Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

Gánh hát cải lương và chuyện Nam Vang đi dễ khó về 

Ngành Mai, thông tín viên RFA
2013-06-15
lan-va-diep-305.jpg
Hình ảnh Thành Được và Thanh Nga trong vở Lan và Điệp.
Photo courtesy of diendan.cailuongso.com



Những năm đầu của thập niên 1940 gánh hát Phụng Hỏa do nữ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há thành lập đã đi diễn khắp cả 3 miền đất nước. Sau thời gian lưu diễn trên nhiều tỉnh từ Nam ra Bắc, Má Bảy Phùng Há quyết định đoàn Phụng Hảo sang xứ Chùa Tháp, phục kiều bào ta ở Campuchia.

“Trai đi có vợ gái về dẫn con”

Trước đây tôi có dịp tiếp xúc với Má Bảy Phùng Há ở Chùa Nghệ Sĩ Gò Vấp năm đó bà đã ngoài 90 nhưng còn minh mẩn. Tôi có đề cập đến việc khi xưa đoàn Phụng Hảo đi lưu diễn bên Campuchia, thì Bảy kể lại rất nhiều chi tiết về đoàn Phụng Hảo lúc đó. Má Bảy nói rằng thời kỳ 3 nước Đông Dương với chính quyền là người Pháp, còn xài chung một thứ tiền (Banque de l’Indochine) việc đi lại giữa 3 nước dễ dàng, nên cuối năm 1945 đêm chót hát tại Tân Châu, Châu Đốc bà cho dọn gánh Phụng Hảo xuống ghe (có tàu máy kéo) ngược dòng sông Cửu Long lên Nam Vang hát tại rạp Kim Phụng. Lúc đầu dự tính hát vài tháng rồi trở về, nhưng hễ bớt người đi coi sắp sửa dọn về thì khán giả đông đảo trở lại quá mức, thì hết cả gánh đâu còn ai muốn về nữa, cứ như thế mà lần lựa mãi đến gần 5 năm.
Và bà cũng nói thiên hạ nói rằng “Nam Vang đi dễ khó về, trai đi có vợ gái về dẫn con” thì quả đúng như vậy đối với gánh Phụng Hảo lúc đó. Có mấy cô đào đóng vai phụ, vai tỳ nữ lên đây hát thời gian rồi có chồng ở Nam Vang, lúc về chỉ để thăm  nhà rồi trở lại đất Campuchia. Còn kép hát thì mấy người có vợ bên đó rồi ở luôn không về nữa. Lần đó gánh Phụng Hảo đóng trụ luôn một rạp Kim Phụng cho đến 1950 mới đáo trở về Sài Gòn, như vậy kể như gần 5 năm mà đêm nào cũng có khán giả, người mình ở bên đó ham thích cải lương vô kể.
Kiều bào ta ở Nam Vang phần đông là những người gốc từ các tỉnh Miền Nam, qua bên đó lập nghiệp rồi ở luôn, có người thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 và có thể thứ 4, thứ 5, mà tổ tiên của họ đã rời đất nước Việt Nam từ lâu đời, như vậy không thể nói là họ thấm nhuần cải lương hơn ở các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Long Xuyên, Rạch Giá vốn là những cái nôi của cải lương cổ nhạc. Thế nhưng do đâu mà họ lại mến mộ cải lương một cách mạnh mẽ, ủng hộ bộ môn nghệ thuật này còn nhiều hơn ở trong nước, dám “nuôi” một đoàn hát nằm một chỗ đến những 5 năm trời.
Vấn đề trên thì người am hiểu thực trạng, tâm lý Việt kiều ở Campuchia, họ nói rằng kiều bào ở bên Campuchia tâm trạng chung của họ là buồn vì xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc xóm giềng, nỗi buồn viễn xứ luôn luôn canh cánh bên lòng, mà nguồn an ủi của họ lúc bấy giờ không có gì hơn là cứ chiều chiều gom lại rạp hát cải lương gặp người đồng hương tâm sự chuyện trò. Ban ngày họ tỏa ra đi làm ăn tứ tán, tối đến thì tập trung ở rạp Kim Phụng là rạp hát duy nhứt ở Nam Vang có hát cải lương. Không khí ở đây làm cho họ bớt nhớ nhà, bởi ngoài rạp hát ra còn có cả phê hủ tiếu, tiệm tạp hóa buôn bán những món hàng từ Việt Nam đem sang, coi như ở khu vực quanh rạp hát này là địa điểm sinh hoạt của kiều bào ta vậy. Lâu ngày chày tháng thành thói quen, hôm nào không đến đây là coi như thiếu cái gì đó, và do số người tập trung đông đảo thì dĩ nhiên số người muốn coi hát cải lương cũng không ít, họ rủ nhau đi coi, không tiền mua vé thì có người thân bạn bè bao cho, bữa khác bao lại, cứ như thế mà gánh hát luôn luôn có khán giả.

