Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

NGỘ - đoản văn của Vân Đình Hùng 
Ngộ 
Đoản văn của Vân Đình Hùng
Hồi những năm đầu của thập kỷ 70, ga xe lửa của tuyến đường phía bắc phải sơ tán sang ga Đông Anh. Tôi được theo các con nhang đệ tử đi lễ hành hương ở đền Bảo Hà gần Lào Cai, phải tăng-bo bằng các phương tiện khác đến Đông Anh rồi chờ đến tối, tàu mới khởi hành.
Một vấn lễ của một thành viên Hội - quần - tiên được chuẩn bị khá kỹ. Từ bông hoa, lá trầu, quả cau đến các loại bánh, kẹo, rượu và các loại thực phẩm để dùng làm cỗ mặn. Đi lễ hành hương thường là những người thân, có quan hệ gia đình hoặc bạn bè cùng cánh; nhưng chủ yếu là những người có đồng, căn cao số nặng phải đầu hàng bốn phủ và được “các cô, các cậu” chấm lính bắt đồng. Những người này thường đi theo để giúp việc phụ lễ, bày biện lễ vật trên các ban thờ và hầu dâng.

Tiệc mặn được làm khá công phu, có người còn đem sẵn cả một con lợn sữa đã cạo lông, mổ phanh ra, ướp các loại gia vị, kèm theo gần một yến than Đục-Khê và một chai dấm trộn lẫn mật ong dùng để quay lợn tại nhà đền.
Đến nơi sau tuần trà thuốc, nghỉ ngơi, ai vào việc nấy. Người thì cắt tiết làm gà, người thì chuẩn bị chỗ để quay lợn. Con lợn được đặt úp lên một cái mâm sạch, người đầu bếp già đi theo đoàn cẩn thận lấy chai mật ong trộn với dấm chua cứ thế rót dọc sống lưng con lợn. Hỗn hợp dấm mật ong lan đều, phủ lên da con lợn sữa trắng hếu một lớp màu vàng sền sệt. Xong việc, con lợn được hong gió cho se bớt, rồi được lồng vào một cái xiên hình chữ U có chuôi bằng ống sắt trông tựa như cái gảy rơm ở quê. Hai cái trạc chữ V bằng cây tươi chặt trong vườn được đóng xuống, than Đục-Khê được đốt đỏ rực. Chú lợn con mắt nhắm nghiền được quay qua quay lại trên ngọn lửa than hồng rực, một lúc sau, những giọt mỡ chảy xuống, bắt lửa kêu xèo xèo. Chừng gần một tiếng đồng hồ, lợn chín, da vàng rộm, ửng màu cánh dán. Cứ thế, con lợn được đặt lên một cái mâm đồng đánh sáng choang và được bưng lên đặt lễ tại công đồng. Các món khác cũng vừa làm xong, và được đơm, bày rất khéo trông thật thích mắt. Các cô đồng (thường là các cậu hoặc các ông con trai) là những người buôn bán giàu có, làm ăn đang hái ra tiền mới dám chuẩn bị một vấn lễ thịnh soạn như vậy.
Mâm lễ tam sinh cúng Mẫu và hội đồng tứ phủ gồm đủ các sơn hào hải vị. Lợn, gà, giò lụa, chả quế, bóng, vây, mực... Mâm lễ cúng sơn trang gồm đủ cơm lam, thịt thính, khế chua, măng vầu, 12 con cua đồng hấp chín đỏ nhưng nhức, ốc nhồi hấp với lá bưởi, gừng cay, chanh tươi, ớt quả được bày thật công phu. Hương nến đã thắp lên. Trong không khí trang nghiêm, ông thày (thường là các cung văn cao tuổi đàn anh trong nhóm cung văn hát dâng văn khi hầu đồng) cất giọng ê a trang trọng tuyên sớ, dứt lời, dàn nhạc cử bài nhạc theo điệu Lưu thủy, thường dùng khi hành lễ. Các con nhang, chủ tế sì sụp khấn vái, cầu xin đủ thứ trên đời, chủ yếu là cầu cho được mua may bán đắt, đi tươi về tốt, đi một về mười... Hết tuần hương, cỗ được hạ xuống để mọi người thụ lộc. Ăn uống xong, ai lại vào việc nấy, bày biện hoa quả trên công đồng, cung đệ nhị, hậu cung, lầu cô, lầu cậu, v.v...chuẩn bị cho vấn lễ hầu đồng.
