992-2003), tôi đã đọc ngấu nghiến bởi sự thôi thúc của tâm linh, một
niềm tin bất diệt vào sự hiển linh của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Người Anh
Hùng dân tộc và Đệ Nhất Tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Đọc xong cuốn sách, tự
nhiên tôi có liên tưởng đến 63 bài thơ “Thiền” của anh Hoàng Quang Thuận và thật
ngẫu nhiên, tôi phát hiện ra trong hầu hết các bài thơ anh Thuận viết, đều lấy
từ nội dung cuốn sách này, thậm chí có nhiều bài thơ, câu thơ còn sao chép
nguyên xi câu văn của tác giả Trần Trương. Tôi sững người và liên tưởng tới điều
anh Thuận nói về xuất xứ của 63 bài thơ được anh viết trong ba đêm với trạng
thái như “nhập đồng”, như có “ai” đó, từ cõi cao xanh thúc giục anh phải viết.
Tuy nhiên, vì là bạn bè, nên tôi cũng không nỡ trao đổi với anh, e anh tự ái rồi
giận tôi. Vả lại, tôi coi đó là một niềm vui riêng của anh, niềm vui có thể chia
sẻ trong phạm vi bạn bè, chẳng ảnh hưởng gì đến nhân tình thế thái. Thế rồi, năm
tháng trôi qua, do bận công việc, tôi cũng không còn để ý đến điều đó
nữa.
Cách so sánh của tôi là : Nêu
những đoạn văn trong cuốn sách của tác giả Trần Trương, sau đó là bài thơ của
anh Hoàng Quang Thuận trong tập “Thi vân Yên Tử” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn,
xuất bản tháng 3/1998 để người đọc cùng suy ngẫm.
1. Trang 20-21 cuốn sách của
Trần Trương (sau đây gọi tắt là cuốn sách) viết :
“ Hồ Yên Trung nằm ở
ngang lưng núi. Hồ rộng hàng ngàn mẫu, nằm lọt giữa bốn bề núi biếc. Nước từ khe
suối đổ về. Đôi gò bồng đảo bập bềnh trên sóng nước giữa hồ. Bồng đảo phủ đầy
thông… Thỉnh thoảng, một vài chú cá to phởn chí, tung mình lên cao rồi rơi
xuống, tạo thành quần sóng lan xa, lan xa mãi.
Ở một góc hồ, thấp thoáng
trong khe núi, bầy le le, vịt trời vui đùa nhau, tung cánh… Những đêm trăng
sáng, lòng hồ đầy ánh trăng. Bốn bề im ắng, chỉ nghe tiếng chim gù trên núi.
Thực là một bức tranh sơn thủy hữu tình… Hồ Yên Trung – Nàng Công Chúa Ngủ Quên
nay đã thức… Tạo hóa khéo bày tuyệt tác của thiên thiên. Được kết tụ bởi mây
trời non nước thanh hương sắc con người. Nàng vô tư không một chút ưu
phiền”.
Trong bài thơ “Hồ Yên
Trung” (trang 15), anh Thuận viết :
Yên Trung vắt vẻo ngang lưng
núi
Bốn bề mây biếc sóng lô
xô
Đôi bồng đảo bập bềnh trên
sóng
Cả rừng thông xao động mặt
hồ”.
Tạo hóa bày tuyệt tác thiên
nhiên
Kết tụ bởi mây trời non
nước
Nàng vô tư không chút ưu
phiền
Ngắm sao trời đầu gối Hoa
Yên.
- Trong bài “Đêm hồ Yên Tử”
(trang 17), anh Thuận viết :
Cát vàng thoai thoải sóng lao
xao
Cá to phởn chí nhảy lên
cao
Le le xanh biếc đùa tung
cánh
Chim gù trên núi cảnh tiêu
dao
Sơn thủy hữu tình động tiên
đào
Lạc đường Lưu – Nguyễn đếm
trời sao
Lòng hồ đầy ắp đêm trăng
sáng
Vua Trần thưởng nguyệt, nhớ
năm nào.
