Bảo Giang (Danlambao) - Lòng
Dân như một thúng bột. Gặp cơn gió lốc thì bay đi tứ tán. Bột bị phí
phạm và không đem lại lợi ích. Nhưng nếu biết đem bột hòa chung với nước
thì lại trở thành lương thực để nuôi sống con người. Chúng ta, không
thể lên tiếng trách cứ dân tình là thiếu tri thức, ý thức về quốc gia
hay thờ ơ với việc nước, trái lại, phải xác định rằng các chính quyền
trong vài thế kỷ qua cũng như các thế lực mang ảo giác chính trị đã lừa
dối lòng yêu quê hương của người dân quá nhiều. Những thế lực này là
nguyên nhân làm hỏng thúng bột. Làm bột bay đi tứ tán. Là nguyên nhân
tạo ra sự lạnh nhạt trong lòng người dân. Và tệ hại hơn thế là, chính sự
lạnh nhạt, thờ ơ của người dân hôm nay lại là con đường mở cho cộng sản
tồn tại trên đất nước này...
*
Nhiều người than phiền là Lòng Dân hôm nay đã nguội lạnh. Hoặc giả, nhu
nhược. Không còn thiết tha gì tới việc nước, rồi “mặc kệ nó” muốn làm gì
thì làm. Muốn đến đâu thì đến! Sự thật, có lẽ không phải như thế. Nhưng
hãy công bằng mà nhìn lại cục diện Việt Nam trong vòng vài trăm năm qua
mà thương, mà thấy là người dân Việt Nam ở mọi nơi đã nhận quá nhiều
cay đắng, bất hạnh.
Truớc hết, họ đã phải đeo trên lưng quá nhiều gánh nặng. Họ phải lao
nhọc vì các nhà nước một cách quá mức. Họ phải chấp nhận hy sinh nhiều
lần hơn chúng ta tưởng tượng. Đổi lại, người dân đã bị các nhà cầm quyền
đối xử một cách rất bất công, thô bạo. Trong đó, có nhiều khoảng thời
gian việc đối xử không còn ở cấp độ bất công, nhưng là một phương thức
đối xử bất nhân có hệ thống. Ấy là chưa kể đến sự việc bị các thế lực
chính trị lợi dụng, lừa đảo lòng yêu nước của họ. Từ đó, lòng người
không muốn chai đá cũng phải chai đá. Không muốn lạnh nhạt với thời cuộc
thì cũng không có cách nào để phần khởi hơn.
Thật vậy, theo số liệu của lịch sử, Hoa Kỳ lập quốc từ năm 1789, cũng
nhờ binh ngoại và trải qua một cuộc nội chiến, nhưng nay vượt lên trên
tất cả. Ở Việt nam, Nguyễn Ánh cũng đi cầu binh ngoại cũng đẩy người dân
Việt Nam vào một cuộc nồi da xáo thịt trong nhiều năm. Chiến tranh đã
chấm dứt vào năm 1802 (sau Hoa Kỳ khoảng 23 năm). Nhưng nay thì đếm từ
cuối bảng đi lên. Tại sao? Có phải vì những lý do sau?
1. Sau khi làm Tổng thống, George Washington đã cả một đời lo cho dân,
vì dân, vì nước mà xây dựng một nền móng dân chủ vững chắc cho tương lai
dài của đất nước. Trong khi đó, sau khi yên vị, những Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức, trở thành những Neron ở trời đông, đã lạm dụng quyền lực,
chém giết hơn 200,000 ngàn người dân lành với mục đích xây dựng quyền
lực cho đế chế quân chủ của dòng họ.
Đọc sử, nhìn con số dân lành bị chết oan, chết bằng muôn loại cực hình
ai cũng thấy rợn người. Rồi thấy những hình phạt gián tiếp giáng xuống
trên gia đình các nạn nhân, có ai không mủi lòng hoặc không lên án cái
man rợ của những bạo chúa? Ấy thế mà, sử xem ra cũng có chỗ bất công khi
những kẻ giết người vì mục đích tư dục, không hề bị “lịch sử” phê phán,
trừng phạt. Trái lại, còn được treo gương, đề tên ở trên đường phố của
Việt Nam!
Tôi tin rằng, dân tộc Việt Nam không phải là giống dân mọi rợ, thờ thần
bạo ác? Lại không thiếu tên tuổi của những người vì dân vì nước từ hơn
4000 năm qua, nhưng không thấy nhắc đến. Trái lại, tên tuổi của những
bạo chúa giết người thô bạo lại được treo cao giá ngọc trên các đường
phố Việt. Tại sao lại thế? Chỉ vì họ là vua quan chăng? Tôi không cho
cái nhìn ấy là đứng đắn và quan trọng. Bởi lẽ, dù chỉ là một người chiến
binh, một người nông dân áo vải đã hiến cả mạng sống của mình vì dân
tộc, vì đất nước thì cái phẩm giá, cái nghĩa khí họ để lại cho non sông
còn cao quý và đáng trọng hơn ngàn lần xo với tên của những người chỉ có
vị vua, quan mà chẳng có một chút công trạng nào với nước.