Cô đồng bắc ghế hầu thánh trong vấn lễ hành hương này sau khi dọn mình (tắm rửa) sạch sẽ, mặc bộ đồ lót-mình-hầu màu trắng và bắt đầu trang điểm. Các đồng cô nam giới thường xưng chị em với nhau, họ luôn coi mình là giới nữ, nên trang phục họ chọn để mặc cũng là quần áo nữ. Có người còn độn ngực, mặc áo trong như đàn bà vậy. Nhất là các đồng cô được mời làm hầu dâng thì rất điệu đàng. Trong lúc trang điểm để chuẩn bị hành lễ, họ nói với nhau rất nhẹ nhàng, tô môi, kẻ mắt cho nhau, hoặc cài lại cái khuy áo, trông thật thuận hòa.
Hồi đó còn chiến tranh nên việc lễ bái thật công phu, vất vả. Nhân đức tin của họ đã vượt qua mọi khó khăn để đạt được ý nguyện là được dâng mình cho đấng hư vô. Để có được vấn lễ tố hảo, chủ lễ phải đăng ký trước vớiđồng đền và các quan chức địa phương, xin được chuông trống khi làm lễ. Thậm chí họ còn mời dân thôn và các ông trưởng thôn, trưởng bản đến thụ lộc và dự lễ.
Khoảng tám chín giờ tối, vấn lễ bắt đầu tiến hành. Các cung văn tấu nhạc, ban nhạc có bốn người. Một người đánh đàn nguyệt, một người thổi tiêu, sáo, một người gõ phách, một người đánh trống. Người đánh đàn và gõ phách thường thay nhau hát khi dâng văn các giá thánh về ngự khi hầu đồngVấn lễ hầu đồng thường kéo dài từ sáu cho đến tám tiếng đồng hồ, có giải lao ở giữa thời gian.
Cô đồng chủ lễ chắp tay xin phép mọi người để được hầu thánh và mời bốn đồng cô được chọn làm hầu dâng vào vị trí. Nhạc nổi lên, đèn nến lung linh, hương thơm ngào ngạt, cô đồng trong tư thế ngồi, chùm tấm khăn đỏ thêu rồng phượng lên đầu rồi đảo người cùng với tiếng hú hoang dã, một lúc sau, tấm khăn đỏ được hất tung ra sau khi lời cung văn mời ông thánh đầu tiên về ngự đồng vừa dứt.
Thứ tự hầu đồng được tuân theo nghiêm ngặt. Đầu tiên phải mời các giá Mẫu về ngự, tiếp đó là các Quan lớn rồi giá các Chầu, các ông Hoàng, các Cô và cuối cùng là các Cậu. Có người hầu gần hết các giá, nhưng khi hầu các giá Mẫu, thông thường họ chỉ hầu ba giá Mẫu: Mẫu đệ nhất, Mẫu Thoải, rồi hầu đến Mẫu bản địa (thí dụ như Mẫu Đông Cuông, Mẫu Phủ Giầy...). Khi Mẫu ngự, cô đồng nhập thần, khoan thai, nhẹ nhàng, âm thanh phát ra khe khẽ. Tiếng đàn văn sang trọng lơi buông những âm giai cung đình. Mẫu ngự không lâu, không truyền phán gì, chỉ nhìn sang trái, sang phải như chứng cho tất cả các con nhang đệ tử của Người đang khâm trực đắm say suốt vấn hầu, với đôi mắt ngưỡng mộ, tự tin chờ đợi...



