15 năm Internet VN: Hành trình thuyết phục ròng rã
Tiến sĩ Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng
Bộ Bưu chính viễn thông, chia sẻ rằng mỗi ngày thấy chị bán rau, anh xe
ôm... trước nhà cũng có điện thoại, cũng bàn chuyện trên Internet, ông
lại xúc động và thấy may mắn vì đã mạnh dạn vận động mở cửa Internet.
Được mệnh danh là người có ảnh hưởng số một đến Internet Việt Nam và có tên trong danh sách 50 Người tiên phong do VnExpress.net tổ
chức bầu chọn, tiến sĩ Mai Liêm Trực không giấu được sự bồi hồi khi nhớ
lại quãng thời gian không thể nào quên - những ngày đầu Việt Nam hoà
mạng Internet toàn cầu cách đây 15 năm và quá trình vận động nhằm thay
đổi quan niệm về quản lý Internet kéo dài xuyên qua hai thế kỷ.
- Cách đây 15 năm, không phải ai cũng có thể hiểu được tầm quan
trọng của Internet. Trong hoàn cảnh nào ông đã nhận thấy sự cần thiết
phải triển khai Internet ở Việt Nam?
- Năm 1991, tôi sang Mỹ dự hội nghị thông tin vệ tinh của thế giới và
bạn bè quốc tế giới thiệu với tôi về Internet. Tôi cảm thấy rất hấp dẫn
bởi khi đó chúng ta đã có điện báo, điện thoại, fax nhưng cùng với
Internet là sự phát triển của thư điện tử. Cũng trong năm đó, World Wide
Web ra đời đã tiếp sức mạnh và làm tăng triển vọng của mạng kết nối
toàn cầu. Khi về nước, tôi cùng các nhà khoa học hỗ trợ nhau về viễn
thông và công nghệ để làm sao kết nối Internet ra nước ngoài. Những bức
thư điện tử đầu tiên của các lãnh đạo và chuyên gia Việt Nam với một số
nước, như e-mail của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi cho lãnh đạo Thụy Điển
chính là chất xúc tác lớn cho khát vọng của những người làm khoa học
công nghệ và viễn thông là sớm triển khai Internet ở Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, nhiều công nghệ đã xuất hiện muộn tại Việt Nam như
điện thoại chậm khoảng 50 năm, truyền hình chậm 30 năm so với thế giới.
Ngành viễn thông may mắn đã được số hóa (hướng đi được giới chuyên môn
đánh giá là táo bạo vì lúc đó, đa số mạng viễn thông thế giới vẫn là
analog) song song với sự phát triển của Internet cuối những năm 80 đầu
90 của thế kỷ trước. Cho nên chúng tôi quyết tâm rằng cùng với sự hiện
đại hóa của viễn thông, Internet sẽ là nhu cầu, sức ép của thời đại mới.
- Ông và các chuyên gia gặp khó khăn gì khi thuyết phục các nhà lãnh đạo?
- Khi lãnh đạo Đảng và Chính phủ lắng nghe đề xuất đầu tiên, nhiều lo
ngại được đề cập như nguy cơ lộ bí mật Nhà nước hay liệu có quản được
thông tin độc hại trên Internet không. Những lo ngại đó hoàn toàn chính
đáng. Chúng ta đã hy sinh, mất mát quá lớn trong chiến tranh nên phải
thận trọng. Nhưng chúng tôi đặt vấn đề là không kết nối Internet thì
Việt Nam không thể hội nhập. Thế giới đang bước vào thời kỳ mà Internet
sẽ đóng vai trò rất quan trọng. Khi Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á năm 1995, người ta đã bắt đầu nói đến ASEAN điện tử. Việt
Nam không mở Internet thì làm sao gia nhập được ASEAN điện tử. Đây là
vấn đề cấp bách, không làm không được, không làm thì Việt Nam bị cô lập
và lạc hậu.
- Vậy ông và các chuyên gia đã làm thế nào để "trấn an" cấp trên và đâu là cú hích khiến Internet được mở cửa?