Có ai muốn đường phố Việt Nam vẫn mang tên những tội phạm bán nước Lê
Chiêu Thống, Trần Ích Tắc, Hồ Chí Minh hay những kẻ giết người như
Nguyễn Văn Trỗi, Trường Chinh... sau khi chế độ bạo tàn này đã bị hạ bệ
không? Nếu không, tại sao lại vẫn để những cái tên như Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức trên các đường phố như là một cách vinh danh những hành động
thô bạo, bất nhân? Nếu chúng ta tiếp tục bất minh như thề thì làm sao
có thể ổn định được lòng người? Làm sao có thể hóa giải được những hiềm
khích, to hay nhỏ, ở trong các sinh hoạt của đất nước?
Tôi chưa sang Đức, không biết ở đó có tên đường phố nào mang tên Hitler,
Himmler không? Đừng bảo là những nhân vật này thuộc về lịch sử nên phải
để lưu lại danh tánh. Lịch sử thì có góc riêng của lịch sử như khi
người ta nhắc đến Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Theo đó, Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức cũng không có ngoại lệ. Nghĩa là những vua quan tàn
bạo, hành ác cũng có một góc riêng trong lịch sử, nhưng tuyệt đối không
thể đề danh, lưu lại trên các đường phố cho dân chúng chiêm ngưỡng hằng
ngày. Bởi tội ác không thể là một tấm gương, không là một công nghiệp
đáng lưu lại. Nhưng phải Chôn Nó Đi. Hơn thế, dưới góc nhìn khác,
Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức có hơn gì Trần Ích Tắc, Lê Chiêu
Thống hay Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản trong việc đi cầu binh
ngoại? Có chăng là họ chiếm đoạt được quyền lực còn Lê Chiêu Thống, Trần
Ích Tắc thì không?
Khi viết đến chuyện này có thể có nhiều người không thích. Hoặc giả,
phản đối vì lý do “lịch sử” đã quá xa. Tuy nhiên, khi nói về Lòng Dân,
tôi không thể không xét đến. Bởi lẽ, nó là một trong những nguyên nhân
chính yếu làm cho Lòng Dân không phải bị nguội lạnh, mà là tan nát. Bởi
vì, từ nhát chém tàn bạo của Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đổ xuống trên
đầu 200,000 ngàn người dân vô tội, đã đẩy người dân Việt vào trong cái
nhìn dị biệt, nếu như không muốn nói là kình chống nhau. Họ kình chống
nhau vì không hề biết đến những cội nguồn, căn nguyên của sự việc vua
quan nhà Nguyễn ra lệnh chém giết người dân theo đạo Giatô là gì? Họ chỉ
nghe một cách đơn giản là, theo lệnh vua, ai theo đạo Giatô là phải
chết, phải bị xử trảm. Trong ký ức và sự hiểu biết của người dân thì kẻ
bị xử trảm là kẻ phạm vào những tội đại ác như cướp của giết người hay
là phản quốc. Nay người theo đạo Giatô, bị lên án tập thể, bị đuổi bắt,
bị xử giảo hình, chắc là họ cũng phạm vào những loại tội này chăng? Câu
hỏi đã không được giải đáp cho dân vào thời gian đó, nó trở thành một
nghi án lạnh lùng với những người cùng thời.
Trong khi đó, không có vua quan nhà Nguyễn nào dám công khai nói ra sự
thật là những người theo đạo Giatô phạm tội chết vì họ đã mang vào,
truyền bá trên đất nước này, rồi cùng thực hiện cho họ cuộc sống luân lý
một vợ một chồng. Cũng không có ông vua nhà Nguyễn nào dám nhìn nhận,
nền luân lý một vợ một chồng là một bước tiến, là một canh tân vượt bực
để cho xã hội bước vào một sức sống mới và đưa đất nước đi lên. Hoặc
giả, đó là một nền luân lý rất đáng trân trọng và nên mang vào trong xã
hội của ta để tự nó lần hồi khai phóng cuộc sống cho con người. Trái
lại, họ đã thay nhau rao truyền dối trá. Đó là tà đạo. Đạo thờ ngoại
nhân. Đạo theo thuyết Độc Thần (mà bỏ quên vua là thiên tử), gây rối
loạn trong dân nên phải bị xử tội.