Đất Nam Vang linh thiêng


phung-ha-305.jpg
Nữ nghệ sĩ Phùng Há

Cũng trong lần tiếp xúc đó tôi có hỏi Má Bảy có biết tại sao mà “Nam Vang đi dễ khó về”, có thật như vậy cho nhiều người không, và câu nói đó có từ bao giờ thì Má Bảy nói rằng câu nói đó đã có trong dân gian từ lúc nào đâu ai biết, nhưng rất nhiều người nhìn nhận như vậy, họ chứng minh bằng trường hợp của người này, hoàn cảnh của người kia. Người ta nói đất địa Nam Vang linh thiêng, nếu đã ăn cơm ở đó, làm ăn được ở đó thì không chuyện này thì chuyện khác xui khiến cho không rời khỏi được, mà phải ở lại thôi. Có người còn chỉ cho cách nếu muốn về nước, thì cứ âm thầm đừng nói ra, đừng tuyên bố gì hết, rồi bất ngờ ra xe, xuống tàu thì về được, chớ còn nói ra, từ giã bạn bè thân hữu trước khi đi thì coi như bị trở ngại gì đó bắt buộc phải ở lại.
Đó là đối với những người bỏ quê hương xứ sở lên Nam Vang làm ăn, còn cải lương thì tình trạng khác với người lên đây lập nghiệp, người ta khi kiếm được số vốn thì muốn về thăm quê hương, còn gánh hát cải lương thì ngược lại, ngày nào có tiền vô là ngày đó còn người coi, thì lại càng muốn ở lại hơn, chỉ khi nào ít khán giả thì mới tính đến chuyện rời khỏi. Thế mà cải lương cũng bị Nam Vang đi dễ khó về.
Má Bảy thuật lại rằng, người nọ làm ăn có dư tiền, dự tính về Việt Nam cả mấy tháng trước, đồ đạc quần áo vô sẵn vali, chỉ chờ ngày lên đường, nhưng vào giờ chót thì bị bệnh bất ngờ phải ở lại điều trị, đến khi hết bệnh thì tình hình đã đổi khác, công chuyên làm ăn phải ở lại giải quyết, thế là hết về! Một trường hợp khác, ông nọ làm ăn khá, dành dụm được nhiều tiền dự tính về Việt Nam cất nhà cho rỡ mặt với bà con xóm làng. Sửa soạn đâu đó xong xuôi đi từ giã bạn bè thì gặp sòng bài, lúc đầu định chơi vài ván cho vui, tới chừng thua thì muốn gỡ, càng gỡ lại càng thua, cuối cùng thì bao nhiêu tiền kiếm được ở Nam Vang phải trả lại đất Campuchia mà còn thêm nợ. Đó là nói sơ qua một vài trường hợp, chớ còn hằng trăm hằng ngàn trường hợp khác tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người đâu thể kể hết được.
Có lúc con số khán giả bị vơi, gánh hát chuẩn bị dọn về nước thì tự nhiên đông đảo người đi coi hát khiến cho phải ở lại tiếp tục hát. Vấn đề này đa số người trong gánh hát đều cho rằng đất Nam Vang linh thiêng giống như thiên hạ đồn đãi, nhưng riêng Má Bảy thì bà một phần cũng tin nơi vô vi huyền bí, nhưng phần khác thì cũng tìm hiểu thực tế như thế nào, và đã tìm ra căn nguyên của vấn đề.
Bà nói số là kiều bào ta ở Nam Vang rất nhạy cảm với cải lương, lúc gánh hát mới dọn đến là thiên hạ rủ nhau đi coi, hầu như ai cũng muốn coi qua vài tuồng, ít nhứt cũng một lần thưởng thức hương vị quê hương. Họ không nhứt thiết phải coi đêm đầu mà mấy đêm sau cũng được, không bữa này thì bữa khác, bởi họ biết gánh hát còn ở đây lâu, chớ không lẽ mới lên lại dọn về.
Thế nhưng, đến khi nghe đồn gánh hát sắp sửa dọn về nước thì thiên hạ lại ùn ùn đi coi, người ta có ý tưởng khó còn dịp, bởi một khi gánh hát quay về Việt Nam rồi thì khó mà lên đây trở lại, một hai năm sau chưa chắc có gánh hát nào dọn lên, do đó mà họ thu xếp công việc đi coi, chớ không thôi thì không còn dịp. Không riêng gì bà con ở Nam Vang mà kiều bào đang sinh sống ở những nơi xa xôi như Cần Ché tức tỉnh Kratié, trong đó có nhiều người gốc ở Long Xuyên lên đây làm nghề thợ mộc, mở trại mộc. Những người có nghề chài lưới họ tập trung ở Biển Hồ, cả những người ở Siêm Riệp và tận Battambang gần biên giới Thái Lan, cũng về Nam Vang mà mục đích là coi cải lương, thành ra suốt hơn hai tháng trời, rạp hát Kim Phụng khán giả chật ních.
Sau đợt đó, người coi hát vừa giảm bớt thì lại gần Tết, mà Tết đến thì dù ở đâu gánh hát cũng hốt bạc, dọn đi làm chi cho tốn kém. Cũng giống như người Việt ở Mỹ hiện nay, phần đông ăn hai cái Tết: Tết Dương Lịch và Tết Nguyên Đán, ở Nam Vang người Việt mình cũng ăn tới hai cái Tết: Tết ta và Tết Campuchia. Mùa nước ở Campuchia thì ai nấy cũng đều nghỉ xả hơi, người Campuchia lẫn người Việt nghỉ ăn chơi cả tháng, bỏ tiền ra ăn xài, ở Campuchia dễ làm ăn họ xài tiền không biết tiếc. Đối với gánh hát cải lương thì Tết ai cũng được, miễn là có người đi coi là bán vé, bán càng nhiều càng vui vẻ cả làng Câu chuyện gánh hát Phụng Hảo hát suốt 5 năm tại một rạp Kim Phụng ở Nam Vang, cũng như chuyện bên lề còn dài, kỳ tới chúng tôi sẽ nói tiếp.