2. Trang 24, cuốn sách viết
:
“ Đến hẻm núi kia có ba
tên cướp nhảy ra chặn đường, vua Trần khoan thai ra hiệu cho Bảo Sái cho chúng
vài lạng bạc, cả suất cơm chay để độ đường. Đoạn ngồi trên mình ngựa, Ngài
thuyết giáo, thức tỉnh từ tâm, đoạn trừ tam độc trong lòng chúng…
… Cả ba quỳ sụp xuống lạy
tạ và hứa rằng “ sẽ trở về lương thiện làm ăn”. Kể từ ngày đó, chúng bỏ nghề đao
búa, chăm chỉ nghề nông, siêng làm công đức xây dựng chùa miếu, trở thành các
tín đồ ngoan đạo của Trúc Lâm. Và từ độ ấy, nạn cướp nơi đây được tiệt trừ. Con
đường dốc gập ghềnh nơi hẻm núi, kẻ lại người qua được bình an”.
Trong bài “Kẻ cướp chắn đường”
(trang 19), anh Thuận viết :
Ba tên kẻ cướp nhảy chắn
đường
Vua Trần cho bạc lẫn phần
cơm
Nhẹ nhàng thuyết giáo trừ tâm
độc
Cả ba quỳ lạy hứa hoàn
lương
Bỏ nghề đao búa thiện giáo
đường
Sơn lâm từ ấy hết tai
ương
Gập gềnh hẻm núi người qua
lại
Bình an vô sự hết đạo
cường”.
3. Trang 29, cuốn sách viết
:
“ Trưa hè oi ả. Tiếng
suối mùa mưa reo réo rắt hòa với tiếng chim rừng ca lảnh lót. Hoa rừng muôn sắc
tỏa hương theo gió thơm ngào ngạt. Bụi đường trường quyện lẫn mồ hôi khiến cả
hai bức bối. Vua Trần đóng khố, nhoài mình nơi dòng nước trong xanh. Dòng suối
cuốn trôi bụi trần ra sông biển. Kể từ dịp ấy, suối được đặt tên : Suối Vua
Tắm”.
Trong bài “Suối Tắm” (trang
20), anh Thuận viết :
Trưa hè oi ả tiếng suối
reo
Chim ca lảnh lót giữa lưng
đèo
Hoa rừng hương sắc hương theo
gió
Đàn cá xuôi dòng nước trong
veo”.
4.Trang 34, cuốn sách viết
:
“ Phía bên kia cầu là
cổng tam quan, dáng vẻ cổ kính, đắp nổi đôi câu đổi viết theo chữ thảo “Cổ tự
lưu danh Linh Nhâm Tự”… Xung quanh chùa xum xuê cây trái. Quả trứng gà sai chíu
chít vàng ươm. Quả hồng đỏ thắm như hàng trăm chiếc đèn lồng treo lơ lửng. Quả
mận tím trĩu cành lúc lỉu… Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Linh Nhâm là
tên của một vị Thiền sư đã được Tổ Trúc Lâm giao xây dựng ngôi chùa và nhiều năm
trụ trì ở chùa này. Tên của Thiền sư được đặt tên cho chùa…”.
Trong bài “Chùa Cầm Thực”
(trang 26), anh Thuận viết :
Tam quan đắp nổi Linh Nham
Tự
Thiền sư có phải đặt tên
thầy
Mận chín trĩu cành lúc lỉu
quả
Trứng gà chiu chít cả trong
mây
Linh Nham đâu khác nơi tiên
cảnh
Hồng đỏ như trăm đèn lồng
cầy…
5. Trang 40, cuốn sách viết
:
“ Thưở xưa, cánh đồng Nam
Mẫu nước ngập trắng. Từ dốc Quàng Hái, muốn vào Yên Tử, phải đi bè mà vào. Hay
tin Vua Trần vào Yên Tử, các cung tần mĩ nữ của triều đình đã tìm về, gặp Vua ở
tại con dốc này. Họ than khóc thảm thiết, xin Vua quay trở lại triều đình… Vua
cho lập đàn tràng cầu Phật Tổ Như Lai. Vài ngày sau, nước ở hồ Nam Mẫu rút hết.
Lòng hồ phơi ra, khá bằng phẳng. Đất nơi đáy hồ thật màu mỡ. Dân bản ùa ra bắt
tôm, cá, khai khẩn bãi hoang, thành ruộng vườn. Cánh đồng Nam Mẫu được khai
sinh”.