Việc vu khống này xem ra chỉ có một mục đích là che lấp, là ngăn chặn
một Nguồn Sống Mới đang lan rộng trong dân, và trở thành một sự kiện lớn
đả phá vào tận căn cái lề thói cổ đa thê của ta. Hoặc giả, nó muốn ngăn
chặn ý tưởng giải phóng con người khỏi cuộc sống nô lệ. Hay công khai
thách đố quyền lợi nhục dục của các vua quan đã truyền đời, tự cho mình
“đặc quyền” có năm thê bảy thiếp và trăm cung phi, mà không đếm xia gì
đến những nổi khổ của các nạn nhân. Nay bị va chạm, bị coi thường, lo
mất quyền lợi, các triều này đã không ngại tạo ra lý lẽ và ra lệnh cấm
đạo. Tệ hơn, còn muốn gạt những người theo đạo Gia-tô ra ngoài mọi sinh
hoạt của xã hội một cách lâu dài, nếu như không muốn nói là vĩnh viễn
bằng những sắc chỉ. Minh Mạng: (1820-1820) 7 Sắc Chỉ cấm đạo. Thiệu Trị
(1840-1847) 2 sắc Chỉ. Tự Đức (1847-1883) 13 sắc chỉ. Tất cả đã trở
thành những luật lệ miên viễn buộc người dân phải tuân theo trong thời
nhà Nguyễn. Dĩ nhiên, khi nhà Nguyễn không còn thì những bản án này cũng
vẫn còn gây tác động và ảnh hưởng trong lòng dân tộc.
Dĩ nhiên, những Sắc Chỉ này là không đủ khả năng giết hết người theo đạo
Công giáo tại Việt nam. Cũng không có khả năng gạt họ ra ngoài mọi sinh
hoạt của xã hội một cách vĩnh viễn. Nhưng nó đã có những ảnh hưởng tiêu
cực kéo dài, tạo ra sự chia rẽ nghiêm trọng giữa những người cùng màu
da, cùng tiếng nói, cùng chủng tộc, nhưng khác tôn giáo. Tệ hơn, nó có
thể trở thành một điểm nhạy cảm cho những thế lực chính trị lợi dụng,
khích động. Tiếc rằng, những người kế vị của các triều này đã không có
đủ một nhãn quan, một ý thức vì dân tộc để rút lại tất cả những sắc chỉ
mang tính tiêu cực, đã hủy hoại, chôn vùi chính những cá thể và triều
đình của họ, đã gây tai họa cho quốc gia, như là một lời xin lỗi, nhận
sai lầm trước quốc dân để dần dần tẩy đi những oan khiên cho chính triều
đại của họ.
2. Bên cạnh những hệ lụy từ lâu đời ấy, sau cuộc kháng chiến dành lại
Độc Lập từ tay thực dân, ngoài những khẩu hiệu lẫy lừng, người dân ở bên
kia vĩ tuyến 17 được những gì? Họ có được đời sống tự do, ấm no hạnh
phúc, được công lý và luật pháp của một nước độc lập bảo vệ? Hay họ bị
Hồ chí Minh cho ăn bánh vẽ, rồi bị nhào nặn thành những kẻ nô lệ với
cuộc sống còn tồi tệ, thống khổ hơn cả những ngày sống dưới ách thực
dân?
Cuộc kháng chiến gọi là dành Độc Lập mà vào phút chót Hồ Chí Minh bỗng
nắm được quyền lực không phải là do công lao của Hồ Chí Minh và tập đoàn
cộng sản mà có. Nhưng là do công sức của toàn dân, trong đó phải kể đến
những cuộc chống thực dân đã có từ trước, tổn hại rất nhiều xương máu
của người dân từ vụ binh biên ở kinh thành với vua Hàm Nghi, rồi đến
những đoàn nghĩa quân lên đường vì nước chẳng vì vua quan như ông Phan
Đình Phùng, Cao Thắng đến Hoàng Hoa Thám, Đề Thám, Nguyễn Trung Trực,
Phan Liêm, Phan Tôn, Nguyễn Thái Học, Cô Giang, Cô Bắc và các phong trào
Đông Du, với cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... mà có. Nhưng sau khi
cướp được chính quyền trong tay của chính phủ Trần Trọng Kim, Hồ Chí
Minh và tập đoàn cộng sản, phần vì quyền lợi phe nhóm, phần vì phận làm
nô lệ cho Nga, Tàu nên họ đã quay trở mũi giáo vào dân chúng.