- Trong nhiều năm, Tổng cục Bưu điện (tiền thân của Bộ Bưu chính Viễn
thông Việt Nam) nơi tôi làm Tổng cục trưởng được lãnh đạo Đảng và Nhà
nước yêu cầu làm sao để báo chí Việt Nam, như Nhân Dân, Quân Đội
và các báo kinh tế có thể tuyên truyền ra nước ngoài. Tuy nhiên, chi
phí một cân báo gửi tới châu Âu hoặc châu Mỹ mất khoảng 10 USD, chưa kể
sau khi chuyển lại không có ai đi phân phối. Internet chính là câu trả
lời cho vướng mắc đó. Đây là một trong những yếu tố khiến các nhà lãnh
đạo đồng ý mở Internet, nhưng tôi nghĩ, tác động mạnh nhất tới quyết
định cuối cùng chính là sự tin cậy vào những con người trực tiếp triển
khai.
Chúng tôi cũng học hỏi kinh nghiệm nhiều nước đồng thời áp dụng biện
pháp riêng để ngăn ngừa mặt tiêu cực như triển khai tường lửa hay ký
thông tư liên tịch giữa Tổng cục Bưu điện và Bộ Công an... Thế nhưng, ở
giai đoạn sơ khai với nhiều nhạy cảm, các nhà lãnh đạo đã ra quyết định
rằng quản lý Internet được đến đâu thì mở đến đó. Tuy không ủng hộ quan
điểm này, tôi cho rằng đó là điều hợp lý trong thời kỳ đầu của Internet.
- Cảm xúc của ông thế nào vào thời khắc Internet được mở cửa?
- Thở phào nhẹ nhõm. Trước đó, tôi cùng một số chuyên gia đã có cuộc
gặp gỡ tại nhà riêng của Thủ tướng Phan Văn Khải. Khi về, Thủ tướng vỗ
vai tôi nhắn nhủ: "Trực ơi, quản lý cho tốt vào nhé". Tôi bỗng hiểu
rằng, đó vừa là lời động viên, là sự thể hiện quyết tâm chính trị của
lãnh đạo trong thời mở cửa và hội nhập nhưng cũng vừa là lời nhắc nhở về
trách nhiệm của mình, rằng mình cần thận trọng, theo dõi sát sao khi
Internet ra đời.
Ngày 19/11, lễ ấn nút mở cửa Internet đã diễn ra. Mở cửa Internet không
chỉ mang lại lợi ích cho đất nước mà còn tác động lớn đến niềm tin của
các nước rằng chúng ta đang tích cực hội nhập. Nhưng sau khoảng 6 tháng,
trong cuộc họp của ban chỉ đạo quốc gia, một vài cơ quan chức năng đề
cập đến một loạt bài viết có nội dung tiêu cực trên mạng. Lắng nghe báo
cáo, tôi giật mình nhớ tới câu nói của Thủ tướng Phan Văn Khải rằng nếu
mở Internet ra rồi mà còn đóng lại thì không biết ăn nói thế nào. Làm
sao yên lòng tiếp tục tham gia, tiếp tục phát triển trên Internet? Lại
phải thuyết phục thôi. Tôi nói báo chí quê hương đã lên mạng, người ta
nói sai thì Internet mang đến cho mình cơ hội nói lại. Nếu chúng ta
không có Internet, người ta vẫn nói những điều không đúng và cả thế giới
vẫn đọc được trong khi mình không có điều kiện phản bác. Thời đó, các
báo chính thống như Nhân Dân, Quân Đội, truyền hình... đều
không tiếp cận được hoặc tiếp cận rất hạn chế với đồng bào ở nước ngoài.
Internet không chỉ giúp chúng ta phản biện trên mạng mà còn khiến Việt
Nam không bị cô lập về mặt thông tin.
- Mở Internet đã khó, thay đổi quan điểm "quản đến đâu mở đến đó"
còn khó hơn. Ông và các chuyên gia đã làm thế nào để thuyết phục các nhà
lãnh đạo?
- Với quan điểm quản đến đâu mở đến đó, Việt Nam chưa có đại lý
Internet nên số người sử dụng rất hạn chế. Giới khoa học và chuyên gia
tiếp tục thực hiện cuộc vận động mới với mong muốn có nghị định mới về
Internet. Rào cản lớn nhất là sự độc quyền viễn thông. Cố Thủ tướng Võ
Văn Kiệt từ năm 1995 đã có chủ trương mở cửa thị trường viễn thông nhưng
nhiều năm không thực hiện được vì cái gọi là "sự độc quyền tự nhiên".
Đây là vấn đề nhạy cảm, khó thực hiện ở hầu hết tất cả các nước chứ
không riêng gì Việt Nam. Như Mỹ, Australia cũng mất đến 10 năm mới có
thể phá bỏ độc quyền.
