Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Thảo Trường - Cơn Sốt (1 - 5))

Thảo Trường - Cơn Sốt (1) 

   at 3/16/2013 10:31:00 AM


Thảo Trường

Tôi nhẹ nhàng bốc lên cao ra khỏi ông. Tôi bay lơ lửng xung quanh căn phòng mổ nhìn xuống cái thân xác tô hô trần truồng một đống của ông. Vẫn thở đều đặn. Vẫn còn gọi là sống nhưng ông chẳng thể biết gì. Cái ông xấu xí nằm thản nhiên không một ý thức, không một thái độ, không một lập trường, không một cảm xúc... Một xác sống giống một xác chết. Một xác sống không phải là sống. Một xác sống vô ích. Một cái xác... chưa chết. Vì ông không có tôi trong ông. Tôi và ông lúc này đây đã cách lìa nhau và chúng ta không thể được coi là một con người sống. Ông hữu hình nằm đó mọi người đều thấy nhưng ông không biết gì. Tôi vô hình bay lơ lửng chẳng ai thấy nhưng tôi biết hết. Chúng ta là hai cái thiếu nếu ở riêng. Chỉ khi nào hai ta gộp lại thì mới có thể thành ra một thứ gì đó. Một thứ gì đó có ý nghĩa. Chỉ mình ông thôi là vô ích. Chỉ mình tôi thôi cũng là vô ích nốt. Hóa cho nên cả hai phải nhập làm một. Không ai tự coi mình là độc lập. Không ai tự tách rời khỏi nhau. Không ai trong hai ta có thể tự mình làm nên cái này cái nọ. Cũng không ai trong hai ta một mình mà có ý nghĩa. Chúng ta là thứ vô ích một mình. Chúng ta là thứ vô nghĩa một mình. Chúng ta là thứ thừa thãi một mình. Chúng ta là đồ bỏ nếu ta đòi độc lập. Cả hai ta chẳng có tự do hạnh phúc nếu mỗi bên đòi độc lập. Ông phải có tôi nhập vào và tôi cũng phải có ông làm nơi cư trú. Chúng ta phải bám víu lấy nhau. Chúng ta phải nương tựa nhau. Chúng ta phải lệ thuộc nhau. Không có cách nào khác. Đừng bao giờ tính kế mánh khóe riêng tư. Vô ích phí phạm lập tức. 


Bây giờ ông nằm đó, đủ cả ba phần, đầu, mình và tay chân, nhưng ông chẳng thể cục cựa. Ông có cái mồm nhưng ông chẳng thể nói năng nếu không có tôi nằm trong ông điều khiển cái lưỡi cũng như tôi có muốn nói cũng chẳng ra lời nếu không núp trong thân xác ông xử dụng miệng lưỡi ông. Mắt ông mở thao láo nhưng ông có nhìn thấy gì đâu. Người nữ y tá nghịch ngợm búng nhẹ vào cái sinh dục teo rụt đen đủi của ông mà đực tính trong ông có chút nào sinh động đâu, thậm chí khả năng bẽn lẽn mắc cỡ thường tình cũng không hề thấy. Thì đã bảo ông như một kẻ đã chết. Nhịp tim đều đặn, hơi thở phì phò nhưng đâu có nghĩa là ông đang sống. Vô thức thì như là chết vậy. Ông phải có tôi ở trong ông. Phải có tôi ở trong ông thì mới biết được cô ý tá đã làm gì và chúng ta mới biết cảm xúc. Tôi đang thấy tất cả nhưng tôi không cảm xúc được. 

Tôi thấy căn phòng mổ rộng rãi hơn các căn phòng khác. Phòng bệnh nhân nằm điều trị cũng như các căn phòng làm việc của nhân viên bệnh viện đều được xây dựng nhỏ bé, cái gì và chỗ nào cũng chỉ như vừa khít. Nhưng căn phòng mổ này thì rộng rãi thênh thang, có lẽ để cho toán giải phẫu và các sinh viên y khoa thực tập có chỗ bao quanh xoay xở. Cái bàn mổ nằm ngay giữa phòng. Phía trên là chùm đèn chiếu, loại đèn người ta gọi là không hắt bóng. Đầu bàn mổ cũng có một cây treo bình nước truyền thuốc. Một chiếc máy truyền hình sẽ soi buồng bụng ông lên đó. Bác sĩ chưa đến, trong khi ấy các y tá sắp đặt các dụng cụ phẫu thuật sẵn sàng, để khi bác sĩ tới là có thể khởi đầu ngay một cuộc phanh thây. Tôi sẽ bay quần quần trên này để... xem, như là ngày xưa ông bay trực thăng quần quần trên không theo dõi quân lính của ông đánh trận bên dưới. 

Ngày xưa ông trên cao điều khiển. Bây giờ ông nằm một đống. Nhưng bao giờ ông cũng hữu hình bao giờ ông cũng có mặt. Tôi thì bao giờ cũng là vô hình, xưa cũng như nay bao giờ tôi cũng là kẻ vắng mặt. Vì ông hữu hình nên ông hứng nhận cả vinh quang lẫn khổ nhục. Ông hưởng đủ sung sướng cũng như đau khổ. Ông che đậy bằng quần áo đẹp còn tôi trong suốt. Ông ăn những của ngon vật lạ, sơn hào hải vị, còn tôi chỉ thưởng thức chút hương hoa lấy thảo. Ông ôm người đẹp cụ thể trong vòng tay còn tôi thì chỉ bay lượn rạo rực, lãng mạn, không tưởng. Không biết ông còn nhớ những bà Ph, bà Ch, bà Th, bà H, bà K, bà M, bà V, bà L... ối nhiều lắm, có thể ông chẳng nhớ hết nhưng tôi thì còn nhớ rõ mồn một từng người, dù rằng ông mới là kẻ thưởng thức chứ không phải tôi. Có thể ông đã quên, cũng có thể ông chỉ nhớ mang máng, nhưng tôi thì còn nhớ rõ, các bà ấy bây giờ đều đã là những bà lão sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Bà thì đang sống vương giả với tài sản bên Tây, bà thì đang sống bằng tiền hưu bên Mỹ, cũng có bà đang sống trong nhà già, có bà còn kẹt lại nơi quê nhà trong cảnh nghèo nàn cơ cực... Ông có còn nhớ bà nào không? Các bà ấy cũng có còn nhớ tới ông không? Có bà nào giờ này biết rằng ông đang nằm trên bàn mổ. Giờ này ông có nhớ đến họ hay là họ có nhớ đến ông thì cũng đều là vô ích với tư cách hữu hình. Họa may chỉ còn có tôi và linh hồn các bà ấy có thể liên hệ với nhau, dĩ nhiên cũng chỉ ở trong cõi u minh không thật. Những thân già của ông cũng như của quí bà ấy bây giờ đều là bất lực, là vô ích, là thừa thãi... Cứ nghĩ mà coi, này nhá, cái khối da thịt xương của ông bây giờ chứa đựng những gì bên trong? Toàn là những thứ khó ngửi. Đầu tóc ông sinh ra gầu. Mắt ông đùn ra ghèn. Mũi ông hỉ ra cứt mũi. Lỗ tai ông có ráy tai. Miệng ông tiết ra nước miếng và đờm. Da ông rịn mồ hôi. Bộ phận sinh dục tè ra nước tiểu hoặc phun ra tinh dịch. Hậu môn thải ra phân... Tất cả những thứ từ trong người ông tiết ra đều là những thứ dơ dáy. Vậy mà cái thân xác ấy đã có những thời lãnh nhận vinh quang cao cả, quần là áo lượt, cân đai mũ mãng, son phấn rực rỡ, bằng cấp huân chương... làm thành ra cái xã hội muôn mầu muôn vẻ cũ kỹ từ tạo thiên lập địa cho đến bây giờ và sẽ còn tiếp diễn cho đến mãi mãi đời sau nếu không có đấng tạo hóa nào đó... chấm dứt nó đi. 

Nói là nói thế thôi, ông cũng đừng để tâm hay buồn phiền làm chi những cái vớ vẩn ấy của cuộc đời, bởi vì khắp “bàn dân thiên hạ” ai ai cũng đều thế cả. Cái thực chất, cái cốt lõi, cái cơ bản…của các sinh vật đều là thế cả. Nội dung chính yếu là thối tha. Vĩ nhân hay mỹ nhân, thánh sống cao cả hay phàm phu tục tử cũng đều phải ăn phải uống và đương nhiên là phải bài tiết. Ông không cô đơn làm kẻ thối tha. Các sinh vật khác vì chúng là hạ đẳng không có ý thức, không văn minh nên trời sinh ra sao chúng cứ sống in như vậy, con người các ông thuộc giống thượng đẳng, có ý thức, dần dần văn minh, biết tìm ra đủ mọi phương cách, chế ra đủ thứ mánh mung, để che đậy thối tha, giấu giếm cái xấu, tô đẹp bản thân, làm dáng bề ngoài. Nhưng thực chất bên trong thì vẫn vậy. Con chó ỉa xong không chùi đít. Con người làm xong cái phận sự ấy thì đã biết lau chùi tắm rửa, dùng hóa chất tẩy sạch mọi thứ ô uế bên ngoài, xức “nước hoa hảo hạng”, “dầu thơm đắt tiền”. Con người còn biết cải trang xấu thành đẹp. Hút mỡ bụng. Căng da mặt. Xâm chân mày. Cắt mắt. Viền môi. Độn mũi. Bơm ngực. Đắp mông. Cắt. Gội. Sấy. Chải. Nhuộm. Uốn... Toàn thân phủ lên những vải vóc màu sắc kiểu cọ... Tất cả, vâng tất cả đều để che đậy cái thối tha bên trong mà thôi. Ở trong các trại giam của cộng sản, chúng tước đoạt hết tất cả các thứ của tù nhân, ăn cũng chỗ ấy, ngủ cũng chỗ ấy, ỉa đái cũng chỗ ấy, không nước rửa, không giấy lau, đói lả người ra thì chúng phát cho củ khoai củ sắn, thế là tất cả mọi giá trị của cuộc đời đều tụ vào cái thứ có khả năng làm cho người ta đỡ đói ấy. Danh dự, đạo đức, sang trọng, cao cả đều sàn sàn bằng nhau. Thơm tho ngang bằng với thối tha. Ông cụ ạ!

Chúng ta đang dang nhau ra. Không biết tạm thời hay vĩnh viễn. Có Trời mà biết được. Khi nào thì tôi và ông lại nhập vào nhau. Con người họ cậy là biết tất cả, các nhà khoa học đều đã biết hết và có thể điều chỉnh cho hai ta dang nhau lâu mau rồi cho nhập lại. Họ có thể bắt ông hôn mê bao lâu đủ thời giờ để làm công việc “phanh thây”, xong mới cho ông “tỉnh” lại. Nghĩa là họ có thể định cho chúng ta xa nhau bao lâu rồi cho tôi nhập vào với ông để chúng ta lại trở nên như một. Tất cả chỉ là vấn đề liều lượng của thứ thuốc mê nhân tạo. Họ làm được hết. Thế nhưng thử hỏi nếu như tôi mải mê bay đi mà quên mất đường về, mê gái chẳng hạn..., ừ, nếu như tôi không tìm ra lối nhập trở lại với ông... thì sẽ ra sao. Thuốc mê tan hết nhưng ông không “tỉnh” lại được thì sẽ ra sao? Tôi với ông tuy hai nhưng phải là một. Rời nhau là chết ngắc. Con người cho chúng ta rời nhau dễ dàng rồi lại cho chúng ta gộp lại cũng rất dễ dàng, nhưng cũng là tại hai ta, nếu như một trong hai ta phản đối, đúng ra lỗi tại tôi, ông chẳng can dự gì, thì đã bảo thân xác ông chỉ biết ăn, ngủ, đ... , ị... , lui cui làm hoài không cần phải có sáng kiến lãnh đạo gì cả..., ừ, nếu như tôi đình công phản đối thầy thuốc, không chịu thuần phục khoa học của con người, tôi chần chờ không trở lại chốn cũ... thì kể như hóa kiếp chúng ta. Ông sẽ thối xác, còn tôi thì đi làm một kiếp ma đói lang thang vất vưởng biết tìm đâu ra một cõi khác dung thân. 

Ông nằm đó. Tôi bay lượn trên cao. Theo chương trình giải phẫu thì ông sẽ mê hai giờ đồng hồ. Trong đó dành từ 45 phút đến một tiếng để các bác sĩ làm việc. Một phần thời gian trước đó cho các chuyên viên chuẩn bị và một phần để ông nằm nghỉ ngơi chờ hồi tỉnh. Trong hai tiếng đồng hồ con người định cho ông mê đi để khỏi đau đớn trong mổ xẻ là thời gian tôi được giải phóng, tôi thoát ra khỏi ông, tôi tự do bay bổng. Hai giờ đồng hồ trần gian ấy của ông, đối với tôi có thể là hai thiên niên kỷ, hai ngàn năm qua đi, bởi vì tôi có thể biến hóa khôn lường, tôi chợt đến rồi chợt đi, chợt ở nơi này chợt ở chỗ khác, chợt bây giờ và có thể chợt lộn về quá khứ xa xưa. Tôi có thể đi cùng trời cuối đất. Tôi có thể có mặt ở khắp các thời đại. Ông là xác phàm. Tôi là hư vô. Ông nằm đấy cho người ta mày mò, mâm mê, cắt xẻo... Tôi sẽ lang thang khắp thiên đàng, địa ngục, cũng như nơi trần thế. Tôi muốn đi đâu thì đi. Tôi muốn ở đâu tùy ý. Hai giờ đồng hồ của ông sẽ là hai ngàn năm của tôi. Tôi tự do. Tôi rộng chân rộng cẳng. Tôi phiêu bồng, lang thang khắp chốn. Tôi muốn làm gì thì làm. Tôi muốn đi đâu thì đi. Tôi hét lên thật lớn. Ta tự do. Ta hoàn toàn tự do. Ta sẽ hành động. Ta sẽ xử. Ta sẽ giải quyết. Ta sẽ khởi đầu và ta cũng sẽ kết thúc. Cho mà biết... 

*

Tự nhiên ông ôm bụng kêu đau. Lúc đầu còn đau hơi hơi, ông ráng chịu được, sau mỗi lúc mỗi đau hơn, chịu hết nổi, ông phải buông cái máy điện toán, ông phải rời bỏ cái màn hình, lọm khọm đi ra cửa sau gọi bà lão ngoài vườn vào... cứu. Nếu không bị cơn bệnh nó hành thì ông đâu có nhớ tới bà. Suốt ngày ông mải theo mê cung những chuyện trên trời dưới đất, mặc cho bà lão tự do cũng đang mải mê cùng hoa lá cành nơi thửa vườn của bà. Lúc đầu nghe ông gọi bà lão vẫn tỉnh bơ ư hừ, việc ai người ấy làm, việc ông ông lo, trò chơi của bà bà theo đuổi, không có kêu réo gì cả. Sau nghe ông rên rĩ thảm thiết, lại còn nghe ông xẵng giọng nổi nóng “Đau quá! “, bà lão chột dạ, quăng cái cào cỏ, đi vào nhà thì thấy ông chồng yêu quí của mình nằm lăn quay nơi cửa sau. Bà hoảng hốt đỡ ông vào giường rồi gọi điện thoại cho các con. Anh này được tin mẹ báo xong gọi cho anh khác, chỉ trong một lát, đàn con đông đảo của ông bà rải rác khắp nơi đều biết tin bố bị bịnh phải đưa đi cấp cứu. Người đến trước bèn chở bố đi bệnh viện. Ở phòng cấp cứu một lát thì đàn con cũng kéo tới đông đủ. Họ thì thầm hỏi nhau. Ông được chích thuốc giảm đau cho nên ông nằm yên được và các biện pháp xét nghiệm tiến hành: Đo nhiệt độ, đo áp huyết, thử máu, thử nước tiểu, chụp quang tuyến lồng bụng ông... Đến tối thì bác sĩ đã có thể kết luận là túi mật của ông có ba cục sạn nó làm cho mật sưng lên, phải mổ gấp cắt bỏ nó đi. 

Từ xưa nay ông là kẻ nhát gan, rất sợ mổ xẻ, nghe nói đến mổ là ông phát khiếp. Nhưng sợ hãi cũng phải chịu, càng sợ càng phải chịu. Hồi chiến tranh Việt Nam ông đã bị mổ bụng lấy ba mảnh đạn ra, bây giờ còn để lại nơi bụng ông một vết sẹo to và dài suốt từ trên xuống dưới hình chân rết, trông như bụng ông có gắn cái khóa zipper. Hồi đó ông cũng đâu có quyền chịu hay chẳng chịu. Ông bị đạn ngoài chiến trường, người ta tản thương chở ông về Tổng Y Viện Cọng Hòa, bác sĩ khám xét xong đẩy ngay vào phòng giải phẫu, các “tay đao” chuyên nghiệp cừ khôi của quân y Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa ra tay. Nhanh. Gọn. Nhẹ. Lập tức. Cấp kỳ. Chẳng cần hỏi ý kiến ông, mà ông cũng có biết gì nữa đâu mà phát biểu ý kiến. Khi ông tỉnh ra thì mọi chuyện đã xong xuôi, cuộc giải phẫu hoàn thành mỹ mãn, ông thoát chết, may phước chứ còn sợ hãi với chịu hay chẳng chịu gì nữa. Nhân đây, phải nhiệt liệt vinh danh các vị bác sĩ quân y QLVNCH, là những thầy thuốc được đào tạo trong cuộc chiến Việt Nam và đã trưởng thành nghề nghiệp trong cuộc chiến ấy. (Nhiều lắm, nhưng tôi giúp ông nhắc tới vài vị đã có liên hệ đẹp với ông để ông nhớ làm kỷ niệm. Ông đốc Nguyễn Đình Văn, ông đốc Tôn Thất Sang...) Họ trưởng thành trong gian nguy, trong máu lửa, mà không có ngành y khoa nào trên thế giới có cơ hội như họ. Phải nhìn nhận rằng cuộc chiến Việt Nam đã làm đui chột đi nhiều giá trị, nhưng cuộc chiến ấy cũng đã rèn luyện được những nhân tài và làm giàu thêm những giá trị khác, trong đó có trình độ y khoa điều trị ngoại thương. Chiến tranh khốc liệt từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm... đã tấp nập đem về các trạm xá, các quân y viện, lớn, nhỏ, khắp các quân khu, những thương binh đủ loại, cho các quân y sĩ... thực tập. Chắc cũng có những oan uổng rủi ro, nhưng những rủi ro oan uổng đó cũng đã góp công đào tạo! Này ông, tôi nói như thế, về phần thân xác ông, ông thấy thế nào? Ông có góp phần không? 

Một người nằm cho một người khác xắn tay áo, cầm dao, quơ quơ, rồi mổ đánh xoẹt banh bụng mình ra gắp những mảnh đạn chiến tranh vứt vào thùng rác, cứu mạng mình, thì ai là kẻ đóng góp. 

Vết sẹo hình con rết to tướng nằm dài trên bụng ông đã khiến các nhà y khoa trẻ tuổi tài ba của nước Mỹ ngạc nhiên. Họ không hiểu được tại sao trước kia lại phải mổ banh bụng to đến thế. Bởi vì y khoa ngày nay mà họ được dạy dỗ đã có những tiện nghi máy móc khoa học tân kỳ và những phương pháp y khoa điều trị mới lạ. Bác sĩ không còn cần phải mổ banh bụng bệnh nhân ra mới có thể cắt bỏ hay khâu vá những gì trong đó. Bây giờ người ta chỉ cần khoét vài ba cái lỗ, nhét vào trong đó những dụng cụ, rồi các bác sĩ dùng remote control điều khiển các dụng cụ cắt, hút, bắn phá, khâu vá, hàn gắn... theo hiện trường trên màn hình TV. Giải phẫu xong bệnh nhân không có con rết nào ở bụng, nhưng có thể có thêm vài ba cái rốn nữa. Ông thì đã có một con rết to tướng ở bụng kỷ niệm cuộc chiến đã qua, lần này ông chỉ thêm rốn cho đủ dấu ấn của các thời đại. Những chàng trai trẻ râu xồm tài ba sẽ làm cho ông những cái rốn mới nhưng họ lại rất ngạc nhiên trước con rết không cần thiết, vì thế họ gọi nhau đến xem, cũng là nghiên cứu học tập mà thôi. 
  