Trong bài “Làng Cung Nữ”
(trang 28), anh Thuận viết :
Làng Mụ, Làng Nương đường
Nam Mẫu
Xưa kia nước ngập trắng
lòng hồ
Vua Trần thương xót đoàn cung
nữ
Lòng trung không trở lại kinh
đô
Vua lập đàn cầu Phật Như
Lai
Nước hồ rút hết ruộng đất
dài
Đáy hồ mầu mỡ - tôm cùng
cá
Làng Mụ, làng Nương được sinh
khai.
6. Trang 53, cuốn sách viết
:
“Cá tôm say nước nhảy lia
thia. Trăm hoa khoe sắc bên bờ suối… Mới hay chín suối chỉ chung một dòng… Con
suối cắt chia tuyến đường Hạ Kiệu – Nam Mẫu thành chín đoạn”.
6. Bài “Chín suối chung một
dòng” (trang 36), anh Thuận viết :
Trăm hoa khoe sắc bên bờ
suối
Cá tôm say nước nhảy lia
thia
Mới hay chín suối chung dòng
một
Đường đi Nam Mẫu suối cắt
lìa.
7. Trang 79-80-82, cuốn sách
viết :
“ Hãy vào Lăng Quy Đức.
Lăng quây bốn mặt thành vuông vức, bao quanh ngôi tháp cổ… Mái tường lăng lợp
bằng ngói mũi hài, đổ về hai phía, dáng cong theo dáng mái chùa…Mặt ngoài các
tảng đá chạm nổi hoa văn sóng nước hình quả núi, đường nét cách điệu uốn lượn
rất tinh tế…Bệ tháp tạo nên bởi hàng chục phiến đá xanh ghép lại…Tầng đầu mở
hướng chính nam, bên trong thờ tượng Trần Nhân Tông ngồi thiền ở thế liên hoa,
vẻ mặt dung dị, cảm thông, thanh cao và trí huệ… Thi thoảng vẫn thấy xuất hiện
cặp rắn đen nằm chầu bên tượng Tổ trong tháp. Trông thấy bóng người, rắn thu
mình ẩn núp vào trong… Bốn cây đại cổ, thân dáng hình rồng đứng nép sau tường
Lăng Quy Đức, lá rủ vào sân lăng. Cành đại trổ đầy hoa. Hương hoa thơm ngào
ngạt. Cánh hoa rắc vàng sân mộ Tổ”.
Trong bài “Lăng Quy Đức
(trang 43), anh Thuận viết :
Lăng quây vuông vức bốn
mặt thành
Ngói hài hai phía dáng
thanh thanh
Mặt ngoài đá chạm hoa văn
sóng
Bệ tháp nằm trên phiến đá
xanh
Tầng đầu mở cửa hướng
chánh nam
Vua Trần nhập diệt cõi
Niết Bàn
Rắn đen một cặp chầu bên
tượng
Nền Lăng xưa chính Ngọa Vân
am.
Hai cây đại cổ dáng hình
rồng
Đứng nép bên tường đã trổ
bông
Hương hoa thơm nát vườn mộ
Tổ
Ngày xưa Tam tổ đã vun
trồng
8. Trang 84, cuốn sách viết
:
“ Những đêm trăng sáng, bên
tháp ngắm trăng thật thú vị. Trăng treo trên cành Tùng. Trăng rắc vàng trên cánh
hoa Đại sực nức hương và đính hạt sương đêm. Trăng gắn váo đỉnh Tháp . Mỗi bước
trăng trôi, cảnh vật nơi đây lung linh huyền ảo”.
Bài “Trăng Yên Tử (trang 46),
anh Thuận viết :
Trăng treo lơ lửng trên cành
Tùng
Trăng rắc vàng lên cánh hoa
nhung
Sương đêm sực nức mùi hoa
đại
Mỗi bước trăng trôi giữa núi
rừng
Lung linh huyền ảo ánh trăng
rơi
Tiếng hạc trong đêm tận cõi
trời…
9. Trang 98, cuốn sách viết
:
“Trong ngách hang, có một
núm đá, nước nhỏ tí tách từng giọt một, cả đêm chưa đầy một bát con. Nhà sư gọi
đó là sữa mẹ. Một điều kì lạ : Khi bát nước đầy, từ núm không nhỏ thêm giọt nào
nữa. Nền chùa sạch khô không giọt nước thừa tràn”.
