Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

“Ru” và thân phận di dân 

|

Trang bìa của "Ru"- ấn bản Ba Lan.
Sảnh khách sạn 4 sao Sheraton rất rộng rãi và bài trí sang trọng, nhưng Kim Thúy nhất định kéo nhóm chúng tôi lên phòng, vì ở đó “thích hơn, thoải mái hơn”. Chị vừa đặt chân tới Ba Lan ít phút trước, theo lời mời của nhà xuất bản “Drzewo Babel” nhân dịp ra mắt cuốn “Ru” bằng tiếng Ba Lan.
Trái ngược với những mẩu ký ức buồn trong “Ru”, tác giả của nó là một phụ nữ rất sôi động và hay cười. Kim Thúy lúc nghiêng bên này, lúc ngả về bên kia và dùng cả 2 tay để diễn tả lại quá trình viết văn của mình, để bù vào những chỗ mà vốn tiếng Việt còn thiếu. Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi thân tình và tràn ngập tiếng cười, giống như những bạn bè cũ lâu ngày gặp nhau hơn là một nhóm báo chí tới phỏng vấn.
Tình cờ thành nhà văn
Cứ 5 năm Kim Thúy đổi nghề một lần. Không hẳn vì chị đã chán nghề cũ mà – theo chị giải thích- cuộc sống đưa đẩy tới lúc phải chuyển sang làm nghề khác mà “chẳng biết tại sao nữa”. Từ luật sư Kim Thúy làm phiên dịch, rồi bỗng dưng mở nhà hàng dù “không biết nấu ăn đâu”. Chị kể, “lúc bấy giờ có 2 con, nghề luật phải đi nhiều lắm nên cứ nghĩ làm nhà hàng nhàn hơn và được gần con, ai ngờ cực quá.” Nhà hàng của Thúy mỗi ngày chỉ nấu độc một món, ai tới cũng phải ăn món đó, cô chủ Kim Thúy thì “thẹo tùm lum cả 2 tay” vì bỏng. “Cái bếp lò dành cho người 1m80 nhưng Thúy chỉ cao 1m50 nên đụng hoài”…
Vậy là nhà hàng đóng cửa. Thúy quyết định ngồi nhà 1 tháng để suy nghĩ chín chắn trước khi bắt đầu một công việc khác. Ngồi buồn, nên Thúy viết chơi, mỗi ngày một đoạn, chắp lại những mảnh hồi ức của một cô bé 10 tuổi theo gia đình vượt biên. Lúc được chừng 20 trang, một anh bạn tới chơi, đọc qua và nói sẽ đem tới nhà xuất bản. Lúc đó, Kim Thúy vẫn không nghĩ là mình sẽ viết nổi một cuốn sách.
Thời gian ngồi nhà để suy nghĩ kéo dài vài tháng và cuốn sách ra đời. Nói đúng ra nó là tập bản thảo mà Thúy không nghĩ nó có giá trị gì. Người bạn ôm tới cái máy in và “cả 2 hì hục in ra 1 bản“.
Nhà xuất bản ngay lập tức đồng ý và tới lúc đó chị mới đặt cho nó một cái tên. “Ru” tiếng Pháp là một con suối nhỏ, tiếng Việt là lời ru, lời ru của mẹ. Thúy muốn cuốn sách nhỏ của mình giống như một lời ru hay một dòng suối róc rách. “Ru” không phải là câu chuyện rành mạch với thứ tự thời gian, không gian và cũng không được kể theo lối kể chuyện thông thường. Đó là những mảnh chắp vá của một ký ức xen lẫn hiện tại, một cách kể chuyện có vẻ rất tùy hứng nhưng lại theo một logic riêng của nó. Logic đó được tác giả giải thích: “Mỗi lần ngồi vào viết, Thúy thường đọc lại những phần trước và thấy phải tiếp tục thế này, chứ không phải thế khác. Rồi đến một hôm thấy, cuốn sách đến đó là hết…”.
Sẽ có người đọc cảm thấy hụt hẫng khi cuốn sách kết thúc, dường như tác giả phải viết thêm một tập khác nữa hay một phần tiếp để câu chuyện đầy đủ hơn. Nhưng Thúy cho rằng, lời ru của mình chỉ đến đó thôi, nó thoang thoảng, nhẹ nhàng như cơn gió.