Những chàng trai trẻ tài ba thay phiên nhau từng thế hệ làm việc xây dựng nên một cường quốc hàng đầu thế giới. Họ sinh ra trong một xã hội có truyền thống tự do vững vàng, họ tự do học hành, họ tự do phát biểu, họ tự do hành động, họ tự do sống... cho nên vào cái thời kỳ ông cùng với những đồng minh tham chiến chống chủ nghĩa cộng sản tại chiến trường Việt Nam, vào cái lúc ông nằm trên bàn mổ ở Tổng Y Viện Cộng Hòa cho các bác sĩ quân y mổ bụng, thì ở Nữu Ước cũng có những chàng trai trẻ biểu lộ sự chống đối cuộc chiến đó bằng khẩu hiệu “Makes love, not war”. Nằm trong quân y viện đọc báo thấy hình ảnh những anh biểu tình, ông bèn mỉm cười gọi họ bằng hai chữ “Cu Tý” thân ái. Phải rồi ai mà nỡ lòng bắt những thanh niên đẹp đẽ mà chúng ta thường trông thấy họ ở các trường đại học, trước các rạp hát, ngoài bãi biển... trông họ dễ thương sung sướng thế ấy, đưa họ đến những bãi lầy, những cánh rừng rậm, những rẻo núi cao, những bãi cát sa mạc... để họ đổ mồ hôi rồi hứng những phát đạn tươm máu... Phải rồi, nhìn những chàng thanh niên đang sung sướng ấy, ai mà nỡ lòng dứt họ ra khỏi cuộc tình để đẩy họ vào tầm sát hại của thần chết. Họ đòi makes love not war là đúng. Có phải thế không hả ông Lê Tất Điều? Tội lắm! Ai đang tâm... đòi kẻ khác phải từ bỏ sung sướng lao vào chốn khổ ải. 

Bây giờ những chàng trai trẻ chống chiến tranh ngày ấy có người đã trở thành những nhà lãnh đạo, họ trưởng thành hơn, họ chín chắn hơn, nhưng dĩ nhiên họ cũng vẫn còn phong độ để “yêu” rất chăm chỉ, họ đắn đo trong quyết định tham chiến ở Đông Timor, thế là các cựu chiến binh, nay đã là các bác già nhớ lại chuyện cũ, bèn cầm biểu ngữ ra đường nhắc nhở “Bill, makes war not love”. Ông cũng lại đang nằm nhà thương cho người ta mổ bụng, cầm tờ báo thấy hình chiến hữu già vác biểu ngữ, khoái quá ông gật gù tìm thấy kẻ đồng điệu. Ngày xưa trong chiến tranh ông thông cảm với các Cu Tý, ngày nay trong hòa bình ông cũng vẫn yêu các Cu Tý. Những Cu Tý của thời đại. 

Nhìn “con rết” trên bụng ông nhớ lại hồi đó sao tôi khờ quá, tôi thoát ra khỏi thân xác ông cũng khá lâu, lần ấy không chỉ hai giờ đồng hồ mà là gần một ngày ông hôn mê đi, tôi có bằng ấy thời gian tự do song chẳng biết làm gì cứ ngu ngơ quanh quẩn bên giường bệnh với ông để chờ tới lúc đoàn tụ. Khi khôn ra thì cơ hội lại rất hiếm và rất ngắn. Thời thế mỗi lúc mỗi khó khăn. Lúc trẻ cứ bám lấy nhau chẳng dám xông pha vùng dậy. Bây giờ già khú đế cả lũ mới tỉnh ra thì đã muộn. Đừng huênh hoang nói rằng không bao giờ là muộn. Sắp hết thế kỷ, lại cũng sắp hết cả thiên niên kỷ, không muộn thì cũng chẳng còn như cũ. Sẽ xảy ra những gì? Ai mà biết được? Cơ hội đến nhưng tình thế lại đã khác. Không có cái nào giống cái nào. Không có cái dại nào giống cái dại nào. Ở đó mà nói mạnh “không muộn”. Nghĩ lại hồi đó mà tôi biết thừa cơ lâu dài bay tuốt lên thiên cung, không chừng bây giờ đã có cơ ngơi trên ấy. Hồi đó mà tôi dám bỏ ông tôi đi thì nay tôi không bị mắc mứu cuộc đời trần tục thê thảm này với ông... 

Trước khi người ta mổ cho ông người ta cũng phải xin phép hãng bảo hiểm sức khoẻ xem có bằng lòng trả tiền không đã rồi mới làm, không rồi ai chịu đài thọ đây. Trong khi chờ quyết định của hãng bảo hiểm, ông ráng chịu đau, ở xứ sở này nó là như vậy. Cái gì cũng phải tính thành tiền, và phải có người, có nơi, chịu trách nhiệm trả. 

Khi ông sang tị nạn tại Hoa Kỳ thì các con ông cũng đã phải ký nhận đủ thứ trách nhiệm về ông kể cả đóng tiền làm hồ sơ và mua vé máy bay chở ông đi. Sự thể đâu có giản dị như ông tưởng tượng khi nằm trong nhà tù cộng sản. Hồi đó ông chỉ hiểu rất ngây ngô về chủ nghĩa thực dụng, tôi có lưu ý mà ông không nghe. Bây giờ ông mới vỡ lẽ ra rằng... chủ nghĩa thực dụng là... cụ thể. Củ khoai là củ khoai. Ông sang đây chẳng có cái “minh ước” nào giúp đỡ ông lúc đầu cũng như lúc cuối. Các con ông chúng phải lo cho bố thay vì đáng lẽ bố phải lo cho con. 

Khi bệnh viện được phép của hãng bảo hiểm, cô y tá đẩy chiếc bàn nằm vào phòng, cô kiểm soát lại tên tuổi ông theo hồ sơ bệnh lý, xong cột vào cổ tay ông  một cái vòng có bấm mã số của ông, ông lão nghĩ cái vòng này để... nhà xác đối chiếu với hồ sơ khi tẩm liệm và di chuyển ở nhà quàn để khỏi lầm lẫn với những xác chết khác. 

Cô cởi hết áo quần cho ông rồi quàng vào người ông một chiếc áo choàng nhà thương. Tháo nhẫn, đồng hồ của ông trao cho cô con gái giữ. Ông lão mủi lòng thấy là giờ... biệt ly đã tới. Con gái cưng đi theo xe Bố ra hành lang, vào thang máy, lên lầu 3, nơi có phòng mổ. Cô cầm tay Bố nói: 
– Không sao đâu. Bố đừng... sợ!  

Ông lão nghẹn ngào:  
– Má đâu?  

– Sắp tới.  

Lúc đó tôi chưa ra khỏi ông. Tôi thấy ông làm phiền cuộc đời quá. Cái thân xác ông làm phiền cuộc đời quá. Ông phải ăn. Ông phải uống. Ông phải mặc. Lại còn muốn ăn ngon mặc đẹp. Với bao nhiêu nhu cầu tiện nghi phục vụ cho cuộc sống. Nào bảo hiểm sức khỏe, nào lỗ đất chôn. Rồi lại đau lại ốm, phải cấp cứu thuốc thang, bao nhiêu giấy tờ thủ tục phép tắc tốn kém tiền bạc... trăm dâu đổ đầu tằm... 

Tôi nè, tôi nhẹ tênh, tôi chẳng làm phiền ai, tôi chẳng gây tốn kém gì. Tôi thênh thang trên... vạn nẻo đường đời! 

Trên lối đi dích dắc qua các hành lang rồi chui vào thang máy lên phòng mổ lầu 3, ông hỏi con gái ông “Má đâu?”, xong ông lại hỏi “Con bé đâu?” Làm như giờ phút lâm chung, trước khi qua bên kia thế giới, ông chỉ nhớ tới có hai người đó để trối trăn, còn bao nhiêu người khác, các con trai con gái ông, các bà bạn gái của ông, và tôi nữa, tôi nè, chẳng thấy ông hỏi han ngó ngàng gì tới. 

Ông chỉ gọi tên vợ, tên con, tên cháu ông... lúc ông sợ chết. Ông là kẻ bạc tình. Qua cơn đau ốm, đến hồi khoẻ mạnh, ông sẽ lại chạy theo tiếng gọi của những người tình. Có thể không ai biết. Nhưng tôi biết. Ông giấu giếm được người đời nhưng ông không che mắt tôi được. Tôi không che khuất núi non và núi non cũng không che mắt được tôi. 

Tôi nhắc cho ông nhớ rằng tôi là một nửa của chúng ta, ông đừng quên rằng cái nửa tôi vô hình mới là chính, làm nên tất cả; cái nửa vật chất hiện hữu của ông chẳng qua chỉ là để đứng ra làm “bảng hiệu, bằng khóan”, là căn cứ cho tôi xuất chinh. Ông phải nhớ ra rằng có tôi trong ông chứ, giờ phút sắp “vượt biên” mà ông lại quên tôi, ông chỉ hỏi tới bà lão của ông, ông chỉ hỏi tới con bé cháu nội của ông. Là ông bạc. Tôi mà đi luôn là ông “tắt bếp”. 

Ngày hôm qua khi ông còn nằm chờ xét nghiệm, con bé nó vào thăm ông, từ trên tay bố nó sà xuống với ông thân thiết như là hai người bạn thâm giao. Mỗi tối thứ sáu hàng tuần nó được ngủ lại với nội để sáng thứ bảy nội cho nó đến nhà thờ. Con bé thấy người ta làm gì nó bắt chước làm theo, giáo dân chắp tay nó cũng chắp tay, người ta cúi đầu nó cũng cúi đầu. Khi ông nội bế cháu lên rước lễ, vị linh mục đặt miếng bánh vào lưỡi ông cho ông nuốt và làm phép dấu thánh giá trên trán nó, con trẻ thấy ông nội được ăn mà nó thì không bèn ngạc nhiên lắm. Nó nhìn miệng ông nội nhai nhóp nhép, đưa tay cạy miệng ông đòi móc bánh ra. Nội phải nuốt chửng kẻo sợ cháu móc mất. Nội bậm miệng thật chặt, cháu cố sức moi ra. Cuộc giành giật diễn ra trong yên ổn từ trên bàn thờ xuống tới cuối nhà thờ. Ông được ăn. Tất cả mọi người đều được ăn. Cháu thì không. Con bé ngơ ngác. Bà nội phê phán:
– Ông cháu làm toàn những sự không phải, thiếu nghiêm trang. 

Về tới nhà ông mới cãi: 
– Ông cũng đúng mà cháu cũng đúng. Mỗi người đều mỗi đúng theo cách của mình. 

Đến lúc ngồi ăn sáng ở tiệm phở trên đường Bolsa,  nhìn ông xúc phở cho con bé ăn, bà nội lại nói: 
– Ông cháu đi nhà thờ mà như đi chơi, rước lễ mà như ăn bánh, theo đạo mà như theo đời…

 Ông nội nói với con bé: 
– Ông cháu mình là chính thống. Bà chỉ là nghi lễ. 

Chúng ta cứ phải chính thống một cách tự nhiên. 

Con bé thấy ông bà nói nó cũng é lên góp chuyện. Bà để ngón tay trên miệng suỵt khẽ: 
– Không được ồn ào trong tiệm ăn. Ông phải dạy cháu. 

Ông lại cãi:  
– Để cho con trẻ sống tự nhiên. 

Bà nói: 
– No. 

Con bé lè từ miệng ra tay sợi bánh phở đưa cho ông, ông há miệng nhận, bà lắc đầu: 
– Khiếp. Bẩn. 

Ông cãi: 
– Cho con bé nó thích. 

Bà phê: 
– Chiều quá nó sẽ hư. 

Ông phán :  
– Cháu nếu hư tại bà.  

Ngưng. Rồi tiếp:  
– Nhưng con bé đâu có hư. Nó rất ngoan. Cháu ngoan cũng tại bà.  

Lát sau:   
– Chẳng qua là nó tự nhiên. Con trẻ tự nhiên là tốt, cứ để cho nó phát triển tự nhiên, bà đừng can thiệp nhiều quá.

Bà nói:   
– Trăm dâu đổ đầu tầm, hư cũng tại bà, ngoan cũng tại bà.   

Ông gật đầu:
– Có nghĩa là mẹ và bà có ảnh hưởng hơn hết tới con cháu. Vì thế bà và mẹ phải luôn gương mẫu.   
– Biết rồi. Ai cần dạy.   

– Không nhắc sẽ quên. 

Lúc y tá chuyển ông lên phòng mổ không có bà mà cũng chẳng có cháu. Cả hai đều phải về nhà ngủ, khi tới nơi thì ông đã mê đi không còn biết gì nữa. Chỉ còn có tôi bay lượn thấy hai bà cháu ngồi chờ ở phòng đợi bên ngoài cùng với cả gia đình. Con bé nhảy choi choi trên lòng bà, bà thẩy nó sang cho bố nó: 
– Ông nội chiều nó quen rồi, phá phách quá bà chịu gì nổi. Ông làm khổ rồi đến cháu cũng lại làm khổ. 

Khi con bé ôm cổ bà hôn thì bà lại khen:
– Nó giống ông nội. Cầu xin cho ông nội được chóng lành bệnh. 

Ông nằm một đống bình an vô sự trong khi tất cả nhà, vợ con và cháu ông nữa bỏ hết công việc làm ăn sinh sống để đến đây ngồi lo âu, chờ đợi. Họ chẳng nhìn thấy tôi, họ chẳng biết tới tôi, vợ con và cháu ông chẳng ai biết rằng tôi nè, tôi mới chính là thực chứ không phải cái thân xác xấu xí nằm thoi thóp bất lực trong phòng mổ mà họ ra công ra sức lo âu cúc cung tận tụy phụng dưỡng. Cái thân xác xấu xí hiện diện trước cuộc đời đã chẳng làm nên sự nghiệp gì cho bản thân và gia đình, lại còn là một trong những kẻ bại trận lưu vong, để lại nơi quê hương xứ sở thảm cảnh cho những người đã trót cậy trông vào chế độ. Kẻ chiến bại bây giờ nằm đây, nằm một... đống ở đây, cho bao nhiêu người ngoài kia liên lụy. Nếu như chẳng may ông không qua khỏi con trăng này, thì cũng lại chính ông được ma chay lễ nghi an táng, với những cáo phó phân ưu chia buồn cảm tạ, hoa, đèn, phúng điếu... “Vô cùng xúc động!” Người ta làm những cái đó cho ông chứ không phải cho tôi. Nhưng rồi sau rốt thân xác ấy cũng nằm sâu trong lòng đất trong khi tôi sẽ bay bổng. Chẳng ai biết tôi nhưng chẳng lẽ tôi lại cũng chẳng biết ai. Không, tôi phải biết chứ. Tôi phải biết ông là ai và tôi là ai chứ. 

Đành rằng làm thân xác thì có ăn có chịu. Xuất hiện để lãnh vinh quang cũng như nhận nhục nhằn, trong khi kẻ nép mình trong hư không chẳng phải chịu một hình phạt cũng như khen thưởng nào cả. Núp trong hậu trường có cái thân phận của kẻ vắng mặt Ánh đèn mầu chỉ chiếu ở nơi sân khấu. Khán giả cũng chỉ xem thấy những gì ở sân khấu. Thế cho nên người ta phúng điếu ông là chuyện thường tình ở huyện. Và chẳng ai nói gì đến tôi cũng là chuyện thường tình ở xã. Nhưng tôi vẫn cứ không yên lòng khi thấy vợ, con, cháu chắt ông chỉ chăm lo cho cái thân xác xấu xí của ông mà chẳng đoái hoài gì tới tôi lơ lửng quanh đây. Đâu có ai thích bị bỏ rơi. Ai chẳng thích được hưởng mà không phải chịu trách nhiệm. Ai chẳng khoái “bất chiến tự nhiên thành”. Ai chẳng muốn “chỉ trỏ” là công đầu. Tôi “đánh giặc” ông nhận huy chương. Tôi “lãnh đạo” ông nhận thù lao. Chẳng qua là vì ông “mặt nổi”, tôi “chìm” cho nên sự thể nó mới ra như thế. Chẳng qua là cờ không tới tay. Nhưng “được tiếng” để làm gì cơ chứ.

Giờ đây ông nằm một... đống. Còn tôi thênh thang. Và không biết sẽ còn những gì nữa xảy ra. Khi mà người bác sĩ giải phẫu vào phòng bắt đầu công việc của ông ta. 

*

Ông dẫn bà lão đi thăm người cháu bịnh ung thư gan. Anh ta mới hơn bốn mươi tuổi đời mà đã gặp nạn. Khi khám phá ra trong cơ thể có nan y thì y khoa đã bất lực. Sau ba lần giải phẫu thầy thuốc lắc đầu, bảo hiểm y tế không chịu trả chi phí thêm nữa, bệnh viện đưa về nằm chờ tại gia, anh ta thiêm thiếp hôn mê, thân xác gầy gò da bọc xương, hơi thở thoi thóp, mắt nhắm lại đôi khi mở ra thì chỉ lờ đờ. Cô chú ghé lại gần gọi tên cháu, mắt cháu hé mở và chợt từ trong âm u nghe tiếng cháu thều thào hai tiếng “Thưa cô!” Bà cô bật khóc. Ông chú nghĩ ngay tới một lúc nào đó mình cũng sẽ như thế. Sẽ kiệt sức và tuyệt vọng đi dần tới chỗ giã từ. Nhưng liệu mình có thanh thản ra đi như thế được không? Liệu có sẵn sàng chấp nhận sự chấm dứt bình thản?

“Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống Trời ơi là Trời... “Lá xanh bay theo gió còn cái lá vàng là ông vẫn bám được vào cành cây... Mấy hôm sau tới nhà xác thăm cháu, thấy anh ta được đặt nằm trên cái giường đẩy, quần áo chỉnh tề, tóc tai cắt tỉa chải rẽ gọn gàng, hai tay chắp trên bụng lần chuỗi tràng hạt của bố cho, khuôn mặt thản nhiên yên nghỉ, ông chú lại nghĩ liệu mình tới phiên có “tỉnh táo” được như thế không. Căn phòng để xác cháu mát lạnh, ánh đèn vàng dịu, bức tranh trang trí trên tường vẽ cây cối hoa lá và mấy con chim vành khuyên bay nhảy... tạo cho ông chú một cảm giác êm ái bình an. Bà cô thì lại khóc, ông lão vỗ về nhè nhẹ vai bà, có lẽ bà chẳng thể quên được cái giây phút đứa cháu, mà bà đã coi sóc hồi nhỏ, trước khi bước sang thế giới bên kia lại còn nói được với bà lời cuối: “Thưa cô”. 

(Còn tiếp)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/03/thao-truong-con-sot.html
======================================================================
Thảo Trường - Cơn Sốt (2) 
   at 3/17/2013 11:05:00 AM



Thảo Trường
(Tiếp theo và hết)

Cô y tá mang bao tay nylon trong và mỏng vào tay cho ông bác sĩ, một cô khác mang khẩu trang cho ông. Mọi sự diễn ra thuần thục và nhanh chóng. Xong, mọi người bước tới đứng bao quanh chiếc bàn mổ. Bệnh nhân nằm đó. Ông nằm đó. Vẫn một đống. Tô hô. Bất động. Tôi vẫn đánh đu trên chùm đèn nhìn xuống. Hình như tôi hồi hộp. Lạ thế. Đáng lẽ kẻ hồi hộp là ông. Tôi ăn nhập gì mà phải lo lắng nhỉ. Sinh mạng của ông đang đặt trên bàn mổ mà ông tỉnh bơ. 

Người ta sắp bắt đầu một cuộc mổ xẻ thân xác ông, họ chẳng thể đụng tới tôi, vậy mà tôi run rẩy, còn ông coi như... pha. Nếu có mệnh hệ nào thì người ta đem ông đi chôn, còn tôi, tôi sẽ bay bổng, thế thì việc gì mà tôi phải sợ. Hay là giữa chúng ta còn có cái gì liên hệ ràng buộc. Phải chăng chúng ta còn có tình có nghĩa với nhau? Hơn thế nữa chúng ta không phải hai mà chỉ là một? Nếu thế thì tại sao kẻ mê người tỉnh? 

Ông bác sĩ quan sát khắp lượt, những chuyên viên và những máy móc dụng cụ, ông nhìn kiểm soát và những người trong phòng mổ cũng nhìn lại ông để trả lời, tất cả những cái nhìn qua lại đều rất quen thuộc, nghề nghiệp. Chỉ bằng những cái nhìn đó phòng giải phẫu đã được thẩm định. 