Trong bài “Sữa mẹ” (trang
52), anh Thuận viết :
Ngách hang núi đá núm vú
con
Sữa mẹ linh thiêng nhỏ giọt
tràn
Nhỏ dần từng giọt đêm đầy
bát
Nước đầy chỉ một bát con
con.
10. Trang 103, cuốn sách viết
:
“ Bóng Tùng thấp thoáng bên ô
cửa. ngày nay, các “ông” Rồng xanh thi thoảng lại xuất hiện… Những lúc trở trời,
các “ông” bò ra nằm la liệt… Một con rắn lớn từ xà ngang buông mình xuống ban
thờ, náu mình vào Tượng Phật nhìn ra”.
Trong bài “Rắn xanh Yên Tử”
(trang 31), anh Thuận viết :
Bóng Tùng thấp thoáng bên ô
cửa
Rồng xanh thi thoảng nghỉ trên
bàn
Mấy ông rắn lớn nằm trên
mái
Náu mình tượng Phật ngắm giang
san.
11. Trang 108, cuốn sách viết
:
“Quanh am là rừng trúc bạt
ngàn. Trúc chen nhau mọc dưới tán lá của rừng cây cổ thụ. Trúc lách qua kẽ đá
nền am, vươn lên những đọt măng mập mạp. Đây là phế tích Am Thiền Định. Xưa chưa
dựng chùa, các nhà sư tu hành nơi am cỏ, hòa mình với chim muông, với thiên
nhiên hoang dã”.
Trong bài “Am xưa” (trang 58),
anh Thuận viết :
Trúc lách qua kẽ đá nền
am
Đọt măng mập mạp giữa đá
vàng
Bạt ngàn trúc biếc chen hoa
nở
Gió thổi lau thưa vọng tiếng
đàn.
12. Trang 110, cuốn sách viết
:
“Thác vàng còn lớn gấp bội
phần. Vách đá cao dốc đứng. Nước từ đỉnh dốc tuôn trắng xóa, khác nào dải lụa
khổng lồ. Ngọn nước như từ trời đổ xuống. Cây rừng khép tán, đứng dưới chân thác
ngước nhìn lên, ta chỉ thấy mảnh trời trên ngọn tháp. Nhà văn Vũ Khai đặt tên
cho thác là “Thiên Thủy” (nước trời). Với Thác Vàng, nước không hề khô
cạn”.
Trong bài “Thác Vàng” (trang
54), anh Thuận viết :
Ngọn nước như từ trời đổ
xuống
Cây rừng khép tán nép bên
khe
Mảnh trời ngọn tháp thiên thu
thủy
Đâu biết nơi đây có nắng
hè.
13. Trang 111, cuốn sách viết
:
“ Rừng ở đây nguyên sơ và
tuyệt đẹp. Cây cổ thụ vươn cao, xòe tán rộng. Rừng già âmn u. Ánh nắng mặt trời
không lọt rơi xuống đất…Dây leo chằng chịt, vắt từ cây này sang cây kia. Một thế
giới chim muông, hoa lá dần hiện ra…. Cành khô kêu răng rắc dưới chân. Hương
cây, lá mục nồng ngai ngái. Trên đường, từng đoạn lại thấy cây Tùng cổ, như thể
người xưa đánh dấu đường”.
Trong bài “Đường rừng” (trang
22), anh Thuận viết :
“ Cổ thụ vươn cao xòe tán
rộng
Rừng già nắng lọt đốm hoa
rơi
Dây leo chằng chịt vắt cành
lá
Chim rừng líu lót với hương
trời.
Cây khô răng rắc dưới chân
đi
Lá mục nồng ngai hoa từ
bi
Trên đường lác đác cây tùng
cổ
Thợ trời khéo đặt cảnh thiên
trì.