Trước hết, để đền ơn nhân dân đã hy sinh xương máu trong cuộc tranh đấu
dành lại độc lập cho Việt Nam từ tay thực dân Pháp, Hồ Chí Minh, ngay
sau khi nắm được chính quyền đã tổ chức một mùa đấu tố rực rỡ với chủ đề
“cải cách ruộng đất”. Nói là cải cách ruộng đất cho nó có chữ vậy, thực
chất đây là cuộc phỗng tay trên toàn bộ tài sản của đất nước vào tay
đảng cộng sản. Cuộc đấu tố này đã được thực hiện ở trên đất bắc sau ngày
ký Hiệp Định đình chiến 20-7-1954. Với cái chết oan khuất của hơn
170,000 ngàn người trên tổng số khoảng 14 triệu dân, HCM vĩnh viễn đi
vào lịch sử Việt Nam như là một đồ tể vô tiền khoáng hậu. Nạn nhân của
Hồ là những ai?
Thứ nhất, họ là những người dân yêu nước, đã từng nuôi ăn, cho ở đợ
những tên tuổi từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Hoàng Văn
Hoan, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Võ Nguyên Giáp... cho đến các
cấp nhỏ nhất tại các thôn xóm. Nghĩa là không có một đoàn đảng viên nào
mà đã không sống nhờ vào lòng hảo tâm của những người mà chúng giết sau
này. Người bị giết đầu tiên được nhắc đến tên là bà Nguyễn Thị Năm ở Bắc
Ninh. Người không được nhắc đến tên tuổi là những nông dân trên các
cánh đồng, bằng cách này hay cách khác đều là những ân nhân nghìn đời
của cộng sản.
Kế đến là nhiều cha mẹ, anh em ruột thịt và thân nhân, lối xóm của rất
nhiều sĩ quan và cán binh, có người còn sống, có người đã chết trong
chiến đấu, thuộc những đại đoàn chính quy, hậu cần, trong suốt thời kỳ
kháng chiến. Họ là những ân nhân của cách mạng, đã từng tiếp tế lương
thực gạo thóc, tiền bạc thức ăn cho Việt Minh trong suốt 9 năm kháng
chiến. Nhưng được Hồ Chí Minh đền ơn bằng cách lôi ra đấu tố vì là điền
chủ, phú nông, lý trưởng, chánh tổng... với tội danh “tay sai của
thực dân cài người vào tổ chức của ta. Nó tiếp tế cho ta là vì muốn nắm
tin tức của ta. Thực tế chúng là những kẻ bóc lột dân ta”!
Rồi đến bản thân nhiều sĩ quan binh sĩ đã đi vào kháng chiến cũng không
tránh được tai họa vì nghề đấu tố của HCM. Lý do, sau chiến tranh, người
cán binh về thăm quê. Chưa gặp gia đình đã gặp đội đấu và đội “quần
chúng nhân dân”. Các anh bị bắt giữ và bị hành quyết với tội danh: “Nó là con địa chủ, có ăn có học ở thành phố, ở với tây, được cài vào trong đội quân của ta làm phản gián!” Tôi
có hai người thân nằm ở trong trường hợp này (trung tá Phạm Hàm va em
là thiếu tá Phạm Hiến) quê ở Yên Mô, Ninh Bình. Bố ở nhà bị giết vì tội
“Việt gian”, con về thăm nhà cũng được Việt cộng cho đi tầu suốt! Sau
cùng là nông dân có vài sào ruộng và vài con trâu cũng từng góp gạo, góp
của cho kháng chiến. Nhưng được đảng đôn lên hàng phú nông, thuộc giai
cấp bóc lột và cũng nhận được một nhát dao ân huệ của Hồ Chí Minh. Tính
ra trong cả nước, không có ai mà không có tội. Hôm họp ở làng tôi, một
làng đã vào tề ở ngoài bắc, sau vào nam lại lập ấp, cán bộ chắp tay sau
đít, đi đi lại lại điểm mặt: “bà con liệu đấy, ở đây không ai mà không có tội, chỉ là nhà nước chưa tính tới phiên mà thôi!”
Gặp những cảnh bị đối xử bất nhân, bất công như thế đã đủ làm cho người
dân lạnh nhạt, thờ ơ với việc nước chưa? Liệu còn có ngọn lửa nào, hay
cuộc lừa phỉnh nào sẽ mãnh liệt hơn để cho lòng họ nóng lại hay không?
Không, tôi tin là không có một ngọn lửa nào, không có một chiêu bài nào
có thể làm cho lòng họ nóng lại, để họ tự đem chính bản thân của mình ra
để phục vụ cho một chế độ tàn bạo ngay sau mùa đấu tố 1954 được nữa.