Rồi ông bác sĩ nhìn những tín hiệu trên các máy theo dõi áp huyết, nhịp tim, nhịp thở, trong khi một chuyên viên làm sạch vùng bụng ông bằng cái bình xịt và khăn lau giống như người ta xịt và lau tấm gương trong phòng tắm. Da bụng ông đã sạch và đã sát trùng. Ở cái vùng bụng này, xưa kia các bà ấy đã gối đầu lên mà hít hà. Ông bác sĩ cầm lấy cổ tay ông nghe mạch, xong bóp bóp xoa xoa vùng bụng bệnh nhân, tất cả những cử động ấy diễn ra bài bản thói quen. Và giờ phán xét đã điểm. Tôi thương ông quá. Khi ông bác sĩ cầm lấy con dao mỏng nhọn và bén rạch hình chữ thập sát bên lỗ rốn ông thì tôi suýt bật khóc, tay ông ta thoăn thoắt lưỡi dao, rạch rạch nhiều lần, mở sâu thêm cái lỗ xuyên qua lớp da mỡ và thịt bụng ông, ôi máu ông chảy ra... Y tá lau lớp máu trong cơ thể ông tươm nơi bụng, họ dùng khăn thấm chậm chậm nhè nhẹ, vết mổ cầm máu. Tôi “nín thở”. Ngày xưa máu nơi này cũng đã đổ ra vì sự nghiệp tham chiến chống cộng sản, nhưng nay thì ông không nhân danh một cái gì cả cho những giọt máu đào này. Lần trước ông đổ máu để gắp những mảnh đạn trong bụng cho khỏi chết. Lần này ông đổ máu cũng để khỏi chết nhưng không bởi kẻ thù mà là vì chính cái cơ thể ông sinh chuyện. Không mổ cắt cái mật sưng vất đi thì ông cũng sẽ chết. Có cái chết tử đạo thì cũng có những cái chết tử nạn. Lần trước ông đổ máu vì chính nghĩa sao tôi không biết nghĩ ngợi, lần này nhìn máu ông tươm ra tôi lại hồi hộp lo âu. Người ta đối xử với nhau thân thiết hay hận thù đâu có phải chỉ vì chủ nghĩa mà có khi bởi giằng co dây mơ rễ mái tình cảm thầm kín nào đó. 

Ông bác sĩ đưa một vật gì đó như một cái que xuyên qua cái lỗ mới khoét  cạnh rốn, bác sĩ ấn sâu vào, ông ta vặn qua quẹo lại “cái que” rồi bấm nút, lập tức trên màn ảnh TV hiện ra những bộ phận trong bụng ông. Ruột, gan, phèo, phổi, tim, mật...  và đủ thứ bạc nhạc, bầy nhầy. Ông bác sĩ lùng sục tìm tòi cái mà ông đã thấy trên phim X ray, cái mà ông ta sẽ cắt bỏ. Nhìn rõ ruột gan ông phơi trên màn hình tôi kinh hoàng bỏ chạy. Tôi không thể tiếp tục đánh đu trên cái đèn chùm để phải nhìn mãi vào cơ thể ông. Tôi không muốn phải nhìn cái cảnh tượng mà tôi không thể chịu được là người ta có thể soi rọi vào tận ngõ ngách ruột gan cơ thể ông, mày mò tìm kiếm, rồi cắt xẻo những gì trong đó. Giờ phút này tôi thương ông quá. Nhìn thấy máu ông đổ ra rồi lại nhìn thấy ruột gan ông phơi ra tôi không chịu nổi. Tôi và ông là hai cái khác nhau nhưng sao lúc này tôi thấy... tôi khổ như ông, như tôi là ông vậy. Kỳ quá từ hồi nào tới giờ tôi vẫn coi ông là “hàng xóm” mà bây giờ tôi lại chẳng thể bàng quan. 

Ông nằm đó, chưa biết sẽ ra sao, bà lão nhà ông ngồi đợi ngoài kia cùng với con bé cháu nội, bà có vẻ bồn chồn cũng như ông cũng đã bồn chồn khi họ bắt đầu chuyển ông tới phòng mổ, nhưng giờ này thì ông chẳng còn một tí gì ý thức cho nên ông nằm yên. Khi người ta vô hồn thì người ta vô tư, ông đang vô hồn nên ông vô tư. Tôi là hồn nhưng chẳng thể vô tư thờ ơ với ông trước cái giờ phút có thể có nhiều bất trắc này. Vĩnh biệt chứ chẳng phải tạm biệt. Ly tán có thể xảy ra nếu như hai ta chẳng xáp lại một. Tan nát như... chơi, chẳng bỡn. Tôi bỏ chạy...

*

Chớp mắt một cái là đã gặp lại anh ba của ông, dĩ nhiên cũng là anh ba của tôi. Phiền phức thế, của ông của tôi chi cho rắc rối, cũng tại bày đặt chia cách đôi nơi đôi ngả. Tuần trước ông... và tôi đã gặp chị ba, chị em ăn một bữa cơm với nhau ở Sài Gòn. Khi ăn chị nói:
– Mười bảy năm nay chị mới lại ăn một bữa cơm ngon và lại được ngồi ăn với chú. Cứ tưởng chị em chẳng bao giờ được gặp lại nhau. Ai ngờ. Chú được về anh mừng lắm, nhưng anh bây giờ già yếu quá rồi, không thể lên Sài Gòn thăm em được. 

Một tuần lễ sau chưa kịp lên rẫy thăm anh thì nghe tin chị đột ngột qua đời, vội đánh đu chiếc xe đò chạy bằng than lên nhà anh. Xác bà chị còn đặt nằm trên giường chưa liệm, anh ba ngồi trên chiếc ghế gỗ bên xác chị, tay anh cầm chiết quạt nan phẩy phẩy đuổi những con ruồi bay xà quần muốn bu vào mặt mũi chị, thấy em trai lên tới, ông vất cái quạt xuống giường nhào ra cửa ôm chầm lấy em khóc nức nở. Anh ba ôm cứng lấy người em, rất lâu không chịu buông ra, miệng ông mếu máo: “Em tôi, em tôi còn sống về đây!” Hồi sau mấy đứa cháu gái đứng bao quanh cùng với những đứa bé con của chúng phải can thiệp:
– Thầy buông chú ra chứ cứ ôm chặt cứng thế làm sao chú chịu được. 

Nhưng khi ông buông người em ra thì đến phiên mấy mẹ con chúng nó nhào vào ôm lấy chú: 
– Mẹ cháu chết rồi chú ơi... 

Ông... và tôi lúc đó mới nhìn đến xác bà chị nằm trên giường. Những con ruồi xanh bay quần quần vo ve rồi đáp xuống bu trên mặt chị. Ông vội vàng chụp lấy cái quạt nan của anh ba quạt lia lịa xua đuổi những con bọ bay đó. Anh ba lại ôm ông em và lại khóc. Mấy đứa cháu gái nói:
– Ba cháu không khóc mẹ cháu chết mà khóc chú ở tù về. Từ đêm qua tới giờ ba cháu không hề khóc, chỉ ngồi đuổi ruồi và nói “Thế là bà đã đi trước tôi!”

Mười bảy năm anh em xa cách, nay gặp lại chỉ kịp ăn với chị bữa cơm ngon rồi dự đám tang chị cho anh ba vừa khóc mừng em cùng với nỗi đau góa vợ. Ông trùm xứ đạo với mấy người trong xóm đuổi anh em ông ra đứng ngoài sân để cho họ tẩm liệm. Đứa con gái lớn lục trong cái bị quần áo của mẹ lôi ra được một bộ quần áo mới đưa cho họ mặc cho mẹ. Nó nói bộ quần áo này mẹ nó may từ lâu lắm rồi nhưng chưa mặc bao giờ. Suốt đời bà chỉ mặc quần áo rách vá đụp. Chỉ đến khi chết mới mặc quần áo mới để đem đi chôn. Đứng ngoài sân mấy đứa cháu gái gọi chồng con chúng đến chào chú và ông trẻ. Khi ông... và tôi đi tù thì chúng còn nhỏ, nay ngày trở về cả ba đứa đều đã có chồng con. Bốn bố con giành nhau thương ông mặc cho mấy đứa anh trai và hàng xóm lo việc hậu sự trong nhà. Anh ba sờ đầu sờ tóc ông em, mấy đứa cháu gái cầm tay chú lên ngửi. Đầu tóc và cái thân hình tàn tạ của ông đã vừa trải qua mười bảy năm giãi dầu đầy ải trong các trại tù nơi rừng thiêng nước độc, hai bàn tay ông đã phải cuốc đất đào mương, đã bốc cứt trâu cứt bò cứt người cứt heo trải trên các luống cây rau cây đậu... Cũng như những bàn tay của anh ba ông, của những đứa cháu gái ông vừa mới sờ mó vào xác chết trong nhà... Những bàn tay ruột thịt, những con người ruột thịt, đã trải qua một cơn biến động nghiệt ngã dài ngày của đời người trong chớp mắt của lịch sử, nay gặp lại nhau trước sân nhà, dưới tàng cây vú sữa, chuyên trò hỏi han, ôm ấp vỗ về, trước một đám tang một người cũng ruột thịt!

Mộ phần chị ba nằm ở bìa rừng, nơi đây bắt đầu hình thành một cái nghĩa trang cho những người dân “khu kinh tế mới”. Lúc hạ huyệt ông đứng cạnh anh ba nhìn đàn cháu, nhìn dân chòm xóm, nhìn về khu nhà ở, thấy nó giống in như một “trại tập trung cải tạo”. 

*

Tôi sực nhớ đã đi quá xa bèn quay ngoắt trở về phòng mổ, lúc này ông bác sĩ đã mở thêm một lỗ nữa nơi bụng ông để nhét vào đó một cái que khều, cái que cũng hiện ra trên màn hình, bác sĩ điều khiển cái que bới móc lật qua lật lại tìm tòi giữa đám ruột gan phèo phổi bạc nhạc trong bụng ông. Thỉnh thoảng ông ta lại ngừng xáo trộn để chỉ dẫn giảng giải cho mấy người sinh viên y khoa đứng bao quanh thực tập. Này ông ạ, ông có giá trị cao hơn những con chuột thí nghiệm và những tử thi y khoa trong công cuộc truyền giảng kiến thức đào tào, tuy nhiên ông lúc này cũng có cùng một sứ mệnh trợ huấn cụ như những thứ đó. Tôi vui rồi vì trong cơn xẹt ngang quay về với ông tôi đã thấy ra một điều đau ốm cũng không phải là vô ích mà có khi khoẻ mạnh mới chính la vô dụng! Thậm chí có những trường hợp chết đi rồi mới nên sự nghiệp, lúc sống lại chỉ báo hại cuộc đời! 

Một tuần sau con trai lớn ông từ bên Mỹ về thăm bố, ông... và tôi dẫn anh ta lên khu kinh tế mới thăm bác ba trai và viếng mộ bác ba gái. Có bà chị gái ông từ Nam Định vào thăm cũng đi cùng. Đứng trước ngôi mộ mới, bác ba lại nói “Thế là bà đã đi trước tôi.” còn bà chị gái Nam Định thì đọc kinh cầu hồn và sau đó chị hát vang lên bài hát lễ mồ của các nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Bác ba vẫn nói lảm nhảm, ông và anh con trai từ Mỹ về thì đứng yên nghe, anh ta không thuộc kinh không thuộc hát đã đành, còn ông, ông cũng không đọc không hát theo được, gần hai mươi năm đi tù khổ sai tẩy não ông đã quên hết những kinh sách đó rồi sao. Buổi thăm mộ đọc kinh cầu hồn nơi bìa rừng của bốn người anh em và cháu diễn ra trong nắng ấm ban trưa và gió mát dưới những tàng cây óng ả. Anh con trai ở Mỹ về thắc mắc:
– Tại sao bác ba không về Sài Gòn ở với anh con trai bác mà lại chịu ở nơi rừng thiêng nước độc này?

– Con trai bác ở Sài Gòn, nhưng hai bác đem con gái đi định cư ở khu kinh tế mới nên phải ở lại đây vì hộ khẩu ở đây. 

– Bác gái mất rồi. Bác trai thì đã già yếu, nên đưa bác về ở với anh con trai cho có người trông coi bác. Ở đây chắc không có nursing home? Bố mẹ già yếu ở với con cả là tốt nhất. Đâu cần gì cái gọi là “hộ khẩu”. 
Thế là bác ba được về ở Sài Gòn. Anh em có dịp gặp nhau thường xuyên, nhưng chỉ mấy tháng sau, trước khi người em xuất cảnh sang Mỹ đoàn tụ với vợ con thì anh ba cũng đột ngột qua đời vì bịnh tim. Sáng hôm đó ông em mua một gói bánh đi xích lô xuống nhà anh, vừa tới cửa thì người cháu dâu ở trong nhà chạy túa ra ôm lấy chú:
– Thầy cháu... chết rồi chú ơi!

Ông chẳng hiểu được tại sao sự thể lại như thế. Gia đình người cháu nói sáng thức dậy thầy cháu bị cơn suyễn nghẹt không thở được, chạy đi kêu y tá trong xóm tới thì thầy cháu hết thở! Nhìn xác anh nằm trên giường người em nghĩ sống thì khó mà chết sao dễ quá vậy. Gói bánh ngọt mua cho anh vẫn cầm trên tay. 

... Tôi lại phải biến vội về phòng mổ xem ông ra sao. Tôi vừa nghe ông nói sống khó mà chết dễ nên tôi cũng sợ! Tại sao lại không là sống dễ chết khó cho đỡ khổ cuộc đời! 

*

Bây giờ thì họ đã tìm ra cái túi mật sưng tấy lên trong bụng ông. Người bác sĩ đang chỉ cho các sinh viên y khoa xem mục tiêu, cái mà ông ta nói là nguyên nhân của sự đau đớn nơi bệnh nhân những ngày vừa qua. Ông nói bây giờ chỉ việc dùng cái dụng cụ cắt và hút nó ra ngoài là xong. Dễ ợt. Xem đi. Xem xét cho kỹ để mà nhớ, nếu cần hãy lật qua lật lại, lật lên lật xuống mà xem cho chán, tất cả cac anh các chị hãy nhìn tỏ tường cho thật rõ bài học này, nhưng cũng phải cẩn thận nhé, đừng làm mạnh quá nó vỡ ra, nước mật chảy tràn ra buồng bụng thì bệnh nhân cũng vẫn có thể chết được mặc dù bệnh này là bệnh không chết, một loại giải phẫu dễ ợt, như người ta thiến gà thiến heo. 

Ông bác sĩ nghỉ tay để cho các thực tập viên dùng các dụng cụ xuyên qua lớp bọc bụng ông mà lật qua lật lại... xem cho tỏ tường. Bây giờ thì có tới 4 thứ dụng cụ xuyên vào bụng ông kể cả cái đầu từ camera truyền hình lên màn ảnh TV. Nghĩa là ông sẽ có thêm 4 cái lỗ, tổng cộng là năm rốn trên bụng ông sau này. Ông vẫn ngoan ngoãn nằm yên cho đám sinh viên y khoa cào bới. Ông bác sĩ nói chuyện với các phụ tá của ông nhưng thỉnh thoảng ông cũng ngó lên màn hình và để ý xem chừng đám học trò nghịch mgợm... 

Nghĩ cũng tội nghiệp cho ông, một đời gian nan vất vả, bây giờ hết thời, cái thân già nằm đó, làm nhiệm vụ giúp ích cho đời bằng cách nằm phơi ra đó cho đám trai trẻ mầy mò tìm tòi học hỏi. Đóng góp cuối đời, cống hiến cuối đời, “xả thân” cuối đời... 

Để cho học trò xem xét chán chê rồi ông bác sĩ bắt tay vào công việc, ông cầm các dụng cụ điều khiển, mắt nhìn vào màn hình, làm đến đâu ông dẫn giải đến đó, hình ảnh chiếu rõ ràng cái túi mật bị cắt ra rồi chui tọt vào cái ống ra khỏi bụng ông. Sự việc chỉ diễn ra trong chốc lát, nhanh như thoáng qua vậy. Ông bác sĩ bươi những tảng bạc nhạc, thấy lá gan có chỗ hơi khác lạ ông bèn nhìn kỹ và rồi ông cắt một mẩu nhỏ chỗ nghi ngờ đó hút nó ra ngoài. Người y tá đón lấy mẩu gan vừa cắt, cô gắp mẩu gan đó bỏ vào ống nghiệm dán giấy ghi mã số rồi cất vào tủ lạnh. Ông bác sĩ còn nhân tiện cắt bỏ bớt một số bầy nhầy “rác rưởi” trong lồng bụng ông tống nó ra ngoài luôn. Ông giải thích với các sinh viên y khoa rằng đó là các việc làm thêm không tính... tiền vì đằng nào cũng một công banh bụng người ta ra mà xem xét mổ xẻ... Không ai bắt làm cũng như không có trong chương trình cuộc phẫu thuật, chỉ là làm thêm, chỉ là bonus, chỉ là mua hai tặng một, quảng cáo, free. Ông bác sĩ còn nói là ông giúp cho bệnh nhân loại trừ bớt những mô mỡ thừa thãi trong bụng cho thân hình thon gọn hơn một chút. Ông bác sĩ còn nói rằng thấy việc thì làm, chẳng ai khiến, có khi còn bị người ta “ăn vạ” nhưng ông không lo vì ông tự tin ở việc mình làm. Ông cũng khuyên các thầy thuốc trẻ tương lai đứng xúm quanh đừng nên bắt chước ông ta, làm ơn có khi mắc oán... 

Tôi đánh đu trên chùm đèn nhìn việc làm của ông bác sĩ và tôi yêu ông ta liền. Sẵn dịp giải phẫu túi mật lại cắt tí gan nghi ngờ để xét nghiệm và “hốt rác” luôn trong cơ thể giúp cho bệnh nhân khỏi bị trải qua những lần mổ xẻ sau đó, không phải nói dại chứ nếu có vì thế mà bịnh tình ông biến chứng thì cũng chớ có la làng ăn vạ cái lòng tốt thiện chí của người ta. Ông còn lạ gì nữa cái cơ thể ông trải qua bao năm ăn uống tầm bậy thiếu vệ sinh: cóc nhái rắn rết sống sít, khoai sắn không bóc vỏ, rau rừng chưa luộc chín, uống nước vũng chân trâu... thì cái gan ông nó còn tốt sao đặng, cái bụng ông biến thành thùng rác là cái chắc, ông bác sĩ xa lạ giúp cho, dọn dẹp bớt cho, thì tốt chứ còn gì thắc mắc đắn đo. 

Bây giờ ở nước Mỹ, vợ con ông lo cho ông ăn toàn thứ thực phẩm đúng tiêu chuẩn kiểm nhận của bộ y tế, nhưng chẳng may những thứ tốt lành đó rồi cũng chui vào ở chung trong cái thùng rác lưu cữu bao năm không biết nó có bị lây lan lẫn lộn với rác rưởi trong đó không. Xưa ông hút thuốc lào thuốc lá liên miên suốt ngày, có khi không thuốc còn hút lá sắn khô thay thuốc, bây giờ cái phổi đó cai thuốc lá vì sợ bị ung thư, hy vọng may ra ông thoát nạn. 

Cuộc giải phẫu nhanh chóng xong xuôi, cũng chỉ nhấp nháy ông bác sĩ rút các dụng cụ phẫu thuật ra khỏi bụng bệnh nhân rồi bấm chỉ khâu mấy cái lỗ lủng lại. Người ta đắp chăn cho ông để nằm một mình đó. Ông bác sĩ tháo bao tay, cởi khẩu trang đi ra phòng đợi. Ông nói mấy lời báo tin cho thân nhân biết cuộc giải phẫu đã xong và rất tốt đẹp. Mười lăm phút nữa y tá sẽ đưa bệnh nhân ra phòng hồi sinh và nửa giờ sau bệnh nhân sẽ tỉnh lại, tối đó hoặc ngày mai có thể về nhà được. Bà lão mừng rỡ, các con ông mừng rỡ cám ơn ông bác sĩ, con bé cháu nội thì chẳng biết mừng rỡ là gì, nó vẫn nhảy choi choi trên tay bố nó và nhìn ông bác sĩ như một người lạ. Bà nôn nóng chờ đến lúc được vào phòng hồi sinh thăm ông để chờ ông tỉnh dậy. 