14. Trang 126, cuốn sách viết
:
“ Gọi là chùa Vân Tiêu, bởi
chùa tọa lạc trên triền núi phía Tây dãy Yên Tử. Dãy núi như trường thành chắn
ngang luồng gió biển thổi vào. Hơi nước tới đây, ngưng đọng lại thành mây. Mây,
gió bị chắn ở sườn Nam, được thoát ra nơi triền núi phía Tây. Mây trôi lờ lững
trên triền non Yên Tử, tới đây lập tức bị tiêu tan. Nên dù ở gần đỉnh núi, chùa
Vân Tiêu ít khi bị mây mù che phủ, khác hẳn chùa Bảo Sái ở cùng một độ cao. Ở
nơi mây cứ đến là tan, nên chùa mang tên là Vân Tiêu… Phía trước cửa chùa là
vườn tháp chín tầng, giống như Hòn Ngọc… Cả khối nặng tòa tháp đè lên lưng của
một ông rùa đá to lớn…”.
Trong bài Chùa Vân Tiêu (trang
50), anh Thuận viết :
Vân Tiêu quay hướng phía Tây
phương
Dãy núi Yên Tử án thành
đường
Mây trôi lờ lững trên Yên
Tử
Tùng xanh lãng đãng bóng trong
sương
Mây đến Vân Tiêu mây tự
tan
Chín tầng chùa tháp giữa non
ngàn
Im lìm trên một ông rùa
đá
Hoa cười rung cánh khóm địa
lan.
15. Trang 135, cuốn sách viết
:
“ Chóp núi cách tượng An Kỳ
Sinh 721 mét, ban đầu, đường đi trên núi khá bằng phẳng, qua một vạt rừng cây
lúp xúp, một vạt rừng cây cảnh tự nhiên, chỉ cao hơn đầu người một chút, gốc rễ
còi cọc, cong queo và mốc thếch, tô điểm những đóa hoa trà mi, hoa trứng gà, hoa
mai…muôn hồng nghìn tía… Chếch về phía phải, có một vạt cây rừng sú, vẹt. Thật
kỳ lạ : Sú vẹt ở bờ sông lại ngự trên đỉnh núi (!). Những chú ốc sên, những chú
còng… ẩn mình trong kẽ đá suốt mùa đông, chỉ đợi xuân sang là xuất hiện. chúng
biến nơi đây thành vương quốc riêng, xa cách cõi trần nơi bờ sông bãi
sú.
Qua khỏi vạt cây là bãi đá.
Dọc sống núi cơ man nào là đá. Những phiến đá nhỏ, to, cao, thấp thiên hình vạn
trạng. Đá xếp thành bậc thang nâng bước chân du khách. Có những phiến đá giống
như bầy cá Sấu nằm trườn ườn phơi nắng, xen lẫn với cá voi, éch ộp, thờn
bơn…Dưới chân chùa Đồng, ngổn ngang xếp những tảng đá lớn vuông vức như quân
cờ. Lưng đá hằn sâu ngấn sóng nước. Những vỏ sò, vỏ ốc hóa thạch còn lưu trong
kẽ đá. Đã một thời, đỉnh ngọn Yên Sơn là bờ biển. Trải qua kỳ kiến tạo vỏ trái
đất cách đây hàng triệu năm, bờ bể lại trở thành chóp núi. Và đỉnh Yên Sơn đã
trở thành một bảo tàng tự nhiên lưu dấu tích sự đồi thay dâu bể thời Hồng
hoang”.
Trong bài “Đỉnh non thiêng”
(trang 70), anh Thuận viết :
Yên Sơn tô điểm đóa trà
mi
Sú vẹt non cao thật dị
kỳ
Ốc, còng, sên nhỏ nằm trong
đá
Quốc vương xa lánh cõi trần
bi
Bậc đá làm thang giỏi thợ
trời
Đá hình cá sấu nằm chơi
vơi
Cá voi, éch ộp, thờn bơn
dẹt
Biển cả - đại dương giữa lưng
trời
Có lẽ ngày xưa thưở hồng
hoang
Yên Sơn bể biếc của kim
hoàng
Trải bao biến địa sông thành
núi
Đỉnh Yên nay thành một bảo
tàng
16. Trang 143 - 144, cuốn
sách viết :
“Trên non Yên Tử, vào ngày
trời quang, phóng tầm mắt tới chân trời xa tắp : Một vùng đồi núi nhấp nhô như
sóng, lúp xúp dưới chân ta. Thị xã Uông Bí, mỏ than Vàng Danh, vùng Tràng Lương
Đông Triều và Hà Bắc hiện ra như bức tranh thủy mạc. Xa xa, Vịnh Hạ Long xanh
xanh mờ vệt đảo. Mặt Vịnh lung linh dưới ánh mặt trời. Dòng sông Bạch Đằng in
bóng núi Tràng Kênh…Gió lùa vào kẽ đá, phát ra muôn tiếng nhạc bổng trầm. Giữa
khung cảnh đất trời kỳ vĩ và ngoạn mục, du khách xốn xang đến khó tả. Tâm hồn
nhẹ nhỏm và thanh thoát. Bao nỗi ưu phiền trần tục được tiêu tan. Cảm giác kỳ
diệu ấy, chỉ khi lên chùa Đồng mới có”.