3. Trong khi đó, ở miền nam từ 1954-75, Lòng Dân cũng bị đập cho bơ phờ, tả tơi..
Cuộc chia đôi đất nước không làm cho lòng người ở miền Nam yên tâm, dù ở
đây chính quyền ra sức bảo vệ họ thay vì mở những cuộc đấu tố, cải cách
như ở ngoài bắc. Tuy thế, nhiều lúc họ cũng chẳng biết số phận của mình
sẽ ra sao. Nhìn chung, chính quyền, phần thì nỗ lực để vãn hồi an ninh
trật tự đầy bè phái và hỗn loạn, sống như vô pháp vô cương do Bảo Đại để
lại. Phần thì ra công ra sức xây dựng, đặt nền móng cho một định chế
Dân Chủ sau khi thu hồi Độc Lập từ thay thực dân Pháp và bãi bỏ thể chế
quân chủ đã tồn tại trên giải đất này từ thời lập quốc. Đã thế, còn lao
nhọc chăm lo đến đời sống của người dân, hỗ trợ, ổn định cuộc sống cho
hơn một triệu đồng bào di cư, trốn nạn cộng sản từ bắc vào nam. Đến khi
mới có chút nắng, mang màu hy vọng cho một tương lai của đất nước trên
đỉnh đầu thì các thế lực chính trị ăn bám theo Tây, nhưng đã mất quyền
lực, hay vì ảo giác chính trị (muốn có quyền lực) lại tìm cách khuấy
động lòng dân nổi lên đấu tố chính quyền, thay vì hướng dẫn người dân đi
vào đường lối chính thống, thay đổi chính phủ bằng những lá phiếu theo
điều kiện của luật pháp!
Một trong những vụ khuấy động lòng dân lớn rộng, nấp dưới tấm bình phong
tôn giáo để che đậy mưu đồ chính trị có lợi cho cộng sản là phong trào “chống kỳ thị tôn giáo”
do TT Thích Trí Quang lãnh đạo (điều này lúc trước xem ra là cấm kỵ,
nhưng nay thì chả còn ai phủ nhận khi xem những đoạn video cũ) đưa đến
cái chết của TT Thích Quảng Đức làm rúng động thế giới. Tuy bị cáo buộc
khá nhiều, nhưng sau nửa thế kỷ tính từ ngày nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại
miền nam Việt Nam cáo chung với cái chết đau thương của TT Ngô đình Diệm
và người bào đệ của ông, người ta đã không thể tìm ra những bằng chứng
cụ thể, xác thực nào về việc chính quyền này kỳ thị tôn giáo. Thay vào
đó là những chứng cứ cho thấy có bàn tay của Việt cộng nằm trong cấp
lãnh đạo của phong trào này.
Sang đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, ngọn lửa kỳ thị được cộng sản thổi bùng
lên và lôi kéo được khá đông quần chúng miền trung tham dự, mà điển hình
là trường hợp Thanh Bồ-Đức Lợi ở Đà nẵng, Nếu những vị lãnh đạo của hai
tôn giáo lớn lúc bấy giờ là Công Giáo và Phật Giáo không sớm nhận ra đó
là một âm mưu do Cộng sản cài đặt, và không đủ kiềm chế thì cuộc chiến
về tôn giáo đã có thể bùng phát. Dù là lớn hay nhỏ thì cái tai họa cho
dân tộc chắc không nhỏ và ảnh hưởng không phải chỉ là một khoảng thời
gian.
Câu chuyện vẫn chưa chấm dứt ở đây. Ngoài biên, chiến trận mỗi lúc thêm
khốc liệt. Hậu phương, thêm nhiều tổ chức đấu tranh vận động quần chúng,
thanh niên sinh viên học sinh xuống đường đòi hòa bình, đấu tố chính
quyền. Kết quả, ngày 30-4-1975 đã đến. Nó đến trong nỗi bàng hoàng,
hoảng sợ của mọi người, kể cả những người đã từng theo cộng sản khuấy
động lòng dân đứng lên đấu tố chính quyền lúc trước. Tất cả đều trắng
mắt ra để nhìn “mưa xa trên lá cờ đỏ” mà không dám có lấy nửa lời
phản... kháng, hoặc đòi công lao! Lòng dân ra sao sau tháng tư đen?
4 Hòa bình rồi, đồng bào ơi. Hòa bình rồi, ra nắm tay nhau mà nhảy son
đố mì... Mừng chưa, người Việt Nam đã hoàn toàn được giải phóng! Mừng
ơi, sau hai mươi năm chiến tranh mới có một ngày như hôm nay!
Câu chuyện hôm trước vui nhộn thế. Qua một đêm đen, sáng hôm sau đã khác. “Đả đảo Thiệu Kỳ, mua gì cũng có. Hoan hô Hồ chí Minh, mua cái đinh phải xếp hàng”!