Ông bác sĩ về phòng riêng của ông, ông nhìn tờ chương trình, không có ca mổ nào tiếp theo. Ông bấm máy nói hẹn người tình của ông tới. Cúp máy nói xong ông vào phòng tắm rửa. Ông tắm xong thì người đàn bà tình nhân của ông cũng mở cửa bước vào. Hai người nhào tới ôm nhau hôn. Họ nhanh chóng cởi áo cởi quần và làm tình trên cái giường nhà thương có độ nhúng rất nẩy. Ông bác sĩ thường có thói quen làm tình ngay sau mỗi ca mổ như là một cách giải lao hồi sức vậy. Hồi năm ngoái ông cặp với một người đàn bà gốc Nam Mỹ, nhưng hai người chỉ yêu nhau được một thời gian ngắn thì tan rã vì ông không thích nghi được với kiểu cách giao hoan của bà ta. Ông không thích thú nổi mỗi khi nhập cuộc là bà ta giãy giụa kêu rống la hét lên. Ông có ý kiến thì người đàn bà nói rằng chỉ rống lên như thế và phải như thế thì bà ta mới đạt được sự sung sướng. Ông bác sĩ cũng nín nhịn cho qua vì ông rất thích cái thân hình tròn lẳn chắc nịch ấy. Nhưng rồi ông cũng phải giang ra vì sự ồn ào không thuận tiện ở môi trường bệnh viện cần sự yên tĩnh. “Chú ý: Bệnh viện. Không bấm còi” ngày xưa ở Việt Nam có cái bảng hiệu giao thông như thế. Mà ông thì thường phải làm tình ngay ở phòng của ông nơi bệnh viện sau mỗi ca mổ cho tiện với nghiệp vụ. Tính bác sĩ vốn điềm đạm, ông thích cái êm ái dịu dàng vắng lặng. Ông không thích nổ. 

Ông sống độc thân, người đàn bà tình nhân hiện nay của ông cũng sống độc thân. Hai người hợp đồng giúp nhau trong cách giải quyết sinh lý, họ thường liên lạc với nhau bằng điện thoại để sắp xếp giờ giấc và nơi chốn gặp gỡ. Cả hai đều là những người có hấp thụ một thứ văn hóa sòng phẳng thực tế và ngay thẳng. Họ tôn trọng nhau và tìm cách sao cho cả hai đều sung sướng hạnh phúc. Họ đối xử với nhau thân tình và lịch sự. Trận làm tình cũng rất thân tình và lịch sự. Khắng khít. Xong. Thì cả hai nằm quay lơ mắt lim dim như ngủ. Hai mươi phút sau ông bác sĩ giật mình thức giấc, người đàn bà thì đã ngồi tựa lưng đầu giường nhìn ông chăm chú, thấy ông mở mắt, bà ta mỉm cười thân mến. Ông kéo bà xuống hôn. Xong bà nằm úp mặt trên tấm ngực lông xồm. Bàn tay bà mân mê ông. Một lát bà thấy ông lại đã cương lên bèn hỏi:
– Anh có muốn nữa không?

Ông bác sĩ ghì chặt lấy thân hình người đàn bà:
– Có. Có muốn nữa.

– Thì nữa đi. Nhân thể. 

Lần này hai người vừa nhẩn nha vừa nói chuyện:
– Sẵn một lần cởi quần áo cho tiện, đỡ tốn công cởi ra mặc vô. 

– Bonus. 

– Một tặng một. 

– Em cũng chưa tới giờ đi đón con.

– Anh cũng rảnh, không có việc gì làm tiếp. 

– Đằng nào cũng một công tắm rửa. 

Đến đây thì tôi chán quá. Cuộc đời chẳng có gì mới mẻ. Chuyện cũ rích nhưng con người cứ phải làm hoài. Tôi bỏ mặc cặp tình nhân. Tôi bỏ mặc ông nằm trong phòng hồi sức. Tôi bỏ mặc tất cả. Tôi vù bay ra ngoài, ra khỏi bệnh viện. Tôi bay ra phố. Ở một dãy phố tôi nhìn thấy một bên có chữ lớn “Nhật báo Người Việt”, phía bên kia đường “Việt Báo Kinh Tế”. Tôi bay dọc theo dòng xe cộ nối đuôi nhau dài hun hút, đến một chỗ giống như một khu rừng, cây cối um tùm xanh mướt, gió thổ vi vu, nhìn kỹ tôi thấy bên dưới toàn những ngôi mộ chôn người ta. Thì ra là nghĩa trang Westminster. Đang có một đám tang lớn, nhiều vòng hoa quá trời. Nhưng cũng rất nhiều ngôi mộ bỏ hoang không khói nhang hoa lá... Tôi hoảng hốt nhớ tới ông. Bèn biến ngay trở về phòng hồi sinh ở bệnh viện. 

Ngoài cửa sổ lầu cao, trên ngọn cây cọ, mấy tay quỉ sứ ma vương mặt sắt đen sì hầm hầm dữ dằn ôm bồ cào, mã tấu, ngồi vắt vẻo chờ đợi. Chúng có nhiệm vụ bắt hồn về điạ ngục cho Diêm Vương trừng trị ngay khi nào tim ông ngưng đập. Dưới vườn hoa cây cảnh thì lại có các thiên thần đẹp đẽ hiền từ, tay cầm kèn, tay cầm cành ô liu, cũng chờ sẵn để đón hồn về thiên đàng tọa hưởng lạc cảnh... Cả hai phe đều chỉ chờ đợi cái giây phút ông tắt thở là chụp lấy tôi. Nơi trần thế này ông là chỗ ở của tôi, là nơi cho tôi tá túc, là chốn cho tôi nương thân, là “miền đất” cho tôi sinh hoạt, là cái “hang” cho tôi ẩn núp... Nếu chẳng may ông không còn nữa, lập tức “họ” điệu tôi đi ngay, chỉ có hai ngả, không thiên đàng thì địa ngục, chớ có lối thứ ba, và tôi cũng không có quyền lựa chọn đường kia lối nọ. Từ trong căn phòng mát mẻ tôi nhìn qua khung cửa, nhìn ngọn cây cọ rồi lại nhìn khu vườn hoa, “họ” đang ở đó, “họ” cũng đang nhìn ông và nhìn tôi, “họ” chờ ông ngừng thở là sẽ thi hành sứ mạng “trên giao”. 

Tôi bèn nảy ra ý muốn đi “xem nhà”. Cả hai đều sẵn sàng chiều ý khách ngay lập tức. Cũng là hợp lý thôi. Thời buổi “người khôn của khó”, chiều khách là phương châm trước nhất của các tay làm nghề tiếp thị. Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi là ưu tiên hàng đầu của bổn hãng. Sẵn sàng open house cho quí khách vào xem. Xin mời. Nếu cần có xe đưa đón. 

Trong cuộc cạnh tranh cũng vẫn có tính lịch lãm văn minh. Bầy quỉ trên cây cọ nhường cho các vị thiên thần nơi vườn hoa giới thiệu nước thiên đàng trước. “Con cái ma quỉ khôn ngoan hơn con cái sự sáng”, thế mà chúng nó lại nhường, sáng tạo tài tình là ở chỗ đó, trí tuệ là ở chỗ đó. Các vị thiên thần thì tốt lành, dễ tính và thẳng thắn, nghe nói có con chiên muốn đi xem tận mắt cõi sung sướng vĩnh hằng bèn thuận ngay, dùng phép lạ biến một cái, tôi đã đứng trước ngưỡng cửa thiên đàng. Vị thiên thần thuyết trình tại chỗ cho tôi biết về những nhà cao cửa rộng, vườn tược xanh tươi, hoa lá cành xum xuê, âm nhạc réo rắt vui tươi, ánh sáng rực rỡ muôn màu muôn vẻ, trong đó tất cả các linh hồn đều không phải làm lụng vất vả, tha hồ hưởng thụ những hồng ân của thượng đế. Nơi đó chỉ có sung sướng. Nơi đó không ai biết đau khổ là gì. Nơi đó vào rồi sẽ mãi mãi ở lại, không phải lo lắng cho một tương lai bất trắc nào cả. 

Nơi đó... Tôi được dẫn bay vòng vòng xem hết các chốn hoan lạc, mọi người rong chơi hoặc nhảy múa hoặc ca hát, dung nhan ai ai cũng đều hớn hở. Vị thiên thần hỏi tôi có thích được vào đó sống đời đời không, tôi gật đầu thì người bảo “Hãy về sống cuộc sống đạo đức, làm những việc tốt và tránh những sự dữ”. 

Ngay sau chuyến tham quan nước thiên đàng xong, quỉ sứ bèn cũng ngoắc một cái, tôi cưỡi sao chổi tới trước cửa địa ngục... Tay quỉ cầm bồ cào cũng bắt đầu cất cao giọng thuyết minh về những nét đặc sắc nơi hành tội. Lửa nóng quá, vâng trước hết là lửa nóng quá. Nhớ cụ quản giáo dạy bổn hồi nhỏ ở quê nhà đã ví lửa địa ngục nóng như lửa bếp thì lửa bếp chỉ như lửa... vẽ trên giấy. Cụ quản nói đúng quá, ngày ấy cụ bảo lũ học trò chúng con không được chửi tục, chửi tục là phạm tội trọng, chết xuống hỏa ngục, quỉ dữ sẽ thiêu đốt bằng thứ lửa nóng ghê gớm ấy. Con không nghe, bây giờ mới thấy cái thứ lửa địa ngục ghê gớm này. Quỉ dữ cũng sang sảng nói rằng kẻ nào vào đây cũng sẽ ở lại vĩnh viễn, đời đời kiếp kiếp chịu khổ hình bất tận. Hỏa ngục có đường vào nhưng không có lối ra. Ở đó mà chịu sự hành hạ của quỉ theo luật cũng của thượng đế. Ai muốn vào thì tình nguyện, tùy ý, quỉ sứ ma vương không hề bắt ép, chỉ tiếp nhận những kẻ đủ tiêu chuẩn, hãy làm những việc thiên đàng cấm, không làm những việc thiên đàng khuyên. Nghĩa là phải phạm tội, phạm càng nhiều trọng tội càng tốt, càng vinh quang. Phải ác một cách toàn diện và triệt để, đừng có lửng lơ sơ sài mà vướng vào cửa luyện ngục một thời gian, cụ quản giáo dạy bổn cũng đã nói thế, giống như cái mưu kế “học tập cải tạo” của chế độ cộng sản ngày nay, phải dứt khoát, hoặc lên thiên đàng thẳng băng với các thiên thần hoặc vù xuống tận cùng địa ngục cùng các quỉ Sa-tan. Đã chơi thì chơi cho bảnh... Con quỉ răng hô, miệng rộng, mắt ốc nhồi, cầm bồ cào, hỏi tôi có muốn xuống địa ngục không, tôi gật đầu thì nó nói: “Hãy về làm thật nhiều điều ác rồi chờ ngày giờ nó đón, nó sẽ giúp đỡ những kẻ đã biết đến nó”. 

Tôi có điều thắc mắc là tại sao lại nói “lên thiên đàng” và “xuống hoả ngục”. Đâu là trên, đâu là dưới, phía nào gọi là trên và hướng nào gọi là dưới. Và tại sao nơi này được gọi là lên, nơi kia bị gọi là xuống. Tại sao lại bị và được và tại sao lại lên và xuống. Tại sao không nói là bị xuống thiên đàng và được lên địa ngục... hỡi các thiên thần và quỉ sứ?

Tôi không rõ nếu cái thân xác ông ngừng lại thì tôi sẽ thuộc vào ai, trong vòng tay thiên thần hay ác quỉ? Và rồi tôi sẽ ra sao? Phần ông đã yên phận một bề, chôn cất hay thiêu đốt thì cũng trở về làm bùn đất. Lên núi hay ra biển thì cũng thế mà thôi. Có gì mà phải di chúc. Ôi, xác phàm thế mà lại ít gian truân không như phần hồn cho đến giờ phút này cũng vẫn chưa biết được mình sẽ phiêu bạt đến chốn nào. 

Tôi ân hận vì đã coi thường cái cốt phàm phu của ông, bây giờ mới thấy rằng bấy lâu nay, nhờ có ông mà tôi mới được ung dung tự tại, có một chỗ để cư trú. 

*

Nhưng có một điều rất oái oăm là những khi tôi với ông sáp lại với nhau, những khi hai ta là một, những khi chúng ta chung chạ, vâng chính những khi hiệp nhất ấy lại là thời gian chúng ta phạm nhiều điều xấu xa hơn cả. Lạ thế, xúm nhau lại không làm việc tốt mà chỉ đầu chúng đầu đảng làm toàn chuyện tầm bậy. Cả ông lẫn tôi, kẻ nào cũng có thói quen ưa làm chuyện xấu hơn là thích làm chuyện tốt, cho nên cộng đồng lại bi thảm hơn lẻ loi, ông ạ.

Một thiên thần cao lớn đẹp đẽ, đầu đội chiếc nón triều thiên, mình mặc áo giáp của thời thánh chiến La Mã, một tay cầm khiên, một tay cầm giáo dài, cưỡi trên lưng bạch mã cũng cao lớn đẹp đẽ, phi nước kiệu từ đồi cao xuống. Ông từ trong nhà khoác vội chiếc áo dài chạy ra cúi chào nghênh đón. Thiên thần hỏi tên tuổi ông xong bèn dùng mũi giáo nhọn xiên một mảnh giấy ở trong túi ngựa đưa tới trước mặt ông mà phán: “Hãy nhận lấy và chấp hành cho đúng. “Ông rụt rè đỡ mảnh giấy. Thiên thần quay ngựa phóng đi chỉ chốc lát đã khuất sau phía bên kia đỉnh đồi. Còn một mình đứng bần thần trước cửa nhà, mãi một lát sau ông mới mở tấm giấy ra thấy ghi chữ “Hỏa ngục”! Ông hốt hoảng đi tìm vị quan thầy là thánh Giu-se xin cứu giúp. Thánh Giu se nói:
– Tao có cái gì đâu mà mày xin, sang bên bả mà năn nỉ. 

Ông quýnh quáng chạy sang bàn thờ Đức Mẹ, ở đây đèn nến sáng choang, hương hoa thơm lừng, ông quì lạy xin ban ơn, Đức Mẹ nói:
– Nhà ngươi chậm chạp quá, có bao nhiêu mấy mụ ngoan đạo kia họ xin hết từ sáng sớm rồi, sang bên ổng xem còn cái gì không…

Lại quýnh, sợ hết giờ, ông vù tới bàn thờ thánh quan thầy, quì rập đầu lạy như tế sao:
– Bẩm thầy, thầy mà không cứu là em chết...

Thánh Giu-se ái ngại:
– Chắc nhà ngươi phạm tội trọng nên phải lãnh án xuống hỏa ngục, còn kêu ca nỗi gì nữa.   

Ông trình bày:
– Bẩm thầy, em không hề cướp của giết người, em đi lễ hàng ngày ở nhà thờ mỗi buổi sáng, nay đày em xuống hỏa ngục thì tội em quá. 

Thánh Giu-se nói:
– Mi có chắc là vi vô tội không, để ta coi lại sổ sách. 

Rồi thánh gọi thiên thần giữ sổ sách đến hỏi, vị thiên thần lật sổ ra trình:
– Bẩm, tên này có đến nhà thờ mỗi buổi sáng nhưng không đọc kinh, lại đem theo mấy đứa cháu nhỏ để chúng gây ồn ào làm mất sự yên tĩnh của các giáo dân, gây trở ngại cho việc thờ phượng. Tội rất lớn. Không cho vào thiên đàng được. E ngại y sẽ gây náo loạn nước Trời. 

Ông cãi:
– Bẩm thầy, em không thuộc kinh tiếng Việt, lại càng không biết đọc kinh tiếng Mỹ, nên em chỉ biết ngồi nghe người ta đọc. Còn lũ trẻ thơ thì em phải tôn trọng sự hồn nhiên của chúng. Bẩm thầy, em không được vào chốn thiên đàng vì em không lập được ơn phúc, nhưng em có làm gì nên tội đâu mà trừng trị em ở chốn địa ngục. Bẩm thầy em sợ lửa địa ngục đốt cháy nóng lắm, xin thầy cứu em, em lấy tên thánh là Giu-se là em đã nhận thầy đỡ đầu, thầy nỡ bỏ em sao. Em còn tính đi học làm thợ mộc giống thầy nữa cơ...

Thánh giảng giải:
– Phải làm điều lành, tránh điều ác, thì mới được phúc. Kể ra cũng tội nghiệp nhà ngươi. 

Ông khai thiệt tình:
– Bẩm thầy, em không làm được điều gì tốt lành, em lại còn phạm vào những điều xấu, em xin thành thật khai báo để thầy khoan hồng cho em. Chẳng là một tuần bảy ngày đi lễ nhưng mất năm ngày mang theo trẻ con làm ồn nhà thờ phiền hà mấy ông mấy bà ngoan đạo hiền lành phúc đức, chỉ có một sáng thứ bảy bố mẹ chúng nó nghỉ sở làm ở nhà giữ con, em mới được nên lễ nghiêm trang đúng thánh ý Chúa. 

Thánh hỏi:
– Thế còn ngày chủ nhật, ngày lễ buộc, nhà ngươi làm gì?

– Em cũng đi lễ nhà thờ, nhưng...

– Nhưng làm sao?

Ông lại khai thiệt:
– Chính ngày lễ buộc chủ nhật là ngày em... phạm tội trọng. 

– Nhà ngươi nói rõ ta nghe. 

– Thưa thầy, chủ nhật em mắc tội... đi sớm tranh giành giữ chỗ cho vợ chồng đứa con đến trễ vì chúng lu bu con mọn. Bà vợ yêu quí của em nó bảo hãy ngồi dang rộng ra như nó, khuỳnh tay, xoạc cẳng, để mũ nón, ô dù, sách kinh hai bên mình cho người khác không chen vào ngồi mất chỗ của con. Em biết như thế là lỗi phép công bằng. Em biết như thế là bon chen phạm vào cái lẽ tự nhiên thoải mái của chốn thờ phượng. Em biết như thế là không đẹp lòng Chúa. Đẹp sao được, mình giữ chỗ trống trong khi có người khác phải đứng bên lề. Nhưng em... thương vợ thương con thương cháu cho nên cứ lỗi phép như thế đều đều các ngày chủ nhật lễ trọng. Thầy ơi, một tuần lễ bảy ngày thì đã mất sáu ngày lỗi đạo, chỉ còn một ngày rảnh rang không biết em có giữ được không, hay là...  Thầy ơi, em sợ lửa hỏa ngục lắm, xin thầy... cứu em. 

Thánh Giu-se nhíu mày, lát sau Thánh nói:
– Nhà ngươi không lập được đủ phúc đức để có giấy phép vào thiên đàng, nhưng nhà ngươi cũng không làm gì nên tội để phải bị đày ải xuống hỏa ngục chịu sự trừng trị. Từ nay đừng tranh giành cái gì nữa cả, chỗ ngồi à, cứ… kệ mẹ chúng nó, các con ngươi chúng sẽ tự lo liệu lấy cho nhau, nhà ngươi khỏi cần bao đồng. Thương vợ. Tốt. Thương con. Tốt. Thương cháu. Cũng tốt. Nhưng nhà ngươi phải biết thương người ta nữa mới được. Không lên thiên đàng cũng chẳng xuống hỏa ngục, vậy ta cho nhà ngươi được ở cổng Trời này, chỉ ở ngoài không được bước vô trong. Ngươi phải làm việc để tự rèn luyện bản thân, lao động là vinh quang, ta giao cho ngươi công việc gác cổng, đây chiếc chìa khóa ngươi giữ lấy, kẻ nào có giấy phép thì ngươi mở cổng cho vào, xong khoá lại như cũ, kẻ nào không có phép thì nhà ngươi phải cương quyết từ chối. Cũng không bao giờ mở cổng cho kẻ nào bên trong xin ra. Được vào trong ấy là phải sung sướng suốt đời ở trong ấy. Không ra. Nghe không. 

Nghe Thánh Giu-se phán ông mừng quýnh, vừa thoát cảnh địa ngục lại vừa có job ngon. Ông lạy tạ thánh quan thầy. Thừa thắng ông làm tới, thưa:
– Bẩm thầy, em có việc đề xuất. 

Thánh hỏi:
– Nhà ngươi chưa bằng lòng sao, còn đòi hỏi gì nữa?

Ông chỉ tay lên cây thánh giá rất lớn trên bàn thờ, một cây thánh giá mới làm theo kiểu cọ bằng nhiều thanh gỗ nhỏ sắp so le nhau, nói:
– Khi xưa Chúa bị đóng đinh trên thập giá bằng gỗ bình thường không sơn phết, nay thời mới bày đặt chế ra kiểu cọ này khác là không đúng phép tông truyền, không được, phải giữ đúng như xưa, không được phép thay đổi lịch sử. 