Cùng Kim Thúy (áo đỏ) trong phòng khách sạn tại Warsaw
Phi chính trị
Thỉnh thoảng, đâu đó trên đường phố Quebec hay Toronto, một người Việt Nam không quen biết túm lấy Thúy để chia sẻ hay kể lể chuyện gì đó. Họ tìm thấy hình ảnh của mình, câu chuyện của mình hay một kỉ niệm na ná như mình trong “Ru”. Hàng trăm ngàn thuyền nhân đã vượt biển trong thập niên 70 và 80 của thế kỉ trước, ai cũng có thể tìm thấy hình bóng của mình ở “Ru”.
Nhưng cuốn sách không mang thông điệp chính trị và “không đứng về phía bên này hay phía bên kia”, dù ngay phần mở đầu sách nói, tất cả những người ra đi đều chung một nỗi sợ cộng sản. “Ru” của Thúy đứng ở giữa, nói đúng hơn, nó là ký ức phi chính trị của một cô gái nhỏ.
Nhưng vì thế cũng có thể ”Ru” sẽ không được cả 2 phía người Việt đón nhận. Cộng đồng người Việt Canada đã có những người “đánh tiếng” tới tác giả với lời trách cứ tại sao không chống cộng sản, không kết tội cộng sản, không lên án chế độ. Nhưng cũng có người hiểu và muốn trao giải thưởng cho Thúy.
Ngược lại, Việt Nam cũng không muốn có “Ru”, ít nhất là ở thời điểm hiện tại. Khi một tấm bia tưởng niệm thuyền nhân ở nơi xa xăm nào đó còn bị đập bỏ thì một cuốn như “Ru” là điều chế độ không thích. Nhưng cũng có những tín hiệu nhất định. Thúy cho biết, sau khi đại sứ quán Canada ở Hà Nội tổ chức ra mắt sách, đã có người ngỏ ý muốn xuất bản nhưng với điều kiện phải cắt đi một số trang.
Sở dĩ “Ru” có một quan điểm cân bằng, không hận thù ngoài việc Thúy chỉ là một cô bé khi chiến tranh kết thúc, còn có một lý do khác nữa. Chị đã từng làm việc ở Việt Nam 5 -6 năm từ 1994 hay 1995 gì đó tới năm 2000. Thời gian 4 năm đầu Thúy làm ở Hà Nội trong vai trò luật sư theo một dự án của chính phủ Canada liên quan tới pháp luật và cải cách hành chính. Tiếp đó, chị vào lãnh sự quán Canada tại Sài Gòn làm thông dịch viên.
Thúy coi đây là một may mắn hơn người. Không phải ai vượt biên rồi cũng có thể trở về Việt Nam làm việc một thời gian dài như vậy và những năm tháng đó đã giúp chị tiếp xúc, tìm hiểu, thậm chí kết thân với những người “ở phía bên kia” chiến tuyến. Chị nhận ra rằng, cả 2 đều là nạn nhân của chiến tranh. Họ giống như những quân cờ trong bàn cờ thế giới, những quân cờ bị điều khiển bởi các thế lực lớn, các cường quốc. Miền Bắc nghĩ họ vào giải phóng miền Nam vì trong đó khổ lắm, thiếu tự do lắm, người Nam cũng chẳng biết gì về miền Bắc. Tóm lại đó là “một cuộc xung đột của hai phía không hiểu nhau”. Rồi Thúy cười lớn, “có thể sang Mỹ, Thúy sẽ bị cộng đồng bên đó bắn mất”.
Vượt biên xưa và nay
“Ru” là câu chuyện của người vượt biên, nói đúng ra là thân phận nhỏ bé của họ. ‘Cơn gió thoảng’ mà Thúy đưa tới khiến nhiều người rơi lệ.
Cả trăm người đủ mọi lứa tuổi bị lèn chặt cứng trong khoang chiếc tầu cũ, ranh giới giữa cái chết và sự sống, giữa trời và đất, giữa thiên đường và địa ngục đều ở đó. Không còn cảm giác về thời gian, khi ngày nào cũng như ngày nào. Không còn cảm giác về không gian, khi bầu trời và mặt biển lẫn vào nhau giữa một mầu xanh bất tận. Không còn cảm giác về mùi vị, ngay cả khi người ta bị người khác đái hay mửa vào… Và nơm nớp nỗi lo cướp biển, chết đói, hết dầu hay không bao giờ tới được đất liền.
Gia đình Thúy may mắn hơn rất nhiều những người đã bỏ mạng trên biển cả. Họ tới được trại tị nạn ở Malaysia và sau đó định cư tại Canada. Câu tiếng Anh duy nhất mà cô bé còn nhớ khi ở trại là “My boat number is KG0388″. Nhưng đó cũng là câu mà cô không bao giờ dùng đến vì không ai hỏi cô, họ cũng không (thèm) hỏi, cô là trai hay gái mà kéo tụt chiếc quần của cô xuống để ghi giới tính vào tờ khai. Một đứa trẻ gầy đét, xơ xác thì trai hay gái trông cũng giống như nhau!