Từ năm 1997 đến năm 1999, Việt Nam bắt đầu các phiên đàm phán hiệp định
thương mại Việt - Mỹ, trong đó có lộ trình mở cửa thị trường viễn
thông. Đến giờ chót, trước khi ông Vũ Khoan, khi đó là Bộ trưởng Bộ
Thương mại, đặt bút ký Hiệp định tại Washington (Mỹ) vào năm 2001, Ban
Thường vụ Bộ chính trị đã gọi trực tiếp cho tôi và ông Lê Đức Thúy,
Thống đốc ngân hàng, yêu cầu giải trình lần cuối để cân nhắc có gọi sang
cho Vũ Khoan ký hay không. Nói vậy để thấy quyết định mở cửa viễn thông
nhạy cảm tới mức nào. Mở Internet chủ yếu là thuyết phục cấp trên nhưng
với viễn thông thì còn là sự thuyết phục ngay bên trong nội bộ. Tôi
động viên mọi người rằng mình cạnh tranh sòng phẳng thì thành tích của
mình mới xứng đáng, chứ độc quyền thì sẽ liên tục bị xã hội lên án. Như
hiện nay người ta kêu ngành điện lực thu nhập cao thế sao cứ kêu lỗ,
người làm điện lực hẳn thấy tự ái, nếu là tôi thì tôi cũng cảm thấy tự
ái. Nhưng nếu cạnh tranh bình đẳng, anh có thu nhập cao anh sẽ càng tự
hào. Quan trọng hơn, nó tạo ra sức ép trong nội bộ, còn không tư duy bao
cấp, ỷ lại sẽ còn tồn tại mãi.
Chúng tôi cương quyết thay đổi quan niệm, không phải quản đến đâu mở
đến đấy mà là quản lý phải theo kịp sự phát triển. Vì thế, khi Nghị định
55 về quản lý Internet được ban hành năm 2001, các đại lý Internet, như
thể bấy lâu bức bí không thoát ra được, nở rộ như nấm mọc sau mưa. Cũng
chỉ sau một năm có quyết định cho phép doanh nghiệp cùng cạnh tranh
Internet, FPT đã chiếm được 30% thị phần. Tôi rất mừng và thở phào bởi
từ lúc này, không ai có thể đóng Internet vì cả xã hội đã thấy được sức
mạnh quá lớn của nó. Nhiều doanh nghiệp cảm ơn Tổng cục Bưu điện và tôi,
nhưng tôi mới phải cảm ơn lại FPT, Viettel vì nếu họ không thành công
tức là chính sách của tôi thất bại. VNPT có công rất lớn trong quá trình
số hóa, nhưng phá bỏ độc quyền nghĩa là chúng ta không cản trở sự phát
triển của đất nước.
Sau 15 năm nhìn lại, có thể khẳng định Việt Nam đã thành công khi có
thị trường viễn thông - Internet vào loại hàng đầu của khu vực và thế
giới trên ba tiêu chí. Thứ nhất, công nghệ tương đồng không thua nước
nào từ cáp quang, 3G và sắp tới là 4G. Đứng về giá cả, cước phí dịch vụ
trong nước thấp hơn so với nhiều quốc gia khác. Nhiều người đi nước
ngoài về nói Internet Việt Nam là "thiên đường". Thứ ba là về mức độ phổ
cập, Internet hiện chiếm hơn 30%, thuê bao di động chiếm 130% trên tổng
số dân.
- Chứng kiến Internet ngày càng phát triển, cảm xúc của ông - người số một của Internet Việt Nam - như thế nào?
- Tôi rất vui vì mình đã đóng góp cho sự phát triển của Internet và
được xã hội tôn vinh, nhưng đó chỉ là một phần. Điều tôi mừng nhất là
khi chứng kiến công nghệ và Internet đang thay đổi cuộc sống xung quanh.
Mỗi ngày nhìn ra cửa thấy mọi người từ già đến trẻ đều cầm điện thoại
bấm bấm, thấy chị bán rau, bác đồng nát cũng bàn chuyện mới diễn ra trên
mạng, mình xúc động lắm chứ. Và trên hết, tôi thấy may mắn vì Việt Nam
đã không chậm chân trước vào con tàu Internet, bởi nếu lúc đó chúng ta
không mạnh dạn mở cửa với lý do an ninh, nhạy cảm... thì giờ sẽ cảm thấy
có lỗi với dân vì đã cản trở sự phát triển của đất nước.