Thánh xuề xòa:
– Đời mới bây giờ cũng phải thông cảm để cho giới trẻ nó sáng tạo chứ, nhà ngươi không thấy ư, có nơi nó còn tạc hình Chúa theo kiểu lập thể khiến tao cũng không nhận ra con mình nữa. Nhà ngươi già và cổ hủ rồi. Hãy để cho chúng nó đổi mới, hãy để cho chúng nó làm cách mạng. 

Ông cãi thánh:
– Bẩm thầy, em cũng có một cuộc cách mạng phải làm, chúng nó làm cách mạng đổi mới thì em làm cách mạng bảo vệ. Phải vùng lên hành động bảo vệ sự thật, phải chống lại những thay đổi bố lếu bố láo. Em thờ Chúa đúng hình hài và lễ nghi của lịch sử. Em xin thầy hãy trừng trị những kẻ biến chất. 

Thánh nghe nói cũng thấy động lòng, người ưu ái nhìn tên hậu sinh:
– Nhà ngươi cũng có lý, cũng… đúng chứ chẳng sai, ta thấy đời này lắm chuyện tào lao. Nhưng biết làm thế nào được, bởi vì đứa nào cũng đều vì lòng mến Chúa. Chúng nó cũng tốt mà nhà ngươi cũng tốt. Chi bằng các người hãy hòa thuận với nhau. Chín bỏ làm mười. Mỗi đứa nhường nhịn nhau một tí. Kẻo không rồi chúng mày đánh lẫn nhau vì đứa nào cũng cho là mình đúng. 

Ông lại cãi:
– Bẩm thầy, chúng nó sai rõ ràng làm sao coi là đúng được. Chỉ có em duy nhất đúng. 

Thánh nhăn mặt:
– Trời ơi, cứ thế thì chúng mày sẽ giết nhau mất thôi. Ta đã bảo phải nhường nhịn mà. Mày có biết nhường nhịn là gì không? Này ta bảo cho mà biết, nhường nhịn là chịu nhận phần sai về mình, nhận phần thiệt về mình, nghe rõ không con. Hãy noi gương tao đây, tao luôn luôn nhận phần thiệt. 

Ông rụt rè hỏi:
– Hai kẻ đánh nhau, đứa nào muốn được tiếng là nhường nhịn, là yêu hòa bình thì phải nhường cho đứa hiếu chiến nó thắng trận. Nó tát má bên phải thì đưa má bên trái cho nó tát tiếp. Nó muốn giết thì hãy quì gối cho nó chặt đầu. Phải như vậy à thầy?

Thánh rầy:
– Bậy nào, tao đâu có dạy thế, tao chỉ muốn con phải biết nhường nhịn, con hãy giống ta. 

Được Thánh Giu-se gọi là con âu yếm, lại bảo hãy giống thánh, ông sướng nhủn người, không ý kiến gì thêm nữa. 

Ông chạy đi tìm bà lão để khoe, rồi nói:
– Bây giờ bố ngon rồi, và em cũng không còn phải lo gì nữa, em muốn vào muốn ra lúc nào bố cũng chiều em được hết, nhưng có một số con mẹ trong hội cầu kinh với em bố sẽ... không mở cổng thiên đàng cho vào. 

Bà lão nói:
– Nếu người ta có giấy phép vào thì bố phải mở cổng chứ…

Ông cãi:
– Có giấy phép bố cũng không cho vào, thử xem làm gì nhau, phép vua thua lệ làng, bố không thích mấy con mẹ ấy là bố không mở cổng, ai bảo khi baby cháu mình nó ó é có một tí là mấy mẹ ấy nhìn ông cháu tôi rồi nhăn mặt lườm nguýt, khiến có nhiều bữa tôi phải ẵm cháu tôi chui vô gầm cầu thang cuối nhà thờ để tránh làm kinh động người ta, ông cháu từ gầm cầu thang chỉ nhìn thấy Chúa qua lớp kính ngăn cách tiếng động. Không biết thương baby là không đáng vào thiên đàng, chính đấng Jesus Christ đã vẫy bố đem mấy đứa con nít đến cho Chúa. Thiệt đó em à, đúng là bàn tay Chúa vẫy vẫy bố, bố nhìn rất rõ không thể lầm được vì lòng bàn tay Chúa có lỗ sẹo đóng đinh. Mấy con mẹ leo lẻo cái miệng kinh sách nhưng cái đầu họ chỉ nghĩ đến những điều đố kỵ hoặc những chuyện lời lãi thế gian, phỏng được ích gì. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc (tắt giùm cái bếp nồi cá kho chút), Đức Chúa Trời ở cùng bà...”. Đi casino đánh bạc thua cả ngàn đô la nín khe, đến nhà thờ lần chuỗi được năm chục đã khoe khoang kể lể rộn ràng. Trời ơi là Trời, Thánh Cả Giu-se ơi, xin thầy cứu con!  

Bà lão lắc đầu:
– Bố rối đạo rồi! 
Ông nói:

– Nhưng có người bố sẽ mở rộng cửa cho vào ngay mà không cần xét giấy tờ lâu lắt, đó là cái bà hiền lành phúc đức xinh xắn, vẫn nhìn bố mỉm cười khi tới giờ chúc bình an. 

– Có phải con mẹ bố khen... dễ thương chứ gì?

– Đúng rồi, người như thế vào thiên đàng là đương nhiên. 

Bà lão lại lắc đầu ngao ngán:
– Đúng thật là bố rối đạo quá lắm rồi!

*

Ông mở mắt nhìn quanh. Bà lão và cô con gái ông đứng ngay đầu giường. Họ cầm tay ông, sờ trán ông, mỉm cười với ông. Ông ngơ ngác nhưng cũng mỉm cười được với họ, ông đưa mắt nhìn quanh tìm đứa cháu nội, nhưng con bé không được vào phòng hồi sinh, nó ở ngoài phòng đợi với bố chờ ông. 

Tôi hú hồn trở về kịp, nhào tới nhập vào với ông, tránh xa ngọn cây cọ gai góc và khu vườn hoa rực rỡ thơm tho, để tự giam mình vào cái thân xác một đống xấu xí của ông! Tôi sẽ còn phải tốn thời gian cùng với ông nơi trần thế này, lựa chọn cách sống, làm điều thiện hay làm việc ác, để đi về phía những nơi chốn open house mà tôi đã có dịp đến tận nơi, nhìn tận mắt. 

Không biết đến bao giờ?

(FV. 8/99)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/03/thao-truong-con-sot_17.html
======================================================================
Thảo Trường - Cơn Sốt (3) 
   at 6/02/2013 12:21:00 PM
Thảo Trường

“Chúa Jesus phán rằng khát nước!”

Chiếc xe đạp dùng để tập thể dục của con đã bị ông bố “cải tiến” thành chiếc xe thồ. Âu cũng là do ảnh hưởng Việt Cộng nó ám vào ông sau thời gian dài sống trong lao tù của chúng. Mà Việt cộng thì bắt chước Trung Cộng. Ông lão tị nạn, ở nhờ nước Mỹ đế quốc, ai ngờ lại phải bắt chước làm cái xe thồ như của bọn chống đế quốc. Hai bên hông xe ông “thiết trí” thêm vào hai cái giỏ nhôm để ông đi lượm ve chai Mỹ. Mỗi buổi sáng ông thủng thẳng đạp chiếc xe thồ đi rảo qua các khu nhà đến ngày đổ rác để moi trong những thùng rác các phế phẩm gồm ba thứ: nhựa trong, thủy tinh trong và lon nhôm, là những thứ kỹ nghệ tái chế ở đây người ta mua. Có nhiều thứ ông thấy bỏ phí như giấy báo, nhựa mầu... nhưng không làm sao được vì rẻ quá, muốn khai thác những thứ đó phải lấy nhiều và phải dùng xe truck mà ông thì không dám lái xe. Ông mới sang dung thân ở nước đồng minh được hơn một năm, sau gần mười bảy năm làm người tù binh vô thừa nhận ở quê nhà. Khi đi tù ông còn trẻ, tóc còn đen, nay ra tù sang đây ông đã là một ông già tóc bạc chậm chạp yếu đuối và lầm lỳ. Bà vợ ông tập cho ông lái xe để ông thích nghi với cuộc sống ở nước Mỹ nhưng sau mấy lần lái thử ông đành bỏ cuộc. Thấy các xe khác chạy nhanh quá và nhìn xuống triền đất thấp có các căn nhà dưới đó ông bèn chóng mặt thắng xe lại tấp vô lề, suýt nữa xe sau nó tông vào đít. Nó bóp còi inh ỏi. Bà lão dẫn giải: 
– Ở Mỹ, nó bấm còi xe là nó chửi mình đấy. 


Ông ngô nghê hỏi: 
– Ở Mỹ, nó chửi nhau bằng máy à? 

Bà lão phải lái xe về nhà, bà nói với các con: 
– Má không hiểu sao hồi trước Bố có thể lái máy bay, nhảy dù và điều quân đánh giặc được. 

Ông cũng nói với các con ông: 
– Câu đáp là “hồi trước” còn bây giờ là... “hồi sau” hay ít ra cũng không còn là “hồi trước” nữa. 

Đàn con có lẽ cũng chẳng hiểu mấy những lời của ông nói, nhất là mấy người con di tản năm 75 lúc hãy còn rất nhỏ. 

Thua! Cái thua đầu tiên ở Mỹ là nói tiếng Anh dở, đến cái thua thứ hai là không lái được xe. Ở cái xứ sở xa lộ đan nhau chằng chịt chồng chéo và xe hơi nhiều như kiến đàn nối đuôi nhau mà không lái được xe thì chỉ có mà ngồi một chỗ. Ông bèn tính kế nhỏ, giang hồ vặt bằng xe đạp, loanh quanh trong khu thị xã, “không ra khỏi tỉnh”. Buổi chiều ông đạp xe ra bãi biển vừa thu nhặt ve chai vừa hóng gió và cũng là để exercise luôn... Mỗi ngày ông đạp xe hơn chục miles, được hít thở gió biển miễn phí, hoá ra ông lại đâm khoẻ mạnh! Ông còn cái thú là đi xe đạp trên các con đường đất mòn trong khu đầm lầy Bolsa Chica. Cư dân thành phố Huntington Beach nhất định tranh đấu đòi duy trì cánh đồng lầy này để nguyên tình trạng thiên nhiên của nó. Ông vào chơi khu đồng lầy nhiều lần và biết rõ công cuộc tranh đấu ấy nên ông cũng đi theo đoàn biểu tình người Mỹ, cầm theo cái khẩu hiệu đòi bảo vệ sinh mạng cho những con sâu, cái kiến, bầy cá lòng tong và những con bọ bay sinh sống trong cánh đồng. Thị xã có dự án xây dựng đầm lầy thành một công viên rộng lớn hiện đại đẹp đẽ, nhưng dân ở đây không chịu và ông di dân tị nạn già cũng tìm thấy ở nơi đây “một cánh đồng đã mất” của thời thơ ấu của ông ở quê nhà xa xăm tít mù dĩ vãng. Ông dựng chiếc xe đạp thồ, đầy nhóc ve chai mới lượm được ngoài bãi tắm, bên vệ đường rồi ông đi men xuống bờ đầm lầy in như ngày xưa còn bé ông đứng trên bờ Đầm Sét nơi quê nhà. Ông nhìn những con lăng quăng, những con bọ nước có những chiếc càng nhỏ như sợi tóc và dài leo khoeo lêu khêu trên mặt nước. Mấy đứa trẻ Mỹ chơi đùa gần đó kêu rú lên gọi nhau lại xem một con sâu như con sâu róm, chúng lấy làm lạ lùng mà bàn tán với nhau, ông nghĩ là người ta có lý do để đòi giữ lại sự ngạc nhiên lạ lùng tầm thường ấy cho trẻ con của họ. Ở quê hương ông những thứ này đầy rẫy thông thường đến độ người ta muốn loại bỏ nó đi, nhưng ở đây thì thật hiếm hoi, hiếm hoi đến độ lâu ngày ông không trông thấy chúng và khi bắt gặp nó ông tưởng như bắt gặp một quá khứ đời mình. Nằm giữa một bên là thành phố đã sản xuất ra những bộ phận và cả cái cánh của phi thuyền vũ trụ với một bên là bãi biển danh tiếng của môn thể thao trượt nước surfing, đầm lầy Bolsa Chica ở đó với những con đường đất ngoằn ngoèo cỏ mọc lùm xum sâu bọ lẫn với bươm bướm chuồn chuồn... và ông già tóc bạc lẩm nhẩm: “Chuồn chuồn có cánh thì bay...” Ông ngồi bệt trên bờ cỏ nhìn những con vịt trời bơi trên mặt nước và những con cuốc lủi chạy lăng xăng trên sườn đồi. Thỉnh thoảng còn xuất hiện những con “bồ nông” hay con “đại bàng đất” to lớn hơn con ngỗng bay từ biển vào hoặc đàn quạ đen, đàn “bồ câu Mỹ” dạn dĩ... Xa xa bên kia bờ đầm là con đường PCH xe hơi nườm nượp, xa hơn nữa là bãi tắm và biển Thái Bình Dương. Có tiếng lục xục trong một bụi cây ở bờ đầm, nhìn ra là mấy chú chuột rượt đuổi nhau... Ông chợt nhớ tới một người bạn tù, không biết bây giờ anh đang làm gì ở đâu. Phải công nhận rằng anh ta là một người trầm tĩnh, thản nhiên bên ngoài mặc dù bên trong anh là cuồng phong bão tố. Anh là “chuyên gia” bẫy chuột trong đội tù, lấy thịt chuột làm món ăn có chất đạm bồi dưỡng cho cơ thể anh đang đến độ sút giảm vì suy dinh dưỡng. Với anh, ở tù, chuột cũng có thể cứu người. Một hôm anh được cha đến thăm nuôi, cũng mang ra cho anh một ký khô chuột Đồng Tháp Mười và báo tin cho anh biết vợ anh đã lấy chồng khác. Anh thản nhiên nghe tin sét đánh, rồi còn an ủi lại người cha rằng như thế cũng hiểu được thôi và nên thông cảm cho vợ anh. Khi trở vào trong trại giam anh cũng kể lại chuyện đó cho các bạn đồng cảnh biết. Tối đó anh cũng pha trà và cà phê, nướng khô chuột, lai rai cùng mấy người bạn xúm nhau trên manh chiếu chuyện trò. Rồi như thường lệ anh cất tiếng ca, anh vẫn thường ca hát cùng những người bạn “yêu văn nghệ” như thế, nhưng lần này anh có thêm một lớp vọng cổ: 
“Khi ra đi tôi đã biểu em ở nhà không được đi tắm sông tắm biển, vậy mà em không nghe, ở nhà, em cứ đi tắm biển tắm sông, để đến nỗi cho mấy cái con cá lòng tong, nó rỉa... nó rỉa... mất ba cái sợi lông... mày...”

Anh em trong phòng giam hồi hộp cố lắng nghe, phân tích xem khi anh xuống “xề”, giọng ca anh có phần nào là bi ai, phần nào là trào lộng? Nhưng không ai nhận xét được, giọng anh thản nhiên và trầm tĩnh đến độ gây xúc động cho cả phòng giam. Dưới nước đầm quả cũng có đàn lòng tong đang tung tăng bơi khiến người ngồi đó nhớ tới người bạn và tưởng mình đang ngồi trên bờ “ao xả” Tân Lập. Nhưng dòng xe cộ nối tiếp ngoài đường hoặc người gần đó kéo ông về hiện tại. Chuột bọ chim chóc bờ bụi đưa ông về miền quê dĩ vãng song lại đến những chiếc máy bay khổng lồ trên trời đánh thức ông trở lại nơi xứ lạ quê người. Ông đạp chiếc xe đạp chậm rãi đi trên con đường rừng đất bạc mầu, đến một ngã ba thì ông dừng lại, phân vân không biết nên đi về ngả nào? 

“Một lối dẫn về trại giam còn một lối dẫn ông ra ngoài quốc lộ. Ông tần ngần cúi tìm những cọng lông chim mà ông thường thấy rơi vãi nơi đây. Dân đi rừng đã đặt chết tên cho cái điạ danh này là “ngã ba lông chim” vì nơi đây trên đường về thợ rừng thường dừng chân nghỉ và nhổ lông những con chim mà họ săn bắt được.”

Không có, ở nơi đây không có cọng lông chim nào rơi vãi cả. Cũng không có một “cây chân chim” nào bên đường cả. Chỉ nghe tiếng nói chuyện lao xao của đám trẻ con Mỹ lập tức lại lôi ông lão về thực tại. 

“Đường nào đi đến cộng sản còn đường nào đi đến tự do? Đường nào lên thiên thai?” 

Ông thắng gấp xe vì một con chim vụt bay ra từ trong một bụi rậm bên đường. Mấy cái lon nhôm xô vào nhau kêu loong coong trong giỏ và có một cái nhảy xuống đường đất lăn lông lốc, ông lão cúi nhặt lên bỏ vào giỏ. “Năng nhặt chặt bị” không rõ văn hóa Mỹ có câu ca dao nào như vậy không? Ông lão nhìn thấy một tổ chim bên trong có hai quả trứng nhỏ xíu.

“Hai người tù binh cuốc đất bên hàng rào cấm. Hàng rào phòng thủ chống xâm nhập của trại huấn luyện xưa, bây giờ hóa thành hàng rào cấm chống đào thoát của trại tù, giam giữ chính những sĩ quan chỉ huy và huấn luyện viên ở đây ngày trước. – Hai trái trứng. Để tôi lấy cho anh bồi dưỡng. Cũng là một tý chất bổ trong lúc thiếu thốn. Binh thư dạy “mưu sinh thoát hiểm” có tiên liệu kế này mà. Thảm hoạ xảy ra trong nhấp nháy. Không ai kịp có ý kiến hay phản ứng gì. Tiếng nổ kinh hồn của trái mìn hất tung xác người tù binh bay lên tan tác...”

Ông lão nhấn bàn đạp cho chiếc xe rướn tới. 

*

Nó có tên tuổi đàng hoàng và tên tuổi nó còn được ghi trong sử sách, trong tự điển, quốc tế chứ không chỉ riêng một nước hay một dân tộc một lãnh thổ nào. Nó còn có khả năng mang con malaria từ nơi này sang nơi khác để con malaria giết người. Con malaria giết người ta chứ nó thì không giết ai cả, nó chỉ hút một tí tị máu làm thức ăn nuôi thân. Cũng bởi mắt thường không trông thấy kẻ sát nhân mà chỉ nhìn thấy nó hóa cho nên nó bị coi là chính phạm, là kẻ thù nguy hiểm. Nó bị lên án bằng bản văn, chữ nghĩa và hình ảnh công khai, phổ biến, thậm chí còn được đưa vào sách giáo khoa để quảng bá chứ không phải nói lén rỉ tai, hay đồn đãi vô căn cứ, mà chính thức không cần sự dè dặt thường lệ nào cả. Nếu nhìn nó ở cái thế đậu trên da thịt người ta hút máu thì sẽ thấy là nó rất... đẹp! Nó có cái oai phong của phản lực cơ chiến đấu F. gì đó mà con người đã bắt chước chế tạo theo hình dáng nó. Con người văn minh bày đặt rửa tay trước khi ăn, nó không có thói quen rửa vòi chích trước khi hút máu, nó không cần một thủ tục vệ sinh hay làm dáng quí phái, nó “tự nhiên như ruồi muỗi”. Và vì thế nó truyền nhiễm. Nó chích vòi vào gáy người tù già hút tý máu sống qua ngày, có thế thôi, còn để lại cái gì, hậu quả thế nào, nó đâu có ý thức. Nó chỉ có một phản ứng sinh tồn là nếu thấy động thì phải nhanh chóng bay chạy trốn. Phản ứng sinh tồn thì giống nào mà chẳng có, nhanh hay chậm mà thôi. Nó cũng chẳng có ý kén chọn đối tượng này hay đối tượng kia, cũng chẳng phân biệt quốc gia hay cộng sản. Tiện đâu làm đó. Ối, hơi đâu mà nghĩ ngợi vớ vẩn lại bị ghép vào cái tật triết học. Nó chỉ biết chích hút máu khi có “cơ hội”. Và rồi... Người ta đưa bệnh nhân từ trong rừng về bệnh xá ở trại chính, nơi đây mới có bác sĩ Cộng Hoà làm y tá, có y tá Cộng Sản làm bác sĩ, có ống chích Mỹ luộc đi luộc lại mấy chục năm, có một vườn thuốc nam cũng gọi là thuốc dân tộc trồng củ xả để ướp cá thịt, trồng rau dấp cá để ăn gỏi cuốn. Ông lão bị vứt nằm chèo queo trên cái giường gỗ ở góc phòng bệnh. Ông hâm hấp sốt và thiêm thiếp ngủ. Hình như có ai đó sờ trán và sờ chân ông. Rồi lại có người đến đòi chỗ nằm, nhưng khi mở mắt ra lại chẳng thấy ai... 