Rồi những ngày đầu ở Quebec. Cô đã ngồi khóc cả buổi vì bị mẹ sai đi mua đường, nhưng không dám vào cửa hàng hỏi; sự nồng hậu của dân bản xứ, khi họ lùng khắp vùng để mua gói gạo mời cô tới ăn nhưng cô đã gần như nhịn đói ra về vì không biết dùng dĩa; rồi những ngày sau giờ học, mặc chiếc áo rách đi làm chui ở cánh đồng để kiếm thêm mấy đôla.v.v.
Trong ký ức của “Ru” cũng không thiếu những điều ngộ nghĩnh đến bật cười, như chuyện anh lính trẻ từ miền Bắc khi kiểm kê tài sản gia đình cô, đã kê cả những chiếc áo nịt vú viền đăng ten của phụ nữ. Rồi cha cô, ngày nay nhìn vào bức ảnh ông đang cười tươi, ai cũng có thể dễ dàng nhận ra, chiếc áo len kiểu chẽn ông đã diện cả năm trời sau khi mua ở chợ hạ giá ngày mới tới Quebec là một chiếc áo đàn bà!
Câu chuyện giữa chúng tôi xoay quanh đời sống, thân phận của những người vượt biên. Đến lượt chúng tôi kể cho Thúy nghe về những mảnh đời trôi nổi ở Đông Âu, về những gian truân của họ. Mức độ có thể không bi thảm như xưa, nhưng không thiếu máu và nước mắt. Không thiếu những người chết trên đường vượt biên vì đói, rét, kiệt sức, bệnh tật hoặc ngạt thở vì bị chèn chặt trong những chiếc xe tir. Và đâu đó có những phụ nữ bị hãm hiếp, bị lạm dụng, bị đưa đẩy vào những đường dây mại dâm.v.v.
Có khác chăng những người vượt biên xưa được thế giới dang tay vì lý do chính trị. Ngày nay, người Việt ra đi không còn được chào đón nữa, thậm chí không ai muốn nhận nữa.
Nhưng vì lý do kinh tế hay chính trị thì đây đều là những con người và mảnh đời của họ, thân phận của họ thoang thoảng nét giống nhau. Cũng có thể, một phần vì lý do đó, “Ru” trở nên ‘đắt hàng’. Di dân đang là vấn đề toàn cầu nhưng chưa có nhiều tác phẩm viết về nó. Chẳng thế mà, một thành phố của Ý, nơi đang tràn ngập di cư gốc Phi muốn đem “Ru” ra để các nhân viên xã hội ở đây nghiên cứu, học hỏi và họ muốn trao một giải thưởng cho cuốn sách.
“Giải thưởng tùm lum hết, nhiều giải lắm”- Kim Thúy chia sẻ. Không ai ngờ một cuốn sách đầu tay của một người chưa bao giờ viết lách lại gặt hái thành công lớn như vậy. “Ru” đã được dịch ra 15 thứ tiếng và xuất bản ở 20 nước.
Sau thành công đầu tay, Kim Thúy viết cuốn thứ 2 cùng một người khác mà “không biết có gọi là bạn được không”. Thúy quen tác giả người Pháp kia khi cả 2 vào chung kết một giải sách ở Monaco. Hai người ngồi ăn trưa với nhau chừng một tiếng và quyết định cùng viết một cuốn sách. Cuốn sách viết chung đã xuất bản, cũng thành công không kém và đang được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Trong chiếc va li nhỏ mà chị mang theo trong hành trình chu du mấy nước châu Âu là cuốn sách thứ 3, vẫn theo lối viết, kể tùy hứng. Tuy vậy, Kim Thúy không biết, mình có trở thành hay có muốn trở thành người viết văn chuyên nghiệp không. “5 năm đổi nghề một lần, mà Thúy viết văn như vậy được 3 năm rồi đấy“- chị vui vẻ chia sẻ.
Cuốn “Ru” ấn bản tiếng Ba Lan được ra mắt cùng sự có mặt của tác giả tại nhà sách ”Wrzenie świata”, địa chỉ ul. Gałczyńskiego 7, Warszawa, vào 19 giờ ngày 27/11.
© Đàn Chim Việt
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/69490
======================================================================
Chú ý:  Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
           Sẽ xóa những comment nói tục
           Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001