Chuyện vui cải lương

Và bây giờ cô Triệu Mỹ Ngân, sẽ kể lại câu chuyện vui của cải lương hồi năm 1945.
Người Việt Nam mà sao không biết ăn mắm kho?
Soạn giả Thanh Cao khi còn là nghệ sĩ hát ở gánh Đồng Thinh của bầu Hai Liêm, lúc đoàn đang hát tại Giồng Trôm, Bến Tre, thì xảy ra biến cố Nhựt đảo chánh, ngày 9 tháng 3 năm 1945.
Đoàn tạm ngưng hoạt động, nghệ sĩ Thanh Cao đi lang thang ngoài chợ, tướng anh cao lớn như Tây, mũi cũng cao lại mặc đồ Tây tươm tất. Thời này ở vùng quê đa số thiên hạ mặc đồ bà ba đen, hoặc trắng, mà Thanh Cao lại ăn diện như Tây, nên lính Nhựt thấy Thanh Cao nghi anh là Tây lai nên bắt đem về đồn. Tin này làm xôn xao cả chợ Giồng Trôm, hề Giáo Xe liền mang giấy tờ chứng minh Thanh Cao không phải là Tây lai, nhưng lính Nhựt không tin. Lính Nhựt còn dò biết Thanh Cao biết rành tiếng Pháp nên chúng càng nghi. Bởi vậy qua viên thông ngôn lính Nhựt hỏi anh:
“Này, anh có biết ăn mắm kho không?”
Thanh Cao từ nhỏ đến lớn không ăn được mắm nên trả lời:
“Dạ, tôi không biết ăn mắm kho.”
Lính Nhựt cười, càng khẳng định anh là Tây lai và đem nhốt vào khám. Lúc vào nhà giam Thanh Cao tự trách mình là người Việt mà không tập ăn mắm kho như mọi người, nên mới khổ như vầy. Mãi đến mấy hôm sau ông bầu Hai Liêm đích thân đến đồn Nhựt làm giấy bảo lãnh Thanh Cao, anh mới được thả ra và đoàn tiếp lưu diễn.
nguồn:http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/traditional-music-0615-nm-06152013123133.html
======================================================================
Gánh hát cải lương và chuyện Nam Vang đi dễ khó về (phần 2)