Hai câu đồng giao như tát nước vào mặt những kẻ mang ảo giác chính trị
từng lôi kéo người dân, thanh niên sinh viên học sinh xuống đường đấu tố
chính quyền, tiếp tay cho việc làm mất luôn miền nam. Rồi nó như một
bài “Giáng” đã nói lên tất cả mọi sự thật phũ phàng về đời sống kinh tế
của con người dưới chế độ cộng sản. Không phải chỉ là những ngày đầu,
nhưng là khởi đầu của một cuộc tang thương nối tiếp.
Bước sang lĩnh vực chính trị, xã hội còn thê lương hơn nhiều: “Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý. Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do”.
Nay thì những kẻ từng chống đối TT Ngô đình Diệm, hay TT Nguyễn văn
Thiệu ở miền nam trước kia không còn cười được nữa. Bởi vì một bài “
Giáng” khác của chế độ mới đã công bố toàn bộ sách lược của chế độ đối
với người dân. Ai nghe thấy cũng đều ngậm đắng nuốt cay. Mà sự “ngậm
đắng nuốt cay,” không cười được nữa không phải chỉ bắt đầu bằng câu đồng
dao của thời đại khi cộng sản đổi tên đường phố ở Sài Gòn. (Chẳng biết
có phải là lòng trời đã xui khiến hay là tình cờ có sự trùng hợp mà
đường Công Lý bị mất tên và thay bằng cái tên Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Và
đường Tự Do thì được thay bằng cái tên Đồng Khởi!) để cho người ta nói
chuyện diễu. Nhưng thực chất là từ ngày 30-4-1975 người dân sống trên
phần đất ấy không được Công Lý bảo vệ và cũng chẳng có cuộc sống trong
Tự Do. Bởi vì, sau những cuộc biểu tình đòi hòa bình, đấu tố chính quyền
do cộng sản giật dây, giờ đây, người miền nam đến lúc nối theo nhau vào
nhà tù. Dĩ nhiên, trong đó có rất nhiều những khuôn mặt “nhớn” từng
chống TT Diệm và TT Thiệu lúc trước. Những tưởng “trở mình” là nên quan
tướng nhớn, nào ngờ chỉ là ảo giác! Phần người dân thì hết nỗi thống khổ
này chồng lên thống khổ khác. Bị ức chế bị chà đạp từ đời sống hàng
ngày cho đến đời sống tinh thần trong tôn giáo. Hỏi xem bây giờ họ sẽ
theo ai? Theo Ngô Đình Diệm phục vụ con người, hay theo Hồ Chí Minh mở
cuộc đấu tố anh em? Hoặc là ì ra, muốn đến đâu thì đến?
Ở độ tuổi từ 50 trở lên thì có đầy đủ những chán chường ấy chất lên
người, họ còn khát vọng gì cho tương lai nữa hay không? Chắc là không
đâu nhỉ? Tuổi trẻ thì sao? “Vô tri thời bất mộ”. Người ta không
thể mộ mến cái mà người ta không biết. Và cách để biết, để tri thì không
có gì hơn được, hay bằng phương cách giáo dục cẩn thận, đứng đắn ngay
từ trong học đường. Tiếc rằng, cả hai điều kiện căn bản này đều vắng
bóng trong hệ thống giao dục và đào tạo của cộng sản từ năm 1954 ở ngoài
bắc, và ở miền nam từ sau 30-4-1975.
a. Về lịch sử,
Học sinh không được học gì về lịch sử của dân tộc mình. Không biết hai
bà Trưng chống cuộc ngoại xâm nào. Không biết những tên Tô Định, Mã Viện
tàn bạo với dân mình ra sao. Không biết chuyện “gò” Đống Đa mang ý
nghĩa gì. Không biết Chi Lăng nơi chôn vùi Liễu Thăng ở nước nào. Không
dám nói đến việc vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Trần Hưng Đạo triệt
quân Nguyên... Lại miệt mài nhồi nhét vào đầu những cái gương “đuốc
sống” tưởng tượng Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trổi, Bế Văn Đàng,
đánh Mỹ cứu nước... để khi thi môn sử, lỡ có đề án ra nhầm vào những
nhân vật trên là cả lớp, cả trường, có khi cả khóa thi bị điểm Zêrô,
điểm 1, điểm 2. Với một kết quả như thế thì tìm đâu ra lòng yêu nước của
những thế hệ mới? Nên không lạ gì tập đoàn cộng sản từ Hồ Chí Minh đến
những cấp gọi là lãnh đạo hôm nay đều cúi đầu, cúc cung phục vụ cho chủ
nhân Tàu với lòng độc ác tàn hại dân rất cao và không bao giờ thiếu.