Trong các giá quan lớn ngự đồng, ngôi thứ ba được gọi là Quan Lớn Tam Phủ, khi ngự ngài mặc áo trắng thêu thủy ba sóng gợn ở gấu áo và một ổ rồng chầu bố cục uyển chuyển thành hình tròn trước ngực. Việc thay khăn chầu, áo ngự của các giá được diễn ra ngay tại nơi hành lễ trong tư thế ngồi; bốn người hầu dâng chuẩn bị rất nhanh, chính xác những trang phục cần có, loáng một cái, cô đồng như hóa thân thành một ông thánh khác so vớigiá trước đó đã xe giá hồi cung.
Âm nhạc vẫn dìu dặt chờ đợi. Các bà, các cô đi lễ hành hương bị cuốn hút vào không khí vừa trang nhã vừa siêu thoát linh thiêng. Thời gian như được thay đổi đơn vị đo đối với họ.
Trang phục đã xong Quan Lớn Tam Phủ cầm một bó hương to do người hầu dâng, dâng trong tư thế cúi đầu, ngài bắt đầu khai cuông và hành lễ. Rồi ngài cầm thêm tấm nhiễu đỏ của người hầu dâng khác cũng cúi đầu dâng lên, tay phải giơ cao bó hương nghi ngút nhả khói, bó chân hương được bọc trong một đầu tấm nhiễu đỏ, tay trái chống nạnh, giữ đầu kia của tấm nhiễu, mắt ngài nhìn thăm thẳm vào cõi hư vô, hướng tới các bức tượng đặt trên ban thờ trong hậu cung. Thần sắc như chuyển, như say làm khuôn mặt ngài rạng rỡ dị thường.
Trường đoạn múa thanh long đao thật uy nghi hoà cùng lời văn ca ngợi công đức ngài đã có công dẹp giặc được cung văn dâng thành kính cùng tiếng nhạc nẩy nhịp quân hành. Thỉnh thoảng tiếng hắng giọng oai vệ của ngài phát ra làm mọi người thấy rõ cái uy của ngài. Thanh long đao quay tít, quay tít, lúc tiến, lúc lui, đường đao tỏ rõ bản lĩnh của một đấng bậc đứng đầu bát vạn hùng binh. Các con nhang ngây ngất chiêm ngưỡng...

Khi ngài trao thanh long đao lại cho người hầu dâng, và ngồi xuống cạnh một chồng gối xếp bọc gấm, âm nhạc trùng lại khoan thai. Ngài bắt đầu làm việc quan, hầu dâng cúi đầu dâng thuốc, dâng trà (trà sen thơm ngát vừa pha để cúng khi giá ngài về ngự), ngài vỗ gối nghe văn, thưởng thức lời ca tiếng nhạc, phong độ ung dung. Thỉnh thoảng có những câu hát ca ngợi công đức ngài thật hay, tay trái ngài vỗ gối, tay phải ném ra một số tiền có giá trị không nhỏ để thưởng cung văn. Người cung văn dạ một tiếng nhỏ, và tay đàn hình như dẻo hơn nhập cuộc. Sự phối hợp nhịp nhàng của người đánh trống làm cho không khí ban thưởng càng đậm đà. Khi ngài vỗ gối, những tiếng cắc gõ vào tang trống dồn dập, tiền thưởng tung lên là những tiếng tùng oà ra, vỡ tung trong không khí hừng hực của buổi hành lễ.
Cảm thấy sự hiện diện trên trần gian như thế đã đủ, ngài ngồi xếp bằng, mắt lim dim rồi bất thần tay ngài tung mạnh tấm khăn đỏ chùm lên đầu, tiết tấu nhạc cuống quít lạ thường, người cung văn nhả câu “Thánh giá hồi loan”. Các cô hầu dâng thì “Nam mô” rối rít “Tấu lạy” rối rít khẩn cầu mời gọi các giá thánh về ngự. Bốn giọng hầu dâng như dàn hợp xướng bốn bè cùng cất lên vừa như khẩn khoản, vừa như nũng nịu, cho đến khi cô đồng ra dấu tay, ông cung văn nhìn thấy liền dâng văn mời giá thánh vừa được cô đồng ra dấu. Rồi nét nhạc lại khoan thai dìu dặt mời gọi, lời văn thỉnh mời các giá thánh về ngự đồng được dâng trang trọng, đến khi cô đồng gật đầu, rùng mình tung tấm khăn phủ diện ra thì cung văn bắt đầu bản văn của giá đó tiếp theo vừa chợt hiện về ngự đồng. Khăn chầu áo ngự được thay đổi cho phù hợp.