Ngành Mai, thông tín viên RFA
2013-06-22
phungha04-305.jpg
Nghệ sĩ Phùng Há trong vở tuồng Mộng Hoa Vương.
Ảnh tư liệu gia đình


Nếu như một đoàn hát cải lương mà nay hát chỗ này, mai dời đi hát chỗ nọ, thì vấn đề tuồng tích chẳng phải là việc bận tâm cho bầu gánh, nhưng nếu hát một chỗ lâu ngày suốt 5 năm chỉ một rạp như gánh hát Phụng Hảo của Má Bảy Phùng Há ở Nam Vang thì tuồng tích là cả một vấn đề, một khó khăn bắt buộc người bầu gánh phải quan tâm mỗi ngày.

Kỷ lục lưu diễn

Người ta còn nhớ khoảng cuối thập niên 1950 gánh Hoài Dung Hoài Mỹ, vốn liếng chưa được 10 vở hát, kể cả những tuồng không ăn khách ít khi được mang ra hát. Thế mà vẫn đủ dùng, bởi lẽ tuồng hát ở tỉnh này, khán giả coi qua rồi kể như cũ, nhưng đi chỗ khác thì mới trở lại, bởi ở đó người ta chưa coi. Do vậy mà ông bà bầu là soạn giả Nguyễn Huỳnh và đào Hoài Dung chẳng hề lo lắng.
Lúc ấy đoàn có một vở hát mang tên tựa “Người Mẹ tội lỗi” của chính soạn giả Nguyễn Huỳnh là tuồng ăn khách, đoàn dọn đến đâu cũng hát tuồng chủ lực đó, có khi một địa điểm mà diễn đến hai, ba đêm, bởi khán giả còn mua vé đi coi thì tuồng lại tiếp tục hát, chắc ăn hơn là tuồng khác mà có thể ít người đi coi, xưa nay là thế.
Tuồng “Người Mẹ tội lỗi” vừa hát đêm chót tại Bình Dương, hai hôm sau đã thấy dựng bảng hát ở Đồng Xoài, rồi vài hôm nữa thì thấy Người Mẹ tội lỗi lại xuất hiện ở Ban Mê Thuột. Khán giả ở đây vừa coi tuồng này được vài ngày, thì tài xế chiếc xe đò từ Kontum về, báo cho biết, ông vừa đưa đào kép của gánh hát lên đó, trong lúc còn đang xuống đồ đạc thì đã thấy đoàn mướn xe lam đi rao quảng cáo hát tuồng Người Mẹ tội lỗi. Và khi dọn xuống Qui Nhơn, đi dọc theo miền duyên hải ra Đà Nẳng, Quảng Trị, bất cứ địa điểm nào tuồng ăn khách nói trên cũng được diễn. Về sau đoàn Hoài Dung Hoài Mỹ rã gánh, soạn giả Nguyễn Huỳnh trao tuồng “Người Mẹ tội lỗi” cho ông bầu Xuân, đổi tên là Tướng Cướp Bạch Hải Đường, trình diễn trên sân khấu Dạ Lý Hương cũng rất ăn khách. Các kỳ sau tôi sẽ có bài nói chuyện về tuồng Tướng Cướp Bạch Hải Đường.