Trong bài “Trời quang Yên Tử”
(trang 71), anh Thuận viết :
Trên non Yên Tử ngày trời
quang
Bức tranh thủy mặc dưới nắng
vàng
Nhấp nhô như sóng triền đồi
núi
Xa xa một dãy Bạch Đằng
Giang
Trời đất kỳ vĩ lòng xôn
xang
Gió reo thánh thót những cung
đàn
Chùa Đồng Yên Tử trời đất
Phật
Ưu phiền trần tục thảy tiêu
tan.
…
Tôi chỉ xin trích dẫn để
so sánh một số bài như trên, còn nhiều bài thơ khác cũng có nội dung tương tự
với các bài trong cuốn sách của Trần Trương. Trong số 63 bài, tôi kiểm lại thì
thấy có một số bài không có liên quan gì tới cuốn sách. Cụ thể là các bài : Xúc
cảm non thiêng; Cô chú thăm Yên Tử; Vân du Yên Tử; Nghỉ lại chùa Yên; Kim xà;
Ân hận; Tặng sư thầy, là do anh Thuận cảm tác mà viết ra.”
( hết trích)
Nhà văn Võ thị Xuân Hà tổng
biên tập : “ Tạp chí Nhà Văn” – người
được lệnh của ông Hữu Thỉnh
đứng ra tổ chức hội thảo đã tụng ca “ Thi Vân yên tử” của Hoàng Quang Thuận, vừa
nói trên SGGPonline như sau :
“Riêng chuyện ông Thuận có đạo
văn hay không thì không nên kết luận vội vã. Theo thông tin chúng tôi có được
thì cuốn Chùa Yên Tử, Lịch sử - Truyền thuyết di tích và danh thắng của tác giả
Trần Trương tái bản năm 2005, trong khi những bài thơ trong cuốn Thi Vân Yên Tử
của ông Thuận xuất hiện năm 1998, chưa thể khẳng định ai “đạo” của
ai.”
Theo tác giả Trương Thiếu
Huyền trên http://lethieunhon.com :
Trương Thiếu
Huyền
15/08/2012 14:07
Quyển sách bác Trần Trương in
lần đầu và bày bán tại Yên Tử năm 1996. Năm 1997 bác Hoàng Quang Thuận lần đầu
tới Yên Tử.
Chúng tôi xin khuyên ông Hữu
Thỉnh và nhà văn Võ Thị Xuân Hà không nên tốn thêm tiền xương máu của nhân dân
để lập ra một hội đồng thẩm định “ Thi vân Yên tử” của Hoàng Quang Thuận xem có
phải là tác phẩm ăn cắp hay không ăn cắp? Nếu quý vị làm việc này, chẳng khác
gì các vị mời một hội đồng kiểm định xem hồ Thiền Quang gần trụ sở Hội nhà văn
có phải là Hồ Thiền Quang hay không ?
Nếu “ Thi vân Yên tử” của
Hoàng Quang Thuận dù là ăn cắp đi nữa mà nó hay thì ta còn thể tất. Đằng này,
các tập thơ Đường luật ( tứ tuyệt, thất ngôn bát cú) của Hoàng Quang Thuận, dù
viết về Yên tử, hay Hoa lư đều là các bài thơ dở thậm tệ, lại sai luật vận đến
lố bịch. Mà thơ dở như thế thì hội thảo làm gì ?