- Ông cảm thấy thế nào khi giới trẻ dành quá nhiều thời gian trên mạng xã hội và diễn đàn hiện nay?
- Diễn đàn, mạng xã hội không chỉ là nơi giới trẻ yêu thích mà ở đó,
người tham gia tự điều chỉnh những cái lệch lạc. Những quan điểm vô văn
hóa sẽ bị "ném đá", có người tưởng mình giỏi, mình hay nhưng khi đưa
quan điểm lên mạng, được góp ý, phân tích thì hóa ra mình sai, mình ngộ
nhận. Chính những phản ứng xã hội trên mạng giúp nâng cao dân trí. Vì
thế, chúng ta nên tích cực trao đổi và đối thoại. Giới trẻ lọc thông tin
rất tốt. Tôi rất cảm động khi chứng kiến mọi người chung tay giúp đỡ
các hoàn cảnh khó khăn được chia sẻ trên mạng. Tôi cũng rất vui khi thấy
mọi người cùng phản đối những câu nói vô cảm trên diễn đàn.
Ở đâu cũng có mặt hạn chế, tiêu cực, phải coi đó là chuyện không thể
tránh. Nếu thấy thông tin sai thì các nhà lý luận, chính trị - xã hội...
có thể lên mạng xã hội để đối thoại một cách quang minh chính đại chứ
không nhất thiết phải lên tiếng trên mặt báo hay các kênh chính thống.
Chúng ta không nên lo ngại mà cần tăng cường trao đổi (tôi không thích
dùng từ tuyên truyền) để hướng đến giá trị chân chính.
Với sự phổ biến của smartphone, tablet, băng rộng..., chắc chắn
Internet còn tác động mạnh hơn nữa đến con người. Rồi đây, ranh giới
giữa cuộc sống online và offline sẽ bị xóa nhòa. Người ta hay nhắc đến
cuộc sống ảo nhưng không phải, đó là cuộc sống thật. Thực ra, cuộc sống
online còn thật hơn offline vì người ta có thể thẳng thắn nêu quan điểm
mà chưa chắc đã dám nói khi đối mặt.
- Đang làm giám khảo của cuộc thi "Internet thay đổi cuộc sống của bạn như thế nào", ông có thể chia sẻ Internet đã thay đổi cuộc sống của gia đình ông ra sao?
- Thế hệ trẻ ngày nay coi Internet như một nỗi đam mê. Tôi có 4 đứa
cháu (17 tuổi, 12 tuổi, 8 tuổi và 3 tuổi) đều lên mạng cả. Bé nhỏ nhất
cũng đã biết tự mở FaceTime (dịch vụ chat hình trên iPhone và iPad) để
gọi về cho ông và đôi khi tôi bị đánh thức lúc 1h đêm vì cháu đang ở
nước ngoài và chưa hiểu về chênh lệch múi giờ.
Tôi đi du học ở Đức lúc 17-18 tuổi, ấn radio còn sợ điện giật. Thế mà
giờ một em bé cũng có thể sử dụng thiết bị thành thạo. Trước tôi cũng lo
lắng sợ mấy đứa trẻ trong nhà nghiện chơi game vì mình bận rộn công
việc còn bọn trẻ lại thiếu không gian chơi nên chỉ có thể tiêu khiển
bằng xem phim hoạt hình và vào mạng. Thống kê những năm đầu cho thấy
30-40% lưu lượng Internet đến từ game nên tôi cũng sốt ruột nhưng hóa
ra, nhiều nước khác thời kỳ đầu cũng na ná như vậy. Bên cạnh đó, tiếng
Anh của các cháu khá hơn hẳn, rèn luyện trí thông minh và quen làm việc
tốc độ cao. Cháu tôi lúc 10 tuổi lần đầu đi trại hè quốc tế nhưng nhập
cuộc rất nhanh. Ngôn ngữ có thể bất đồng nhưng chỉ cần vào mạng hay dùng
chung iPad là chúng hiểu nhau ngay, không có Internet thì làm sao được
như vậy?
Hiện mỗi ngày tôi vẫn online ít nhất là 3 tiếng. Từ bé tôi đã mê đọc
nên giờ tôi tải rất nhiều sách trong iPad. Tôi vẫn trò chuyện với con
cháu qua FaceTime và giờ không còn đọc báo giấy.
Bài và ảnh: Châu An
Nguồn: VNE.
Bài và ảnh: Châu An
Nguồn: VNE.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001