602612_250.jpg
Nghệ sĩ Phùng Há và Ba Vân trong vở Khi Người Điên Biết Yêu. Ảnh tư liệu gia đình.
Giờ đây trở lại chuyện gánh hát Phụng Hảo của Má Bảy Phùng Há, lên hát ở Nam Vang vào cuối thập niên 1940, đã đạt một kỷ lục bám trụ, mà sau này nhắc lại người trong giới ai cũng thán phục, thèm thuồng. Và như đã nói nếu gánh hát rày đây mai đó, thì tuồng hát cũ chỗ này, nhưng lại mới chỗ kia, chớ như gánh hát nằm một chỗ suốt 5 năm như gánh Phụng Hảo thì dĩ nhiên Mà Bảy phải tìm cách nào đó có tuồng lạ để hát, chớ không lẽ cứ hát đi hát lại mãi những tuồng đã diễn qua nhiều lần rồi, ai coi lại không chán.
Hát một rạp từ năm nầy sang năm khác thì bao nhiêu tuồng cũng đem ra xài hết, kể cả những tuồng ít ăn khách đã bỏ qua một bên từ lâu, cũng được chiếu cố. Người ta còn nhớ lúc đoàn Kim Chung vô Nam, năm đầu cũng đi lưu diễn như các gánh hát trong Nam thì thất bại, khán giả miền Nam không thích coi lối hát của đào kép miền Bắc dù rằng đào Kim Chung rất nổi tiếng. Do đó mà ông Bầu Long mới bỏ tiền vốn ra thuê mướn dài hạn rạp Aristo, cho đoàn bám trụ nằm thường trực tại rạp này.
Có lúc Kim Chung hát cả tháng chỉ một tuồng mà vẫn có khán giả, do là nhờ tình hình lúc đó đồng bào miền Bắc mới di cư vào Nam, phần đông thất nghiệp trăm phần trăm. Buồn quá! Nhớ quê hương, nhớ người thân kẻ thuộc ở lại ngoài Bắc. Sẵn tiền trợ cấp của Phủ Tổng Uỷ Di Cư, họ bỏ ra chút ít đi coi hát giải buồn. Mà coi cải lương thì chỉ có đoàn Kim Chung là thích hợp đối với họ, nên Kim Chung hát cả tháng chỉ một tuồng vẫn có khán giả là vậy.
Còn gánh Phụng Hảo ở Nam Vang thì không có 3 yếu tó “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” như đoàn Kim Chung lúc đó, phải thay đổi tuồng mới có khán giả. Gánh hát của Má Bảy chuyên hát tuồng Tàu, các tuồng Lữ Bố Điêu Thuyền, Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, Thần Nữ dưng Ngũ Linh Kỳ, Đào Tam Xuân, Trảm Trịnh Ân, Mộng Hoa Vương, Kinh Kha thích khách Tần Thủy Hoàng, Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê, Tái Sanh Duyên, Mạnh Lệ Quân thoát hài v.v... nói chung tuồng nào cũng hát qua trên cả chục lần, khán giả đã nhàm chán, chưa biết xoay sở ra sao để giữ khán giả, thì một bữa nọ vợ chồng nghệ sĩ Năm Châu, Kim Cúc từ Sài Gòn lên thăm Má Bảy cùng anh chị em nghệ sĩ, và sẵn dịp thăm bạn bè người thân ở bên Miên. Khi đi Năm Châu mang theo một số tuồng như Sân Khấu Về Khuya, Vợ Và Tình, Khi Người Điên Biết Yêu, Đoạn Tuyệt.v.v... nghệ sĩ Năm Châu đề nghị với Má Bảy hát tuồng xã hội, bà đồng ý ngay, bởi lý do gánh hát đã cạn tuồng, phải thay đổi khẩu vị cho khán giả, đồng thời cũng cho Năm Châu có số tiền bản quyền, chi phí trong thời gian ở Nam Vang. Các vai thì Năm Châu chia vai với kép chánh Tư Út, và đào Kim Cúc cũng có vai trò.

Kép chánh Tư Út

Thay đổi tuồng tích khán giả đi coi đông không thể tưởng, chỉ nội tuồng Đoạn Tuyệt do soạn giả Năm Châu phóng tác theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nhất Linh, mà hát suốt ba tuần vẫn còn đầy nghẹt khán giả. Lên thăm Nam Vang lần đó Năm Châu dự tính có một tháng, mà ở luôn ba tháng, làm cho gánh Phụng Hảo tiền vô như nước, đào kép đi chợ Nam Vang mua sắm phủ phê, và vợ chồng Năm Châu Kim Cúc lúc ra về cũng nặng túi. Má Bảy cũng nói thêm rằng hai vở tuồng thu tiền nhiều nhứt ở Nam Vang là: Mộng Hoa Vương, tức “Một Đêm Trăng Trong Vườn Ngự Uyển”, và tuồng Đào Tam Xuân Báo Phu Cừu, tức “Trảm Trịnh Ân”. Nhưng 2 tuồng này đã không còn hát từ năm 1948, tức kể từ ngày kép chánh Tư Út đột quỵ trên sàn diễn ở Nam Vang.

NamChauPhungHa-250.jpg
Từ trái sang: Từ Anh, Năm Châu, Tư Út, Phùng Há, Ba Liên trong Tuồng Khúc Oan Vô Lượng, gánh Trần Đắc ở Cần Thơ diễn trên sân khấu khoảng năm 1931. Hình: Ngành Mai sưu tầm.