Chúng tôi không thể hiểu nổi
vì sao nhà văn Võ Thị Xuân Hà lại nói rằng thơ bình thường ( thơ dở ?) không
được quyền hội thảo à ? Nhà thơ Trần Nhuận Minh, một người tham gia dàn đồng ca
khen thơ Hoàng Quang Thuận biện bạch về hành vi Hoàng Quang Thuận ăn cắp văn
xuôi của ông Trần Trương ( không phải nhà thơ Trần Trương mà ông này là trưởng
ban Yên tử của tỉnh Quảng Ninh từ năm 1992-2003) rằng : “ Xưa nay nhiều người đã
diễn thành thơ từ văn xuôi thì có sao đâu ?”. Nhưng vấn đề quan trọng ở chỗ này
anh Trần Nhuận Minh ạ : GSTS. Hoàng Quang Thuận đã ăn cắp văn của người khác để
diễn nôm thành thơ ( dở) nhưng lại nói dối, bịp bợm mọi người rằng thần linh,
trời Phật nhập vào ông ta mà viết ra thơ Yên tử ? Ngay hôm qua, trên
http://lethieunhon.com Hoàng Quang Thuận còn khẳng định thơ Yên tử này không
phải của ông ta mà là của thần linh đấy chứ ? Sao thơ của thần linh mà ngoài bìa
thơ lại mang tên Hoàng Quang Thuận….? Hóa ra Hoàng Quang Thuận chính là thần
linh ư ?
Thế mà cả một bộ máy tuyền
truyền và cả nền ngoại giao ( nguyên bộ trưởng bộ ngoại giao Nguyễn Di Niên, thứ
trưởng ngoại giao đương nhiệm Nguyễn Thanh Sơn), từ báo Nhân Dân , Đài truyền
hình VN đến hàng trăm tờ báo lề phải, cùng rất nhiều cán bộ cao cấp hè nhau tụng
ca một tập thơ dở nhất nước, một tập thơ ăn cắp của Hoàng Quang Thuận là kiệt
tác, là Tagore Việt Nam, là thơ thần thơ thánh, là nhất định phải tuyền truyền
hết cỡ, dù tốn hàng trăm tỉ đồng để tập thơ dở nhất thế giới này, tập thơ ăn cắp
này phải giành giải thưởng Nobel…Và năm 2011, chính ông Hữu Thỉnh đã viết thư
tay giới thiệu với Viện hàn lâm Thụy Điển đề nghị họ trao giải Nobel văn chương
cho “ Thi vân Yên tử” của Hoàng Quang Thuận. Thư này do thứ trưởng ngoại giao
Nguyễn Thanh Sơn chuyển tận tay. Đây quả là chuyện khôi hài vô cùng tận; vì Viện
Hàn Lâm Nobel Thụy điển đâu biết Hữu Thỉnh là cha căng chú kiết nào, ngay cả vụ
Hữu Thỉnh đạo thơ của nhà thơ nữ người Đức ồn ào thế mà họ chắc cũng cóc biết
?
Đến đây, chúng tôi chỉ có thể
dùng cụm từ của nguyên Ủy viên Bộ chính trị, trưởng ban tuyên giáo trung ương
Nguyễn Khoa Điềm mà rằng : đúng là văn hóa đảng, chỉ có đảng ta mới đẻ ra được
những nguyên mẫu như GSTS Hoàng Quang Thuận mà ngài típ-phờ-nờ Xuân Tóc đỏ của
văn hào Vũ Trọng Phụng còn phải gọi bằng cụ.
Hiện Hữu Thỉnh và Hoàng Quang
Thuận đang đổ thừa cho nhau đã làm ra cái hội thảo bậy bạ nhơ nhớp vô cùng tận
này để ca ngợi một thứ thơ bậy bạ, thơ ăn cắp này đấy, đẹp mặt nhau chưa
?
Nếu không có sự góp công, góp
bài tụng ca lên mây của các vị này : nhà thơ Dương kỳ Anh, PGS.TS. Nguyễn Hữu
Sơn, PGS.TS. Nguyễn Văn Dân, nhà thơ Trần Nhuận Minh, nhà phê bình văn học Đỗ
Ngọc Yên, nhà văn Võ Thị Xuân Hà, nhà thơ Hữu Việt….thì chắc cuộc hội thảo tôn
vinh thơ dở, thơ ăn cắp kia của ông Hữu Thỉnh sẽ không thể thành công mỹ mãn như
hôm nay ?
Sài Gòn 16-8-2012
Trần Mạnh Hảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001