*

Hồn bay lên khỏi những ngọn cây tràm rậm rì trước bệnh xá, qua những cây tràm khác trong trại giam ra khỏi hàng rào tre, rồi cứ thế hồn bay qua Suối Lạnh, qua Suối Cạn... lướt trên những ngọn cây, bay cái vù lên ngọn núi Mây Tào... bay lượn quanh ngọn núi rồi đáp trên cái nền xi măng... Ở đây ngày xưa người ta đặt đài radar để làm chiến tranh. Hồn đứng nhìn lên trời và cúi nhìn xuống cánh rừng phía dưới nơi có trại tù... Ờ nhỉ, sao lại là nhìn lên trời và xuống đất? Đâu là trên đâu là dưới? Bằng tưởng tượng hồn đào một cái lỗ ngay dưới chân xuyên qua nền xi măng này, xuyên qua lớp đá núi này, xuyên qua trái đất, qua cả cái lòng trái đất nóng bỏng và nhão nhoét, đi xuyên qua phía mặt đất bên kia... biết đâu nơi đó là mặt biển hay sa mạc hay trên cái nền của một nhà xưởng sản xuất ra cái radar đã từng đặt ở đây, hay ở một kho vũ khí chiến tranh nào đó. Hoặc ở một cái sàn nhảy nào đó, một nhà thổ hay sòng bài nào đó, có tiếng máy xoành xoạch lẫn những tiếng reo vang loảng xoảng của đồng jeton rơi rụng. Hay ở một giàn phóng hỏa tiễn nào đó, một ngôi miễu thờ nào đó. À, hay là ở một phòng hơi ngạt, máy chém, ghế điện chuyên xử tử con người... ở đâu đó, một chỗ nào đó trên cái mặt vỏ trái đất. Và từ đó sẽ lại nhìn lên trời hay cúi xuống nhòm vào cái lỗ xuyên trái đất sang tận cái đít của hồn cũng đang đứng đây nhìn lên trời và nhìn xuống đất... Hai kẻ, hai nơi, cùng nhìn lên trời, hai cái trên trời đối xứng nhau càng đi càng xa nhau mãi mãi, đồng thời cũng là hai cái dưới đít nhau tuy có khoảng cách nhất định đấy nhưng không phải ai cũng có thể đến với nhau được, đi đường vòng vượt biên thì nhất chín mười bù... Ờ nhỉ, ở trong cái “vũ trụ bao la trong những cái vũ trụ bao la” này thì trái đất lơ lửng lửng lơ đó nằm ở đâu? Và đâu là trên đâu là dưới mà lại gọi là lên trời xuống đất. Ở chỗ này lên trời thì ở chỗ khác có thể là xuống trời không biết chừng cũng nên. Ối, chẳng biết đâu mà rờ, cũng tại con người ta đặt ra rồi nói miết nghĩ miết hóa quen tai quen mắt quen óc thành thói quen mà thôi. Sao lại cứ phải là gội đầu rửa đít mà không ngược ngạo nói gội đít rửa đầu nghe cho nó chướng tai! Mà ai là người đầu tiên gọi cái này là đít cái kia là đầu? Lâu ngày quen tai quen mắt quen óc biến thành văn hóa mà nếu nói khác đi sẽ bị coi là phi văn hóa! Vậy thì từ đỉnh núi nhìn lên trời hay nhìn xuống trời, nhìn xuống trại tù hay nhìn... lên trại tù dưới kia, muốn nói sao thì nói nhưng trời thì vẫn là trời và ở xa, còn trại tù thì vẫn là trại tù và ở gần. Trại tù thì có thể nhìn thấy, có thể sờ được và có thể bị nhốt ở trong ấy được, nhưng còn trời thì cho đến tưởng tượng cũng không nghĩ chắc được nó như thế nào. 

Đậu chán ở cái nền xi măng đỉnh núi hồn lại bay tà tà băng trên các ngọn cây, hồn tính phóng thẳng bay “lên trời” nhưng không được. Hồn nặng nề tội quá không thể cất lên cao được mà nó còn xuống thấp tới chân núi. Hồn đậu xuống xác một máy bay vận tải. Đống sắt rỉ sét này nằm nay từ hồi còn chiến cuộc, bao nhiêu những thứ gì có thể lấy được và có thể bán được thì người ta đã lấy hết. Đố ai còn mót được mảnh nhôm nào. Cây cỏ đã mọc xâm lấn vào cả trong thân máy bay và côn trùng chim chóc sinh vật các loại cũng đã nhiều kẻ chui vào cư trú. Liệu có bao giờ người ta tìm đến đây đào xới kiếm hài cốt không nhỉ? Thôi thây kệ, hồn lại bay tiếp trên các ngọn cây, rồi đáp xuống một ngã ba đường mòn, định thần nhìn một lúc hồn nhận ra đây là dốc “trời ơi”, kia là suối “giao ôi”... Thôi chết, lại quành trở lại trại tù... 

*

Người nữ y tá khoe với mọi người: 
– Sư phụ bị tôi trói vào giường. 
Khi kể lại với bệnh nhân, chị nói: 
– Sư phụ còn bị em đánh cho nữa. 

Rồi chị thuật lại: 
– Chỉ có một chai nước biển dỏm truyền vào mạch máu cho sư phụ thế mà ông ấy cứ giật ra. Sư phụ bị mê man, nói sảng suốt chửi hết tụi nó rồi giật ống dẫn và kim chích ra, chảy cả máu ở chỗ chích, tôi sửa hoài, giữ tay chân sư phụ hoài mệt quá, tôi phải dùng khăn mặt và xé ống tay áo làm dây, trói chân trói tay sư phụ tôi vào thanh giường. Sư phụ giãy dụa, tôi còn đánh cho nữa.  

Người nam y tá cười hỏi: 
– Cô... đánh vào chỗ nào của sư phụ cô? 

– Tôi đánh vào cái tay chuyên bứt ống truyền dẫn nước biển thử coi sư phụ làm gì được tôi! 

– Láo thật, đệ tử dám đánh sư phụ! - Nhưng sao lại xưng em với sư phụ? 

Chị bẽn lẽn cười: 
– Chỉ có mình tôi trói được sư phụ và cũng chỉ có mình tôi dám... đánh sư phụ!   

Bác sĩ Cộng Hòa kể cho bệnh nhân biết: 
– Ông sốt rồi bị coma, mà bệnh xá thì không có thuốc, may cô Tư có bốn ống quinine max của Hungarie, của riêng cô ấy, chích hết cho ông, có thể cũng nhờ nó mà ông qua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo. 

– Sao cô ấy lại gọi tôi là sư phụ? 

– Có lẽ “nàng” xem phim võ hiệp Tàu nhiều quá. 

Người nữ y tá giải thích: 
– Cũng tại thời trước sư phụ cấp cao hơn chồng em. Chồng em hồi xưa là đại úy chiến tranh chính trị, anh ấy vẫn thường gọi các ông sĩ quan cấp trên là sư phụ. 

Ông bác sĩ Cộng Hòa kể tiếp: 
– À, chồng cô ấy cứ hai tháng thăm nuôi cô ấy một lần, và lần nào cũng làm một bài thơ “Thăm Vợ Tù” đọc cho cô ấy nghe. 

– Sao đại úy không bị tù mà bà đại úy lại bị tù? 

– Đại úy bị tù sáu năm, bà vợ thăm nuôi đủ sáu năm. Về Nha Trang anh làm nghề lái xe đò chở khách nuôi lại vợ con bù đắp ân tình mà vợ anh đã dành cho anh. Tưởng hạnh phúc gia đình sẽ êm đẹp, không còn bị ly tán nữa, ai ngờ... 

– Ai ngờ, đến phiên anh ở nhà nuôi con và đi thăm nuôi chị ở tù. 

– Kể lại đầu đuôi nông nỗi nghe với. 

– Đàn ông ở tù phần đông đều có vợ con thăm nuôi. Đàn bà đi tù ít có người được chồng tới lui săn sóc như cô Tư đây. Kể ra trường hợp như cô Tư có chồng ở nhà thăm nuôi đều đặn thế là hiếm và đáng quí lắm. Sự thăm nuôi săn sóc của gia đình cũng nói lên được tình trạng tình nghĩa của mỗi giới trong đạo vợ chồng. Bách phân bạc tình của mỗi giới thấy rất rõ trong tình cảnh ở tù và thăm tù. 

Nghe lời tán tụng chồng, người nữ y tá vui tính và tốt bụng nở nụ cười rạng rỡ. 

– Cô bị án mấy năm? 

Nụ cười rạng rỡ tắt ngấm, nét mặt cô đanh lại và cô buông tiếng chửi thề ngổ ngáo: 
– Đù má... chúng nó tuyên án tôi mười hai năm!

“Người chồng từ bến xe về gần tới nhà bị thì bị một tên cán bộ Việt Cộng trong phường hỏi móc: ‘Chào... đại úy. Đi tù về thấy trước kia ngồi trên xe Jeep có tài xế lái và bây giờ làm tài xế dành từng mối khách, đằng nào sướng hơn?’ Rồi nói qua cãi lại hai bên to tiếng, viên cựu đại úy bị nó rượt chạy, ngang qua nhà, người vợ chợt thấy chồng mình bị uy hiếp vừa chạy vừa la, bèn sẵn con dao làm cá trong tay, chị bay ra can thiệp cứu chồng, chị bổ một dao ngay bả vai kẻ đang đàn áp chồng chị, nó ngã gục máu ra lai láng! Thế là lãnh án! Đù má!” 

Ông bác sĩ Cộng Hòa kể thêm: 
– Chị vốn là y tá của nhà bảo sanh của mẹ chị, ở tù một thời gian chị được giao làm y tá ở bệnh xá này. Tính cũng dữ nhưng cũng tốt lắm. Sư phụ là bệnh nhân được chị lo cho đặc biệt lắm đấy. 

Dường như chị cũng đã qua cơn oán hận, bèn kể chuyện cấp cứu: 
– Khi thấy bệnh của sư phụ quá nặng e khó bề khỏi được, chúng mới cho chuyển sư phụ đi bệnh viện tỉnh. Chết ở bệnh viện tỉnh sẽ chôn ở trên đó luôn trại khỏi lo, cũng không gây xúc động mấy trong giới tù chính trị đã quá mòn mỏi xao động. Buổi chiều khiêng sư phụ ra gửi quá giang xe tiếp phẩm của tỉnh, sư phụ có biết những ai tiễn đưa mình không? Phải nói là tiễn đưa lần cuối, ai cũng có trong lòng cái tình cảm biệt ly ấy! 

Cô nhìn sư phụ mỉm cười kể tiếp: 
– Ai cũng nghĩ rằng sư phụ sẽ chẳng thể qua khỏi cơn mê, không ai hy vọng sư phụ còn sống trở lại nhà tù. Khiêng sư phụ ra xe mà tưởng như khiêng thi thể của một đám táng. Ấy thế mà không ngờ. Người lại “trở về từ cõi chết”. 

Ông bác sĩ mô tả “đám tang”: 
– Ông nằm thoi thóp trên cái cáng Mỹ chiến lợi phẩm, trên phủ một cái chăn đỏ Trung Cộng viện trợ, miệng ông luôn luôn lảm nhảm kêu: ‘Kiến! kiến! kiến nhiều quá!’ Tôi khiêng một đầu, tác giả ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ khiêng một đầu, ông cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 1 đi một bên bấm huyệt, một người bạn của ông đi một bên cầu nguyện, còn cô Tư tay xách cái bị quần áo và bảy ngày gạo khóc lóc mếu máo chạy theo sau. Người cán bộ y tế lững thững đi sau chót kiểm soát. Chúng tôi đều như chạy chỉ riêng mình anh ta thản nhiên lững thững. Các bác tù đồng cảnh đứng nhìn theo đám tang chạy ra cổng trại giam. Thôi vĩnh biệt! Đưa ông ra bệnh viện tỉnh rồi những ngày sau chúng tôi đợi tin báo tử, một, hai rồi ba ngày không thấy tin tức gì, nhiều người nghĩ là đã xong xuôi tất cả, bốn, năm ngày thì tôi lại nghĩ là ông không chết. Tôi nói với các vị bằng hữu của chúng ta: ‘No news, good news.’ Quả thật good news, ông còn sống trở lại vào tù với chúng tôi. Tổng cộng ba ngày nằm bệnh xá trại giam với hai mươi lăm ngày nằm bệnh viện tỉnh, có bốn ngày hôn mê hẳn và những ngày sau ngất ngư, khi trở lại đây ông như kẻ mất hồn ‘ngơ ngơ ngác ngác vờ vờ vịt vịt vớ va vớ vẩn.’ 
Kẻ thoát chết nói: 
– Xin ghi lòng tạc dạ tình cảm thương yêu lo lắng giúp đỡ săn sóc của quí vị dành cho tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi cũng sẽ suy ngẫm mãi về ‘sinh lão bệnh tư’ và lẽ sống ở đời. 

– Ông đừng quên những giọt nước mắt của đệ tử tiếc thương sư phụ. 

(Còn tiếp)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/06/thao-truong-con-sot.html
======================================================================
Thảo Trường - Cơn Sốt (4) 
   at 6/09/2013 10:51:00 AM


Thảo Trường
(Tiếp theo)

Một ông bạn già lái chiếc xe cọc cạch tới đón ông lão đi đưa đám một ông lão khác mới mất. Hai bạn già tới một nghĩa trang Mỹ ở bên đường Beach... Đây cũng là dịp cho hai ông lão mới nhập cư thấy tận mắt cái văn minh của sự chết ở Mỹ. Nghĩa địa là một thảm cỏ xanh mướt mênh mông với rất nhiều chậu hoa đẹp mắt. Đây đó lẫn vào những mộ bia ghi tên Mỹ đã có khá nhiều mộ bia ghi tên Việt Nam đồng hương. Hai ông lão chú ý tìm đọc và đã thấy có những tên tuổi quen thuộc. Người bạn già đồng cảnh mới ra tù mấy năm và mới sang tới xứ tự do này một năm thì ông ngã bệnh chết. Đứng trong đám người đưa tiễn kẻ quá cố, ông lão nghĩ tới bạn nằm trong hòm gỗ mà chạnh lòng ngậm ngùi cho thân phận mình. Thôi thế là anh đã được chết ở chốn tự do, anh có mồ yên mả đẹp ở một nơi không phải là thế giới cộng sản đày đọa anh. Nơi anh yên nghỉ vĩnh viễn không phải là cái nghĩa địa trại tù Tân Lập Vĩnh Phú hay Rừng Lá Hàm Tân... như một số các chiến hữu của anh. Còn tôi... Hai người bạn già còn sống âm thầm từ giã người bạn già thứ ba nằm lại đó sau những nghi thức chôn cất lạ lẫm điạ phương của tang gia. Một ông bâng khuâng nhớ tới cụ Nguyễn Du. Một ông tính nhẩm những con số, chết bên Mỹ đẹp đẽ sạch sẽ nhưng tốn kém nhiều quá. Tội nghiệp cho con cái phải gánh chịu. Tám ngàn đồng tiền Mỹ cho một đám tang như thế này, trong khi ở quê nhà chỉ cần vài ba trăm cũng đủ để giải quyết ổn thỏa cho một người nằm xuống, thậm chí còn rẻ hơn nữa, có khi miễn phí nếu cơn sốt trong tù không qua khỏi! Ông thấy một cựu nghị sĩ có lý không xuất cảnh chỉ với lý do sang Mỹ chôn cất đắt quá ấy là chưa kể đến những tốn kém trước khi chết. Cựu nghị sĩ nói rằng: 
– Sang bển cái bằng luật khoa của tôi, cái nghề chánh án của tôi, cái chức nghị sĩ của tôi, không dùng được. Sang Mỹ chỉ để chờ chết mà chết đắt đỏ như vậy thì tôi ở lại đây cũng xong.

Và ông ở lại, và ông có lẽ là người đầu tiên ở Sài Gòn đội nón an toàn khi lái xe mô tô. Người ta, nhất là mấy cái anh cán ngố cười ông là nhát gan sợ chết, ông mặc kệ, ông nghĩ, không soạn luật được thì ông “làm gương” an toàn trong đời sống. Sau này cũng có một công ty Singapore “noi gương” ông bắt các nhân viên thuộc công ty của họ phải đội nón an toàn cưỡi xe hai bánh chạy lung tung khắp thành phố. Hóa ra ở lại nơi chết rẻ không có nghĩa là muốn chết sớm. Còn nhớ bên Trung Quốc thiêu xác bộ trưởng quốc phòng, Nguyên Soái Bành Đức Hoài, nghe nói chỉ tốn có ba mươi đồng nhân dân tệ tiền củi đốt. Lạy Chúa, Juda bán rẻ Chúa, chẳng hiểu khi táng xác Người trong hang đá tốn kém bao nhiêu? Nhưng những bạn con cũng bị đồng minh bán rẻ, chết trong tù, chôn cất thì rất là gọn nhẹ. Mỗi khi có tù chết, cán bộ vô sản bèn tìm cách thu nhặt những gì quí giá trong cơ thể xác chết như thỏi platine, răng vàng, dấu đi đem bán làm của riêng, hữu sản hóa bản thân. Rồi chúng nhặt nhạnh mấy tấm ván, có khi là cánh cửa, có khi là giát giường, cũng có khi là gỗ tạp xẻ, đóng mấy cái đinh cho dính vào nhau, hở đầu hở đuôi, sai mấy người tù dùng đòn khiêng hay xe “cải tiến”, xe trâu, xe bò, đưa ra sườn đồi đào lỗ bỏ xuống lấp đất, thế là xong. Mọi sự phải giải quyết nhanh chóng từ khi chết cho đến lúc chôn xong nội trong ngày. Thường thì chôn vào lúc trời tối. Ông lão chộp một con còng ở bờ đầm, nó giơ càng quơ quơ chống cự. Ông lão thả con còng xuống nước, nó lủi mất xuống sâu. Ông lão chợt nghĩ tới anh đại sứ đi mò sò ở New York và chỉ thoáng qua ông nhớ ngay đến một bạn tù khác bị ỉa chảy tháo dạ suýt chết vì ăn con cua suối cạn Rừng Lá. Sau một đêm chảy hết nước ra quần anh gầy tọp đi, hai mắt sâu hoắm lờ đờ, tay chân quờ quạng đứng không vững, miệng lảm nhảm những lời gì đó, như một hồn ma, trước những con mắt hoảng hốt kinh hoàng và bất lực của các bạn tù trong phòng giam leo lét ánh đèn dầu... “Con cua trông rõ tám chân hai càng”. Cũng chưa ghê gớm bằng ngộ độc nấm rừng, ngộ độc trứng cóc, ngộ độc trái vải guốc... Trung tá, thiếu tá trèo lên mái nhà rồi lại tụt xuống, chỉ người này nhưng nói với người kia, gọi tên vợ tên con từ một chốn xa xôi nào đó, rồi khóc, rồi cười, ra nhà cầu nhưng không ỉa được, cũng chẳng còn gì trong ruột để cho nó ra nhưng vẫn muốn bài tiết, nằm gục ngay thềm cầu tiêu, khiêng vào đặt trên sạp ngủ, ruồi nhặng bay vo vo quần quần và bu đen trên mặt mũi tay chân. Đêm xuống tiếng cú kêu rợn người ở đầu lán vọng vào tận lỗ tai lỗ mũi lỗ chân lông lỗ đít lỗ mồm những con người thất trận sa cơ đang bị hành hình chậm rãi trong thâm sơn cùng cốc. Lại một cái chăn đỏ Trung Cộng túm lại gói ghém cái hình hài khẳng khiu hôi hám. Tháo mấy tấm ván sạp ngủ đóng làm hòm. Một anh cán bộ chạy lên cơ quan, khi trở xuống anh ta cầm theo một chén cơm nguội, một hột gà luộc, ba que nhang, đưa cho một người tù trong toán chôn cất rồi hối thúc: 
– Khiêng đi, mỗi anh một tay, khiêng đi chôn ngoài bìa rừng, lo cho anh ấy lần cuối. Cái này là tự anh ấy chết đấy nhá. Cách mạng đã khoan hồng tha tội chết không giết.