Trái lại, lúc nào cũng sẵn sàng. Bằng chứng, việc biểu lộ lòng yêu nước
của những người trẻ Việt Nam hôm nay đã rất hiếm hoi. Đến khi họ tự tập
trung với nhau lên tiếng trong những vụ việc về biên giới, biển đảo bị
Trung cộng lần chiếm, đã không hề được các “quan chức” nhà nước hỗ trợ
hay giả làm ngơ. Trái lại, từ những Điếu Cày, Tạ Phong Tần..... đến
Nguyễn Chí Đức, Lê Quốc Quân, Bùi Hằng, rồi Việt Khang, Nguyễn Phương
Uyên... cùng thét gào lên trong nức nở Việt Nam Tôi Đâu: Anh Là Ai? ở trong chốn nhà lao!
b. Về nhân cách, lễ nghĩa.
Những dòng chữ nắn nót treo ở trên tấm bảng đen và trên tường trong lớp
học của học sinh miền nam trước kia thường là những dòng chữ tuyệt vời
trong ý nghĩa giáo dục “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Ngày nay học tập ngày mai giúp đời” hoặc là “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”...
đã được nhà nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” giải phóng, lột bỏ, quăng
đi cho bằng hết. Rồi thay vào đó là lối giáo dục hết sức phản giáo dục
với hàng chữ: “Sống và học tập theo gương bác hồ vĩ đại”. Thưa cô, gương của “bác” là gương gì ạ? Có Trung, có Hiếu, có Lễ, có Nghĩa, có Tín không ạ? Cô giáo thấp giọng:
- “Bác có nhiều tấm gương lớn các cháu phải noi theo”. Trung Hiếu
Lễ Nghĩa Tín các chữ ấy đều có. Nhưng chỉ có chữ thôi phần thực hành
thì không. Có em nào nom thấy bác làm giồ, thắp nhang cho ông bà cha mẹ
bao giờ không? Thưa cô không ạ! Thế đấy, nên họ nói thì cứ mặc. Các em
nhớ đấy, “bác còn nhiều cái gương khác nữa”. Trung thì không bán
nước, Nhân thì không giết người. Lớn lên tự mình nhìn việc mà đánh giá.
Nghe thế, lũ trẻ hoang mang, chẳng biết đâu mà mò. Về nhà, cha mẹ em cứ
dạy là phải thảo hiếu cha mẹ và yêu thương đồng loại và yêu tổ quốc. Ai
đúng, ai sai? Lạ, lạ quá... Tiếng đầu đời không gọi cha gọi mẹ, mà gọi
Sít ta lin!
Với những tấm gương ấy trong học đường, ngoài xã hội, cộng sản đã phá
nát nền luân lý của dân tộc và của tôn giáo tại Việt Nam nên “người ta phải nói dối nhau mà sống”
như lời ĐBQH Trần Quốc Thuận PCT QH khóa IX nói. Hầu như không tìm ra
một câu nói thật nào với nhau, nhất là về phương diện quan điểm chính
trị. Trong khi đó cuộc sống của xã hội càng ngày càng bị phủ ngập bởi
những loại tội đại ác. Con giết cha, vợ giết chồng, tình nhân giết nhau,
bạn học giết bạn học và cả học trò chém thầy, cô, vì không có điểm tốt.
Phần thầy thì gạ tình trò đổi lấy điểm. Khi bước ra đường là đụng tiến
sỹ, gái điếm. Bước vào nhà thương, ngõ hẹp thì thấy đầy dẫy những phòng
nạo, cạo, hút thai công khai. Hỡi ơi, mỗi năm có đến hàng trăm ngàn vụ
phá thai và nghĩa địa hài nhi thì mọc lên như nấm ở khắp nơi. Mà người
cha không ai biết đến, trong khi người mẹ đa phần là trẻ vị thành niên,
thậm chí có em, một năm đả phá thai đến ba, bốn lần! Một xã hội tốt đẹp,
có trật tự, lễ giáo trước 1975, chỉ hơn ba mươi năm đạt đến những
“thành tích” lẫy lừng này thì hẳn nhiên, không còn cái gương nào “ tốt”
hơn, “ sáng” hơn hoặc là bằng với cái gương của Hồ chí Minh mà chế độ
này đem treo và vào áp dụng ở khắp đầu đường, xó chợ!