Nghệ sĩ Tư Út nổi tiếng cùng thời với Năm Châu, Năm Phỉ, Tư Chơi, Tư Sạng, Kim Thoa, Phùng Há, Hề Tỵ... ông từng đóng vai Điệp và cô đào tài sắc Năm Phỉ vai Lan, trong tuồng Hoa Rơi Cửa Phật. Trong tuồng Tái Sanh Duyên thì Tư Út đóng vai Hoàng Phủ Thiếu Hoa, Năm Châu vai Lưu Khuê Bích và Phùng Há vai Tô Ánh Tuyết. Tư Út đầu quân gánh Phụng Hảo, theo đoàn đi Nam Vang hát tại đây suốt mấy năm liền, và là kép chánh đóng cặp với nghệ sĩ Phùng Há nên khá nhiều người biết mặt.
Tuồng Trảm Trịnh Ân, nghệ sĩ Tư Út đóng vai Trịnh Ân được khan giả ngợi khen đáo để, người ta xúc động nhứt là cảnh Trịnh Ân bị ngự lâm quân dẫn ra pháp trường, dàn nhạc trỗi lên bản Nam Ai lớp mái, khiến người coi hát rụng rời, họ oán trách Hàng Tố Mai và Hàng Phụng Người ta cho rằng cái “trung” của Trịnh Ân thật là phi lý, quá đáng, bị người đời sau chê trách và lập luận của thiên hạ thì ít ra Trịnh Ân cũng phải chờ gặp vua để biết tự sự rồi có chết cũng được, đâu có muộn màng gì. Đằng nầy thấy chiếu của vua là chịu chết mà không một phản ứng nào hết, để cho sự thể xảy ra làm lớn chuyện luôn. Có đọc truyện Tàu ai cũng biết do Hàng Tố Mai phục rượu Triệu Khuôn Dẫn say mèm, không còn biết gì nữa rồi cầm tay cho ông vua phê chiếu đem Trịnh Ân xử trảm.
Đến màn Đào Tam Xuân kéo binh về báo thù chồng cũng được khán giả cho là quá hay, nghệ sĩ Phùng Há trong vai Đào Tam Xuân, đã ra lệnh quân binh tướng sĩ lục soát tam cung lục viện, bắt được Hàng Tố Mai trốn ở dưới chiếc ngài vàng. Cái chẳng nể nang ông vua chút nào của Đào Tâm Xuân, kẻ khen người chê. Số đông khán giả thuộc lớp người “dân chủ” thì khen phải làm như vậy mới được, bằng không gian thần lộng quyền. Còn thiểu số theo “Quân chủ chuyên chế” thì nói rằng “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, họ chê Đào Tâm Xuân vì câu “phu phụ tình thâm” mà quên đi cái chữ “Quân thần nghĩa trọng”.
Cảnh chót Đào Tam Xuân cho lập bàn hương án, và Hàng Tố Mai thì bị quấn chặt bằng vải tẩm dầu, làm cây đèn cho Đào Tam Xuân tế chồng. Cảnh này nghệ sĩ Phúng Há ca bài Nam Ai lớp mái có đoạn: “dầu tử sanh thì cũng liều thân vợ mà nguyện trả được thù chồng”. Vừa dứt tiếng  “thù chồng” thì rạp hát vang dậy, khán giả chú tâm theo dõi cảnh đốt Hàng Tố Mai. Đèn sân khấu tắt, thay Hàng Tố Mai giả vào (hình nộm) đốt vừa cháy lên là hạ màn ngay để lấy mền trùm lại cho tắt.
Kép chánh Tư Út được hoan nghinh nhiều nhứt là vai Trịnh Ân, và Má Bảy nói nếu như nghệ sĩ Tư Út chưa chết thì chắc rằng tuồng Trảm Trịnh Ân còn thu tiền dài dài ở Nam Vang. Do căn bệnh nào mà kép chánh Tư Út chết ở Nam Vang. Và cũng kể từ đó Má Bảy Phùng Há không hát trở lại tuồng Mộng Hoa Vương lần nào nữa. Tại sao vậy? Kỳ tới chúng tôi sẽ trình bày tiếp.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/traditional-music-0622-nm-06212013122732.html
=====================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001