Toán người đèn đuốc cuốc xẻng lịch kịch khiêng cái hòm ra khỏi lán trại sang sườn đồi bên kia. Đi theo sau có bộ đội ghìm súng canh chừng. Có tiếng nói như phân bua: 
– Ăn bậy thì chết, chết nhưng đảng và nhà nước vẫn quan tâm chiếu cố chôn cất đàng hoàng, có nhang đèn đồ cúng... 

Hòm chưa hạ huyệt thì chén cơm và quả trứng đã vào bụng một người đói quá, anh vừa nuốt chửng cơm trứng vừa khấn thầm: 
– Xin hồn thông cảm, xin hồn nhận cho và chứng giám, tôi đói quá, đằng nào thì cũng có một kẻ được ăn lộc của hồn, tôi xin phép làm trước kẻo sẽ mất vào tay người khác, thời cơ...

Cán bộ được dịp nói những lời nhân nghĩa với xác chết và sỉ vả những xác sống: 
– Các anh đúng là những kẻ bóc lột, các anh cướp của người sống, các anh còn ăn của người chết, hồn đâu linh thiêng vật chết các anh này đi.

Tiếng cú kêu vẫn não nùng ghê rợn đâu đây. Lạy Chúa, con xin dâng sự khốn khó thê thảm Việt Nam này lên Người.

*

Ông lão đạp xe dọc theo lằn đường dành cho xe đạp, ngang qua khu công nghiệp vũ trụ, ông lão dừng xe nhìn vào tòa nhà cao lớn sừng sững. Đã lâu lắm rồi ông đã đi trong phái đoàn khóa sinh sĩ quan tham mưu cao cấp đồng minh đến thăm cơ sở chiến lược này. Ngày đó ông được tiếp đón, được nghe thuyết trình, được dẫn đi xem các công trình nghiên cứu và sản xuất phi thuyền không gian vũ trụ, xem cả cái phòng chân không, không sức hút của trái đất, mà ở đó các phi hành gia vũ trụ tập các thao tác sẽ làm trên mặt trăng. Bây giờ đứng ngoài nhìn vào sao ông thấy nó xa lạ. Ông lão có một người con trai làm việc trong khu công nghiệp này, chẳng rõ con ông đang ở chỗ nào trong cái tổ tò vò ấy. Hồi mới sang lưu vong ở đây ông cũng đã được con trai nói cho biết qua nơi làm của anh ta. Người con ông là một nhà khoa học cần mẫn và nghiêm chỉnh, anh ta ít nói, lo cho bố tất cả những gì bố cần và anh cho là cần cho bố. Anh ta nói với bố: 
– Bây giờ sang đây rồi và bố cũng đã già rồi thì bố muốn làm gì thì làm, bố muốn sống cách nào mà bố thấy vui là được.

Thế cho nên ông thường kể cho con trai nghe những khi bố con ngồi với nhau về những điều ông thấy và những ý nghĩ của ông về những điều đó. Người con quốc tịch Mỹ này cũng rất chú ý tới những ý tưởng của cha. Anh sống và học ở Mỹ từ thuở nhỏ nên anh cũng hấp thụ văn hoá Mỹ, anh là người thực dụng chân thành cộng với tình cảm đạo đức gia đình Việt Nam. Vì thế anh thấy ông bố thích thú về một việc gì đó ông làm, mặc dù việc làm đó đối với người khác có khi không đáng gì nhưng anh nghĩ là bố mình tìm thấy niềm vui trong việc đó và anh cho như thế là đủ. Cho nên có khi thấy cái lon nhôm ở đâu đó anh bèn nhặt và nói “để cho Bố”. Một bà bác nói chọc: 
– Ông kỹ sư mà đi nhặt ve chai. 

Anh thản nhiên: 
– Có sao đâu, bác không thấy là Bố cháu thích, tuổi già mà còn vui thích một điều gì đó không phải là thường đâu. Quí lắm đó. Sống ở đời mà không tìm thấy niềm thích thú thì bi thảm lắm bác ạ. 

Ông lão rời khu công nghiệp đạp xe trở về nhà, qua hàng rào và con kênh dẫn nước, ông nhìn thấy những ụ đất của kho đạn, ông lại nhớ đến quê nhà, khu công nghiệp vũ trụ thì xa lạ nhưng những ụ đất thì lại hình như rất gần gũi, rất Việt Nam, những ụ đất cao to hình chữ U rải rác khắp đất nước từ ngày có quân Nhật, quân Pháp, quân Mỹ... đến trú đóng, họ làm ra để chứa bom đạn. Bom để thả, hỏa tiễn để phóng, đạn để bắn. 


– Bố! Bố! 
Ông lão giật mình thức dậy, bà lão nhìn ông lão ái ngại: 
– Bố mê ngủ nói năng lảm nhảm với ai đó rồi lại còn kêu rú lên nữa, sợ quá, em lay gọi bố mới tỉnh ra đấy. 

Ông lão ngồi dậy nhìn xung quanh căn phòng, không phải là phòng giam, cũng không phải lán trại trong cốc, cũng không phải cái bệnh xá “ma trơi quỉ ám”. Ông lão nhận biết ra mình đang ở đâu. Bà lão sờ trán ông lão hỏi: 
– Bố có sao không? Trong người thế nào? Hơi có vẻ sốt đấy nhá.

Ông lão tụt xuống giường vẻ ngượng ngập: 
– Không sao đâu, bị cơn mê, có lẽ hồi chiều đạp xe đi vòng vo xa quá nên mệt.

Bà lão cười hỏi: 
– Bố mê thấy gì mà kêu réo um sùm, có gặp... tiên nữ nào không? 

Ông lão lắc đầu đi về phía phòng tắm: 
– Không gặp tiên mà là gặp quỷ sứ ma vương. Quỷ nó rượt bố! 

Nước nóng làm ông khoan khoái. Ông đứng hứng những tia nước nóng xối xả trên người. Ông nhớ lại lúc liệm xác nhà sử học, đại tá chết nằm đấy, gầy gò choắt cheo. Mới chiều hôm qua nhổ cỏ ngoài vườn thuốc nam ông còn được nghe một bài thơ nhà sử học mới làm, tâm sự của người đã bôn ba khắp nơi cuối cùng về ở tù tại địa phương quê nhà. Ông lão nghe bạn đọc thơ mà xúc động nhẩm đi nhẩm lại định bụng sẽ cất bài thơ vào trong trí nhớ. Nhưng chưa thuộc thì tác giả đã lặng lẽ ra đi. Đại tá quê ở Phú Thọ, bây giờ làm tù binh ở trại giam Tân Lập. Kẻ tha hương không chỉ về quê nhà ở tù mà còn chết ở đó nữa. Thôi thế là bài thơ thất truyền, nhưng tác phẩm “Việt Sử Tân Biên” thì vẫn còn đó. Sáu người bệnh đặt xác nhà sử học trên tấm cánh cửa khiêng đi, được mấy bước lại phải để xuống nghỉ vì chính những người này cũng không đứng vững chứ đừng nói đến đi và khiêng. Một đồng cảnh làm y vụ còn tương đối khỏe hơn nói với sáu bệnh nhân: 
– Cố lên, tôi khiêng một đầu, các ông khiêng đầu kia, cố lết đem ông ấy ra ngoài vườn, đến tối trật tự nó đem đi chôn.

Rồi anh an ủi đùa mà cũng như thật: 
– Mình khiêng ông ấy rồi người khác sẽ khiêng mình. “Mình vì mọi người mọi người vì mình”. 

Cuối cùng cũng đem được thi thể nhà sử học ra đặt trên tấm phản ở cái chòi ngoài vườn. Gió thổi vù vù làm rung rinh mái lá, cơn lạnh thấu xương, người chết nằm đó thản nhiên, người sống co rúm vào nhau. Anh y vụ lau mặt mũi và sắp xếp tay chân ngay ngắn cho đại tá. Xong anh dùng cái chăn đỏ trùm lên gói ghém bọc lấy thi thể cho ông. Lạy Chúa “Thứ bảy: chôn xác kẻ chết”. 

Ra khỏi nhà tắm, ông được bà lão sấy tóc cho: 
– Bố phải quên những cái đó đi cho tinh thần nó thảnh thơi.

– Cũng ráng quên đấy chứ, nhưng nó vẫn cứ còn đó. 

– Ở Việt Nam bố có nước nóng để tắm không? 

– Có, mùa hè nước suối cạn đọng ở những vũng nhỏ nước nóng lắm, còn mùa đông nước lạnh lắm... 

Bà lão bực mình: 
– Em hỏi trong tù có máy làm nước nóng... 

– À, sẽ có, năm 1975 mấy người cộng sản ở trong rừng ra họ nói chỉ cần 5 năm là họ tiến bằng nước Anh nước Pháp sẽ có đủ hết các máy móc văn minh và nhà cầu tự hủy, mười năm họ sẽ bằng ông Liên Sô và sẽ vượt qua thằng Mỹ, mười lăm năm họ sẽ đứng đầu... 

– Thôi, thôi, Bố muốn uống cà phê không? 

– Có muốn. Ở đó Bố không có ai sấy tóc cho mình sau khi tắm. Cũng không có cà phê... 

– Thôi, thôi, đã nói Bố phải quên cái nơi đó đi... 

– Ờ, quên, sẽ quên... 

– Em có nhờ mấy đứa cháu nó tiếp tế cho Bố đủ thứ mà? 

– Ờ, sau này thì có được tiếp tế, trước đó thì tuyệt đối không được phép nhận các thứ quà cáp, có bác tù già ghiền quá bèn rang ngô cháy đen giả làm cà phê, vấn lá trà khô giả làm thuốc hút... có ý tự đánh lừa mình. Thế giới đó là thế giới của ảo tưởng, kẻ thất trận bị hành hạ có khi cũng cố tìm cách trấn an mình bằng những ảo tưởng, mà kẻ cướp được quyền hành cũng phải bày đặt ra những hào quang không có thực để tự lừa dối lẫn nhau, tất cả là ảo tưởng hết, mà thực tế là cả nước khốn khổ.   

Ông đang uống cà phê thì nhận được lá thư từ Việt Nam, thư cho biết một người bạn tù già của ông lại bị bắt bỏ tù lần nữa. Ông giáo sư Quốc Gia Hành Chánh ở tù đủ mười bảy năm, ra tù ông không chịu xuất cảnh như các tù chính trị khác mà ung dung ở lại. Ông giáo sư có lần nói với ông lão: 
– Ông có con cái ở bên đó thì đi đi, coi như đi du lịch nước ngoài thăm vợ con, chán rồi về. Còn tôi, tôi ở lại cái xứ sở này để làm việc. Trước kia cộng sản nó giam giữ mình sợ mình ra nước ngoài chống lại nó, nay thì trái lại nó muốn tống mình đi vì sợ mình ở trong nước sẽ... chống lại nó. Cho nên, nó thả mình ra nhưng lại hối thúc mình làm hồ sơ “xin” xuất cảnh để nó “khoan hồng nhân đạo” cho đi, nếu mình đi là trúng kế nó, tôi chẳng còn gì để sợ cho nên tôi ở lại xem chúng làm gì tôi nào. Ở Yên Báy, Tân Lập, Nam Hà, Rừng Lá, hay Sài Gòn, hay xa hơn nữa Quận Cam, thì có gì khác nhau đâu? Nếu ta tỉnh táo thì ta bao giờ cũng vẫn là ta, biết cách sống, biết cách chết, biết cách ở tù, biết cách tự do... thì ở đâu cũng được. Hôm vừa rồi có anh chàng công an đến nhà nói: “Con nghe tin bố bị mổ sa đì, đến thăm, chả là con được giao nhiệm vụ ‘nắm’ bố nên con phải theo dõi, các bố khác đều làm hồ sơ đi Mỹ xong cả rồi sao bố vẫn chưa làm, bố có tính đi không?” Tôi đãi nó hút thuốc có cán và uống trà Thái Nguyên, xong, tôi bảo nó: “Tao chẳng đi đâu cả, mày thấy nhà tao đang ở đấy, “to bằng lỗ mũi”, tao đi lại bằng xe đạp. Trước kia chúng mày đi xe đạp vào chiếm miền Nam đi Honda, bây giờ mày đi Honda đến thăm bố, mày ở nhà “hoá giá”, còn tao vẫn ở căn nhà này vì chúng mày chê nó xệ quá không lấy, nhưng có sao đâu, tao vẫn thấy thoải mái, đâu cần phải đi đâu nữa.” Nó nói: “Con đến thăm bố, bố đừng nói chính trị, con nói không lại”. Tôi trả lời: “Ừa, thế thì uống trà đi, hút thuốc đi, mày cứ làm nhiệm vụ của mày cũng như tao cứ làm việc của tao, nếu mày có nhiệm vụ bắt lại tao bỏ tù nữa thì mày cứ tự nhiên thi hành công tác, tao nói thật đấy, chỗ tình nghĩa... bố con.” Nó nhăn nhó: “Bố cứ nói chính trị hoài, con hỏi bố nếu làm... thủ tướng thì bố có làm không?” Tôi cười trong khói thuốc: “Làm chứ, nếu mời là tao nhận lời, làm thủ tướng tao sẽ bài trừ tham nhũng cho mà coi, tham nhũng như rươi, mày có nhận thấy thế không, thấy thế mà không ai trừ được, nếu làm thủ tướng tao sẽ diệt tận gốc. Tao kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước; Quốc Phòng và Nội Vụ cũng do tao chọn người.” Khi nó chào ra về tôi còn cho nó bao thuốc nguyên, cu cậu sẽ báo cáo sao đây với cấp trên của nó. 

Sang Mỹ ít lâu ông lão nghe tin giáo sư công khai lập Phong Trào ở Saigòn, ra tuyên ngôn, chuẩn bị họp Đại Hội, trả lời phỏng vấn công kích chế độ đang cầm quyền ở Việt Nam, ông lão hiểu được là người bạn già giáo sư làm thiệt, ông không có gì để mất và để sợ, đúng như vậy, để xem chúng nó làm gì được ông, chúng có làm gì được ông thì chưa biết nhưng ở hải ngoại đã có người chửi ông là cò mồi, đối lập giả, đón gió... chửi nặng lắm, không rõ ông có nghe được những lời, những giòng chữ oan nghiệt đó không? Và bây giờ thì có tin là giáo sư đã bị “cum” lại lần nữa thiệt. Cũng dễ hiểu thôi, đương nhiên là cộng sản hắn đâu có chịu được cái gai giáo sư đâm vào ruột gan chúng. Và “con lại phải bỏ tù bố thôi”. Chỉ tội cho bà vợ ông, mười bảy năm lặn lội nuôi tù, giờ đây lại tiếp tục bao bị nhu yếu phẩm nữa. Ông lão đọc thư xong mà ngậm ngùi cho người bạn già, và ông thấy là mình... hèn quá, tham sống, sợ chết, ngại khổ, bỏ chạy sang đây làm gì cơ chứ. Ông lão nói với một bạn già viết văn hằng ngày vẫn gặp nhau ngoài bãi biển: 
– Chúng ta đã phạm nhiều sai lầm liên tiếp, thứ nhất là đã thua trận trong khi mình rất mạnh, thứ hai là tráng sĩ sa cơ mà không biết tự xử, thứ ba là để cho cộng sản nó nhốt tù, thứ tư là ở tù lâu thế mà còn sống nhăn, thứ năm là nó thả ra mà để cho nó nói là tha, thứ sáu là đi ra nước ngoài... Lại một lần nữa “Chạy Trốn”. 

(Còn tiếp)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/06/thao-truong-con-sot_9.html
======================================================================
Thảo Trường - Cơn sốt (5) 
   at 6/23/2013 10:19:00 AM

Thảo Trường

(Tiếp theo và hết)

Lượm ve chai ngoài bãi biển thấy thanh niên Mỹ trượt nước kiểu surfing có vẻ hay ông cũng theo con trai đi chơi môn thể thao ấy. Hình như chỉ thấy có ông là lão tướng chơi với đám trẻ. Ông trèo lên ngã xuống rồi bơi rồi ngụp lặn kéo sợi giây buộc nơi chân lôi tấm ván lại trèo lên nữa... tập mãi rồi cũng đứng lên được ngọn sóng mà bay để rồi mà ngã nhào... Ngụp trong nước, ông lão nhìn thấy ông Hoan, một người Hoa có tiếng là lội giỏi ở Quận Năm Sài Gòn, bị bắt nhốt cải tạo trong đợt “cải tạo tư bản tư doanh” phát động ở Miền Nam, ông Hoan dạy học ở Chợ Lớn nhưng tội trạng ghi trong hồ sơ của ông là “Đặc Vụ Tưởng” có nghĩa là tình báo có nhiệm vụ đặc biệt phe Tưởng Giới Thạch. Ông Hoan tắm ở Suối Lạnh bơi gần đập, bị nước cuốn qua đập tràn, chết, xác ông trôi theo dòng mấy trăm thước mới tấp vô một bụi tre bên bờ. Ông cũng được chôn dễ dàng nhanh chóng nội tối đó nhưng sáng sau thì gia đình ông từ Sai Gòn đã tìm lên trại hỏi thăm. Công an trại giam không thể hiểu được tin tức đã truyền đi cách nào mà nhanh đến thế bèn cho là có bàn tay CIA Mỹ trong trại tù nên lùng sục tìm kiếm điện đài, chắc là phải hiện đại lắm, sẽ nhỏ lắm nhưng tinh vi lắm, phải là thế hệ điện tử hay vi điện tử mới nhất. Nhưng người nhà kẻ quá cố thì nói rằng đêm qua ông Hoan về báo mộng cho bà vợ ông nên cả nhà đã kiếm xe đi từ sáng sớm để lên xin xác ông về chôn, nhưng trại giam đã chôn ông từ đêm qua rồi. Chúng đưa tang gia ra nghĩa điạ chỉ một nấm đất mới, nói đó là mả của ông Hoan. Bà vợ ông than khóc vật vã và kêu lên rằng:
– Sao lại có thể như thế? Sao lại có thể vội vàng như thế? Sao lại có thể dễ dàng như thế? Hở Trời?