Những điều làm ảnh hưởng đến Lòng Dân như tôi viết ở đây, tưởng là ghê
gớm hay mới mẻ. Thật ra, nó cũ rích và tôi chỉ nói lên được đôi chút
trong những nỗi thống khổ tận cùng của dân tộc ta trong vài trăm năm
qua, không thể nói lên toàn cảnh được. Nên với gánh nặng tựa núi đá,
cộng thêm cuộc khủng hoảng đạo lý và niềm tin do cộng sản tạo ra, cứ mãi
đổ xuống trên thân thể người dân như thế. Họ chưa chết, chưa ra điên
hết, còn được như hôm nay đã là may mắn, nói chi đến vấn đề bạc nhược,
hay thờ ơ trước thời cuộc. Khi đàn gà phải cáo nấp ở trong góc chuồng,
chi nghe thấy tiếng động nhỏ ở đâu đó là đã vỡ mật, cần chi phải nhìn
thấy con cáo. Người Việt Nam ta hôm nay còn nằm ở trong hoàn cảnh bi đát
hơn thế nhiều. Cũng may, nhờ kinh nghiệm từ thời phong kiến đến cộng
hòa. Đặc biệt sau sáu mươi năm sống dưới chế độ bạo tàn cộng sản đã giúp
họ thu vén cho mình một chút vốn liếng riêng. Rõ ràng, họ căm thù cộng
sản đến tận xương tủy, nhưng cũng không thể bồng bột vào cuộc đấu tố
chúng để lãnh lấy thất bại. Nghĩa là, họ sẵn sàng đứng dậy để Chôn Nó
Đi, nhưng sự sẵn sàng ấy phải có những điều kiện khả dĩ, nắm chắc thành
công. Bởi lẽ, sau một thất bại lớn, cuộc sống còn thê lương hơn nhiều.
Tóm lại, Lòng Dân như một thúng bột. Gặp cơn gió lốc thì bay đi tứ tán.
Bột bị phí phạm và không đem lại lợi ích. Nhưng nếu biết đem bột hòa
chung với nước thì lại trở thành lương thực để nuôi sống con người.
Theo đó, chúng ta, không thể lên tiếng trách cứ dân tình là thiếu tri
thức, ý thức về quốc gia hay thờ ơ với việc nước được. Trái lại, phải
xác định rằng các chính quyền trong vài thế kỷ qua cũng như các thế lực
mang ảo giác chính trị đã lừa dối lòng yêu quê hương của người dân quá
nhiều. Những thế lực này là nguyên nhân làm hỏng thúng bột. Làm bột bay
đi tứ tán. Là nguyên nhân tạo ra sự lạnh nhạt trong lòng người dân. Và
tệ hại hơn thế là, chính sự lạnh nhạt, thờ ơ của người dân hôm nay lại
là con đường mở cho cộng sản tồn tại trên đất nước này.
Như thế, muốn Chôn Nó Đi, chúng ta phải tìm cách vận động thế nào
để cho bầu nhiệt huyết vì quê hương lại có dịp luân chuyển trong huyết
quản con dân Việt Nam. Thí dụ, ngày xưa tầng lớp sĩ phu nắm giữ mọi
trọng trách thúc đẩy nhân dân đi lên. Nay xem ra là đến thành phần tuổi
trẻ phải gánh vác công việc này. Bởi lẽ, họ là những người viết blog
riêng, vào các trang mạng xem thông tin. Họ nhận được nhiều nguồn tin
đúng. Đọc được những quan điểm đứng đắn về biên giới, chủ quyền trên
biển Đông. Nhờ họ, những bản tin nhà nước đàn áp, bắt giam những người
chống Trung cộng xâm lược, đến được với nhiều người. Đặc biệt là ở vùng
nông thôn là nơi không có nhiều điều kiện tiếp cận với thông tin thật.
Nay nhận được những bản tin, họ hiểu được chẳng bao lâu nữa Trung cộng
sẽ vào chiếm đình làng. Hoặc giả, trực tiếp điều hành những công việc
ngay tại xã thôn như chúng đang làm ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam
như ở Nông Cơ, Tân Rai... nhưng khu khai thác quặng mỏ, khai thác rừng
thuê mà không một người Việt Nam nào được phép đến, kể cả cán bộ cấp
trung ương. Những bản tin này sẽ đưa người dân vào những ưu tư trước
thời cuộc. Tầng lớp thanh niên thay thế lớp Sĩ Phu, trở thành những yếu
tố chính cho một cuộc cách mạng mới mà toàn dân mong chờ để tiếp tay.
Người dân dần thay đổi cách suy nghĩ, cách nhìn. Từ đó, bầu nhiệt huyết
về quê hương sẽ trỗi dậy.
Một khi bầu nhiệt huyết vì quê hương lại cháy lên trong Lòng Dân thì có
xá chi việc loại trừ chế độ cộng sản ra khỏi đất nước Việt Nam. Trái
lại, vẫn trách cứ, vẫn đổ lỗi cho dân, hoặc chỉ lợi dụng họ khi muốn qua
cầu. Chúng ta sẽ đi vào ngõ cụt, không thể tìm được sức mạnh hỗ trợ từ
đồng bào của mình. Nếu không có sức mạnh vạn năng từ Lòng Dân, không ai
có thể làm nổi công việc lấp bể dời non.
__________________________________
Bài đã đăng:
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2012/11/long-dan.html#more
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001