Rồi chúng đem cái túi gọi là tư trang gồm mấy cái áo quần của ông đã bị đóng dấu Z30D tùm lum và mấy thứ lặt vặt như lon, gô, ca, cóng, trả cho gia đình, làm như phân minh và tôn trọng của cải của tù nhân lắm, chúng đuổi gia đình về và nói sẽ... điều tra xem ai đã thông tin nhanh như thế. Chẳng biết công an điều tra đến đâu, nhưng ngay trong trại có anh tù cùng đội với ông Hoan, cũng người gốc Hoa, cũng thành phần tội danh “tư bản tư doanh” tên là Soi, Soi bô bô nói rằng anh ta đã biết trước cái chết của ông Hoan và chính anh ta đã báo cho gia đình ông biết. Anh này còn trẻ không thấy gia đình thăm nuôi bao giờ và tính tình anh hơi khác lạ. Anh nói với mọi người: 

– Soi biết trước từ lâu là ông ta phải chết vì Soi đọc thấy tên ông ta trong... sổ tử trên trời. Soi còn biết trước ngày giờ chết và chết đuối nữa. 
– Biết trước sao mày không nói cho ông ây biết để tránh? 
– Đâu có được phép nói, “thiên cơ bất khả lậu”. Soi chỉ báo cho gia đình ông ấy biết mà thôi. 
– Mày báo bằng cách nào? 
– Soi báo được, Soi ở đây nhưng có thể nói cho bà vợ ông ấy ở nhà nghe được. 
– Tài, mày tài lắm... 
– Thật đó, Soi ở trong trại nhưng Soi nhìn thấy cán bộ đi và nghe thấy cán bộ nói ở ngoài trại. 
– Lại tài nữa, mày thấy hết biết hết thế bao giờ mày về? 
– Về đâu? 
– Về nhà chứ về đâu nữa, chẳng lẽ mày cứ muốn ở tù hoài. 
– Soi không có nhà, cán bộ thấy Soi ngủ ở lề đường Chợ Lớn nên cho Soi lên đây. Ở đây có cơm ăn... 
– ... Và áo mặc nữa chứ. 
Quả là nó được ăn và áo mặc, không những ăn no những phần cơm của các nhà tư bản thực thụ bỏ mà thỉnh thoảng còn được các đồng hương của nó múc cho một món ăn Triều Châu rất chất lượng. Soi nhận và ăn rất tự nhiên không cần cám ơn, làm như đó là của nhà nước xã hội chủ nghĩa cu cậu cứ việc hưởng theo nhu cầu. Quần áo cứ sáu tháng trại phát một bộ, nó mặc cho đến rách, cho đến khi có bộ khác khỏi lo thay lo giặt mất công. Và phải đóng dấu, nếu trật tự quên đóng dấu thì nó tranh đấu đòi cho bằng được, không như một vài bác tù khác gần mười năm tù vẫn còn e lệ cứ muốn nghĩ mình là “cải tạo viên”. Nó thường dùng bàn tay che một mắt, còn chừa một mắt và nhìn lên trời rất lâu. 
– Mày làm gì thế? 
– Soi đang xem đánh nhau ở bên Campuchia. 
– Đánh lớn không? 
– Súng bắn quá. 
– Chết nhiều không? 
– Nhiều, tất cả đều là... con của Soi? 
– Con mày? 
– Dạ, tinh trùng của Soi nhiều vô số kể, cả tỷ, cả tỷ, chỉ cần một muỗng là có hàng tỷ đứa con, tất cả là con của Soi, các cán bộ cũng là con của Soi. Đám tù đứng nghe chuyện thằng Soi phì cười, có người nói: 
– Thằng này... ngon ạ. Nó lớn giọng: 
– Thiệt đấy, Soi không nói láo đâu, bố những đứa nói láo. 
– Đúng là thằng này... ngon. 
– Thế hằng ngày mày gói những gói đồ gửi cho ai đấy? 
– Soi gửi cho bác Hồ, bác Mao, gửi cho những ma đói và gửi cho các con của Soi nữa. 
– Quả thật thằng này... ngon hơn ai hết. 
Trật tự thấy đám người xúm đông bèn giải tán: 
– Cứ nghe thằng điên nói xằng lại lôi thôi rắc rối nữa. 
Soi cũng bỏ đi làm chuyện của nó. Nó nhặt rác rưởi đủ thứ bẩn thỉu rồi gói lại, buộc dây cẩn thận chằng chịt rất kỹ, xong đem cất giấu vào những xó góc hoặc liệng qua hàng rào tre ra ngoài trại. Hồi đầu công an bắt trật tự tịch thu những gói đó, mở ra lục xét, nhưng thấy toàn đồ dơ, miết rồi không thèm để ý nữa, có bắt gặp thì bắt nó liệng vào thùng rác. Sau đi đến đâu cũng thấy có những gói như vậy, ở hàng rào, ngoài vườn, trong sân, nổi lều bều ngoài suối... và gọi đó là “bưu phẩm của Soi.” Cho nên khi nghe Soi nhận mình là CIA thì công an trại cũng không thèm tin, không thèm chấp, không thèm điều tra gì hết trọi. Rồi cũng đến một ngày “nhà tư sản mại bản” tên là Soi ấy bị thả ra khỏi trại giam, nhưng anh cứ luẩn quẩn ở cổng trại Rừng Lá, mấy ngày sau người ta còn thấy anh, tay cầm tàu lá buông nhỏ che trên đầu, đi ngược rồi lại đi xuôi, trên quốc lộ... Còn hồi sau nữa thì không rõ ra sao. 
Chơi môn trượt nước cần nhiều sức, nguy hiểm cho tuổi già nên người con chỉ chiều bố mấy lần cho bố biết rồi thôi, anh khuyên bố không nên “mê” cái môn surfing ấy nữa. Mấy bố con bèn đi coi football Mỹ, đi mãi tận San Francisco xem trận Cowboy gặp 49ers. Ông lão đâm mê cái môn thể thao lạ hoắc với Việt Nam này. Dĩ nhiên đi xem football thì không thể đi xe đạp và cũng không có thì giờ lượm ve chai. Người con nói với bố: 
– Người Mỹ thường hay say mê quá độ một cái gì đó, xem football mà nhìn khán giả xung quanh sẽ thấy sự cuồng nhiệt của họ, con nghĩ mình không nên mê một cái gì quá đáng. 
Thế là mấy bố con rủ nhau tham dự đủ các môn: Hockey, trượt tuyết, bowling... Bà lão cằn nhằn “Bố khùng con cũng mát nốt” nhưng bố con chỉ cười nhìn nhau. Bà lão say mê công việc kinh doanh, bà điều khiển một xí nghiệp sản xuất đồ gỗ và bà thành công trong công cuộc làm ăn này. Trong khi ông lão thường khoe mỗi tháng lượm ve chai ông thu nhập gần ba trăm đồng. Ông còn tính thành tiền Việt Cộng và ông còn nhân lên một năm, mười năm, trăm năm... số tiền ông bán ve chai được mà không phải tiêu pha gì. Ông nói chắc nịch: 
– Tỷ phú. 
Các con ông có lần chọc bố mẹ: 
– Sao má không mướn bố làm manager cho hãng của má? Mỗi năm má trả cho bố một trăm ngàn, bố tha hồ mà nhân lên... 
Bà lão dảy nảy: 
– Từ hồi nào tới giờ chỉ một bà Mỹ già lương năm chục ngàn năm, giúp má cai quản mấy chục nhân công đủ các sắc dân, mà công việc chạy đều, bây giờ đưa Bố mày vào hãng cho “loạn cờ” à. Hôm mới sang má đưa đến thăm xưởng một ngày mà Bố đã không chịu nổi. Biểu nghỉ khoẻ và rong chơi cũng không chịu nghe, bày đặt “lao động sản xuất”, tưởng làm gì hoá đi lượm ve chai, rõ chán. 
Ông còn nhớ hôm đó đi theo xe bà chủ tới thăm xưởng cho biết sự tình, ông thấy mọi sự đều lạ với ông. Trước hết là bà lão nhà ông có uy với thợ thuyền, thấy bà tới họ răm rắp chào răm rắp người nào việc đó, còn bà thì bắt tay vào giải quyết các công việc một cách rất nhanh chóng và thuần thục, nghe điện thoại, ký giấy tờ, trả lời các câu hỏi của bà Mỹ già quản lý, cùng lúc, bà làm việc tất bật lại còn thỉnh thoảng giới thiệu ông chồng đang xớ rớ “ngồi chơi xơi nuớc” với một nhân viên nào đó vào nhận lệnh. Giữa các đợt công việc bận rộn như thế, thỉnh thoảng có một giây nào đó rảnh, bà lão nhìn ông nháy mắt cười rồi lại tiếp tục giải quyết công việc tiếp. Mấy người thanh niên thiếu nữ Mỹ mà bà sai đi chuyển hàng khi chào ông họ gọi ông là grandpa, cũng như đã gọi bà là grandma, ông nhìn họ thấy họ cao lớn, trắng trẻo, kiếng trắng, râu xồm, tự nhiên và tự tin, như là các người Mỹ trong đoàn phối trí viên ở Tổng Cục ngày xưa trong khi bà gọi họ là boy, “eh boy”. Thiếu nữ khoảng hai mươi thì đội nón ngược, xỏ tay túi quần jean hoặc đứng chống nạnh. Họ thắng xe cái két rồi các ông cố vấn, cô cố vấn, vác trên vai những cái bàn cái tủ to tướng chạy vù vù nhanh nhẹn tự nhiên và vui vẻ theo lệnh grandma. Tiếng Anh bà nói ríu rít như chim nghe lưu loát êm tai và hấp dẫn. Ông lão cứ ngớ người ra trên chiếc sofa to lớn ở góc phòng. Có lúc ông suy nghĩ theo kiểu chiến tranh thì rõ ràng đây là một cuộc xâm lăng của di dân vào tận nước Mỹ và đã chiếm đóng, đã đô hộ, đã “bóc lột”... nhưng rồi ông lại suy nghĩ theo kiểu hoà bình thì rõ ràng những kẻ “xâm lược” này đã bị Hiệp Chủng Quốc đồng hóa, đã bị nuốt chửng, đã biến thành Mỹ, một loại Mỹ sắc tộc, trong số hơn hai trăm năm mươi sắc dân khác ở khắp thế giới đã gom vào Mỹ bằng di tản, nhập cư chính thức hay lậu, và cũng đã bị nuốt chửng để trở thành cư dân Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ biết hát bài America The Beautiful. Bà lão sử dụng những phương tiện xung quanh bà một cách thành thạo như computer, máy Fax, máy điện thoại viễn liên, máy chuyển tiền vào chương mục ngân hàng... Ông nghĩ rằng còn lâu lắm may ra ông mới biết xài những thứ đó. Bà thuộc lòng những số điện thoại giao dịch, thuộc lòng những giá cả thị trường lên xuống, thuộc lòng những mặt hàng nào tiêu thụ nhanh chậm, thuộc lòng cá tính những khách hàng, mà ông nghĩ là cũng phải lâu lắm mới có được cái kiến thức kinh doanh ấy. Cho nên nhìn bà bén nhạy giải quyết công việc một cách hoàn hảo và thích thú, ông lão nhận ra ngay mình là gì trong thế giới mới này. Đến trưa là giờ cái bao tử Việt Nam của ông nó cồn cào, cái gì cũng vậy, cơm ngày ba bữa và một giấc ngủ trưa. Bà biết vậy nên gọi Pizza cho ông ăn, bà cũng ăn một miếng nhưng vừa ăn vừa cặp cái điện thoại nơi cằm trả lời khách hàng. Ông có nhận xét là ở đây thời gian ít và quí vì nó là công việc là tiền thu nhập cho hãng xưởng. Các máy móc chạy ồn ào nơi xưởng mộc và xưởng may bọc đệm ngoài kia cũng thế, ai cũng làm việc rộn rịp. Ăn xong thì ông buồn ngủ và ông ngủ lúc nào không biết ngay trên chiếc sofa, khiến bà phải chuyển sang làm việc bên bàn bà quản lý phía ngoài, dành cái văn phòng giám đốc của bà cho ông... ngơi. Sau một giấc chợp mắt, ông bừng thức dậy không thấy bà, cũng không thấy công an không thấy bệnh xá không thấy trại giam, ông bèn rón rén mở cửa thò đầu ra ngoài, bà quản lý nhìn thấy bèn chỉ cho bà chủ, bà lão bèn đi vào phòng với ông và cười và nói cho ông biết là ông ngủ ngáy to quá bà phải ra ngoài đóng cửa phòng để nhân viên không ai vào thấy. Ông lão hơi ngượng nhưng bà lão nói an ủi ông “Bố ngủ được là khoẻ, là quí”. Ông nghĩ ừ thì quí nhưng ở đây không ai quí cái đó cả nên ông thấy là mình không hợp thời. Đi theo bà một ngày đến hãng xưởng ông thấy rõ là mình chẳng giúp ích gì được cho bà ngoài cái sự có mặt của ông trên xe hơi, để bà có thể sử dụng lane carpool trên freeway. Và ông bèn đi lượm ve chai, gọi là nghề “tự do”. Người xung quanh cho là ông lão bị cộng sản nó đày đọa, nó nhốt tù lâu quá sinh lẫn, lẩm cẩm, dở hơi... Ông lão hình như lại khoái chí bị coi là như vậy. Ông thấy mình tỉnh táo hơn bao giờ hết, tỉnh táo đến độ ông phải làm ra vẻ... ngớ, và làm ra vẻ ngớ một cách tỉnh táo đến độ như ngớ thật. Một hôm ở tiệm ăn con ông kêu món “áp chảo”, ông lão hỏi “áp chảo là cái gì”, bà lão sợ bạn gái của con trai cười ông bố nhà quê bèn huých khẽ ông như bảo đừng có hỏi nhà quê nữa. Ông lão ngồi cười trong bụng và nhớ đến cái lần ăn phở xào áp chảo đầu tiên trong đời. Lâu lắm rồi, mấy chục năm qua rồi nhưng ông vẫn còn nhớ cái kỷ niệm ấy rõ ràng như nó sờ sờ trước mắt và ông nhớ người bạn cùng đậu tiểu học với ông, nhớ cái tiệm ăn ở phố Hàng Thao Nam Định, ông còn nhớ cả cái mùi vị thơm tho của món ăn “sang trọng” lần đầu và niềm hân hoan của đôi bạn ăn mừng “tốt nghiệp vinh qui”. Có ai nói gì ông ngồi lặng thinh nghe, thỉnh thoảng có góp chuyện vào thì toàn những câu ngang phè hay ngớ ngẩn. Ông hay nói với các con yêu quí của ông: 
– Bố... ngớ. 
Sống giữa xã hội toàn những người văn minh và khôn ngoan, mình làm được một người ngớ thì cũng thú vị lắm. Trước một người đàn bà vĩ đại như bà lão vợ ông thì chỉ có cách ông làm một người ngớ thực sự mà thôi. Ông tự nghĩ năm 1975 bà dắt một đàn con ngót chục đứa lao nhao lớn nhất chưa tới mười lăm, tiếng Anh trung học, tài sản tay trắng, chạy loạn khỏi Việt Nam sang một nước hoàn toàn xa lạ, mà rồi bà lão lần hồi tự học tự làm lúc đầu nhờ vào cứu trợ của nhà nước và nhà thờ sau tần tảo chăn dắt đàn con đến nay chúng đều đã tốt nghiệp đại học và đã túa đi làm việc ở khắp nơi trên nước Mỹ, bà còn lập một hệ thống tiếp tế qua những người chị và các cháu bà ở Việt Nam cho ông lão tù từ trong Nam ra ngoài Bắc rồi từ ngoài Bắc vô trong Nam suốt mười bảy năm trường, và cơ ngơi nhà cửa xe cộ xí nghiệp kinh doanh căn bản vững vàng như thế thử hỏi nếu là ông, ông có làm được vậỵ không? Ông lão tự hỏi và tự lắc đầu trả lời “không”. Và ông chỉ còn có cách làm một người ngớ để hành hạ đền bù cho bà. Ông tuyên bố: 
– Nhà cửa của bà, xe cộ của bà, con cái ông cũng của bà, và nước Mỹ này cũng của bà. 
Ông gọi bà là “bà Mỹ”, còn ông khôn lỏi nhận mình là “kẻ lưu vong”. Bà hỏi: 
– Thế Bố mất hết cả à? 
Ông gật đầu nói nhỏ: 
– Mất tất cả, chỉ còn lại một tí bé nhỏ. 
– Cái gì? 
Ông chỉ vào bà lão: 
- Mất tất cả, chỉ còn lại có bà. 
Bà lão choáng ngợp xúc động, lát sau bà nói: 
– Bố ngớ. 
Lát sau nữa bà lại nói: 
– Bố khôn. 
Sống bình lặng ở một nơi hoàn toàn khác biệt với những thói quen của quá khứ, ông lão suy ngẫm về cuộc đời và nhớ lại tất cả. Ông cho là mình may mắn kiếm được việc lượm ve chai vinh quang như thế này và vì thế ngày ngày ông đều đặn siêng năng từ sáng đến chiều lang thang theo một lộ trình với chiếc xe thồ. Có lần ông về nhà sớm thì thấy là vô lý vì bà lão và đàn con đều đi làm tối mới về. Ở Mỹ ai cũng làm việc. Ông lại đạp xe đi vì ông cũng phải làm việc. Ông lão đạp xe ra khỏi khu đầm lầy, từ giã những cái máy bơm dầu suốt ngày gật gù đã hằng thế kỷ, từ giã những sinh vật may mắn còn được một nơi dung thân giữa một thành phố công nghiệp điện tử, ông đạp xe dọc bờ biển. Ngang một ghế đá ông dừng xe, một đồng cảnh ngồi đó nhìn ra biển, ông lão “Hi” và ông lão kia cũng “Hi”. 
– Viết xong quyển sách chưa? 
– Sắp. 
– Hôm nào soạn cho một bản tuyên ngôn nha. 
– Ừa. 
Từ ngày sang Mỹ hai người không hẹn mà chiều nào cũng gặp nhau như thế. Cả năm rồi cứ lượm ve chai và cả năm rồi quyển sách lúc nào cũng “sắp” xong. Ông lão đạp xe đi tiếp, tự hỏi không rõ ông nhà văn nhìn cái gì ngoài biển Thái Bình Dương kia mà nhìn hoài không chán, in như hồi ở tù ngồi bó gối trên cái ghế gỗ trước bệnh xá nhìn ra khoảng không trước mặt. Tới cầu ông lão dựng xe đi bộ ra mỏm cầu gặp một người ngồi câu cá, hai người lại “Hi” nhau. 
– Có muốn cá tươi về nấu không? 
– Không! Bao giờ thì triệu tập họp chi bộ? 
– Ờ, khoảng cuối năm. 
Ông lão lắc đầu nhòm vào thùng cá. Hồi ở tù Suối Lạnh người bạn già này cũng rất siêng câu cá mưu sinh, bây giờ sang đây ông cũng câu cá rồi năn nỉ biếu không hàng xóm. Ông lão cũng chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào mà hơn trăm tù binh sót lại ở đáy trại giam lại có tới ba người trôi giạt vào cái bờ biển này của nước Mỹ, và chiều chiều thấy nhau, “Hi” nhau, hờ hững và thân thiết. 
Giã từ ngư ông thì trời cũng sắp tối. Ông lão thủng thẳng đạp xe về nhà, giờ này bà lão và các con ông cũng sắp đi làm về. Ông lão đem giấu cái bao ve chai mới lượm được vào xó nhà xe rồi đi tắm, thay áo quần, ông sắp phải tiếp xúc với những người của một nền văn hóa khác, đó là vợ con ông. Ông lão mở TV. Có một người nào đó bắn vào Toà Bạch Ốc. Cảnh sát Tòa Bạch Ốc bắn chết một người nào đó. Xe vận tải chở xác chết đi chôn ở Phi Châu như chở rác đổ xuống hố. Ruồi bu đầy mặt mũi trẻ em đang chết đói. Trình diễn thời trang chó. Quyền đồng tính luyến ái. Bác sĩ điều trị giết theo quyền chết. Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm thêm 30 Hồng Y. Tranh chấp dầu hỏa ở thềm lục địa Việt Nam. Vịnh Cam Ranh sẽ để cho hải quân nước nào sử dụng... Rắn, rắn, con rắn bò trên giường, đó, đánh nó đi, không phải rắn, phải mà, tôi đã bảo con rắn là con rắn... 
– Cậu, cậu tỉnh lại đi cậu... 
– Cậu, cậu có biết cậu đang ở đâu không... 
– Kiến, lại kiến nữa, kiến bu nhiều quá trên bàn tay... 
– Ừ kiến, cháu phủi đi rồi, hết kiến rồi, thấy chưa... 
Bệnh nhân mở mắt nhìn cánh tay, đúng là hết kiến rồi, nhìn sang bên thấy chị gái, cháu cậu, cháu chú. 
– Tỉnh rồi, cậu tỉnh lại rồi. Cậu biết đây là đâu không? Không phải phòng giam, cũng không phải bệnh xá, nhưng có công an đứng cửa... 
– Cháu này, má cháu này, chị T. này, cậu nhận ra không? 
Bệnh nhân gật đầu, nhưng lại nhắm mắt. Hai con chim cu đất chui qua chui lại cái lỗ thông hơi trên tường phòng giam. 
– Bắt nó. 
– Cậu tỉnh lại đi, bắt ai. 
– Đó, hai con chim cu đất... 
Bệnh nhân chỉ tay bâng quơ, người cháu gái nói: 
– Ờ hai con chim cu đất, mà nó bay đi rồi. 
Người chị gái đứng bên giường mếu máo: 
– Trời ơi, em tôi điên rồi. 
– Cậu nhận ra má cháu không? 
Bệnh nhân ngáy khò khò, một chặp sau chợt mở mắt lại nhìn quanh, mẹ con người chị lại xúm vào hỏi. Lần này bệnh nhân biết thêm ít điều nữa và tỉnh lâu hơn. Ở bệnh viện tỉnh và người nhà từ Sài Gòn lên săn sóc. 
– Cậu mê man bốn ngày nay rồi. Cậu khỏi bệnh đi nhá. 
Cháu chú cũng nói: 
– Chú khỏi bệnh rồi còn sang với cô và các em. 
Cứ thế, tỉnh rồi mê, mê rồi tỉnh, chìm xuống, xuống dưới lằn nước rồi trồi lên, lên khỏi mặt nước, chìm xuống trồi lên, trồi lên chìm xuống, bập bềnh, nổi trôi, dật dờ, chới với, ngụp lặn mãi nhiều lần nữa rồi mới tỉnh hẳn. Nhưng nhiều tháng sau còn ngơ ngác. Ở Sài Gòn thì đồn ông đã chết chôn ở Phan Thiết, có người bạn còn nghe tin ông bị đem về nhà thương điên Chợ Quán... Bây giờ thì kẻ lưu vong ngồi một mình trong căn nhà vắng này chờ bà lão và các con ông đi làm sắp về. Hãy tạm xem TV với các tin tức thế sự thăng trầm. Trong khi chờ đợi... 
(HB/12.94)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/06/thao-truong-con-sot_23.html
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001