Trong các hàng quan lớn, các cô đồng hay chọn hầu Quan Lớn Tuần tranh, Quan Lớn Tam phủ, Quan lớn Triệu Tường còn các quan lớn khác ngài ít về ngự đồng. Có một số ít cô đồng sát căn Quan Lớn Trần Triều (Trần Hưng Đạo) khi hầu, giá ngài vẫn về ngự. Mỗi phủ (trong tứ phủ) thường có mười hai ngôi, từ ngôi đệ nhất tới ngôi thứ mười hai, có phủ gọi ngôi thứ mười hai là “bé”, như Cô Bé, Cậu Bé v.v... Các giá hầu khác nhau, cô đồng lại múa với các loại binh khí khác nhau. Khi thì dùng một thanh long đao to bằng gỗ, có lúc lại là đôi hèo hoa với chuỗi lục lạc bằng đồng phát ra âm thanh vui tai, hoặc đôi kiếm gỗ..., tất cả vật dụng trợ giúp cho cuộc hành lễ đều là đồ thờ đặt trong đền, trong phủ.
Sau các giá Quan lớn là các giá Chầu. Các giá chầu có Chầu đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ, chầu lục... Các giá ở ngôi thứ sáu là các giá thượng, sơn trang, nên dâng văn cho các giá này nhạc có tiết tấu sôi động được xây dựng trên nền làn điệu Xá - một trong ba làn điệu chủ yếu: Dọc, Cờn, Xá dùng rất biến hóa trong hát dâng văn hầu đồng. Nét nhạc mang âm hưởng của dân ca các dân tộc vùng núi phía bắc hay vùng tây nguyên nước ta. Người hầu đồng tay múa mồi lửa, miệng ngậm miếng trầu nhai dập, đứng dậy nhún nhảy theo điệu nhạc, tay vung vẩy chiếc khăn voan xanh lục, thỉnh thoảng cất tiếng hú dài. Một lát sau, hầu dâng đốt đôi mồi lửa cháy phừng phừng, cô đồng kẹp mồi lửa vào giữa hai ngón tay để sấp, rồi bắt đầu điệu múa với mồi lửa theo tiếng nhạc và những tiếng hú dài gọi bầy. Nhạc càng nhanh cô múa càng dẻo. ánh lửa từ đôi mồi (làm bằng giấy bản vặn vấn thừng vào nhau được nhúng vừa khéo trong nến nóng chảy) khi lên, khi xuống phản chiếu ánh bạc trong các bộ xà tích, bộ khuy hình con bướm đính trên trang phục và ánh mắt long lanh siêu thoát của cô đồng làm thành một không khí huyền ảo mê hoặc lòng người. Chầu vui bao nhiêu, mặt đổi diện bao nhiêu, sau vấn lễ cô đồng nhiều lộc lắm. Khi về nhà mà được đắc ý nguyện cầu, lộc lá Chầu cho chồng chất, cô đồng lại sắm một lễ tạ to lắm tại bản đền hay một đền nào đó để tạ Người.
Vũ điệu dân gian như một trường đoạn của vai diễn linh thiêng với sự trợ giúp của một tâm linh ổn định, hướng thiện, hướng tới một cõi-tâm-linh vừa được xác lập.
Cõi tâm linh của cô đồng với nhân đức tin đang được lớn dần, bùng lên đột khởi, như được trợ giúp bởi quyền năng vô biên của một ngôi vị vô hình tận ở xa xăm. Người hầu đồng được đặc cách nhận năng lượng vũ trụ truyền tới.
Sau những cơn thăng hoa bạo liệt của điệu múa mồi lửa, Chầu lục quỳ xuống, nhưng thân hình luôn di chuyển, lúc sang phải, lúc sang trái, lúc phía trước, lúc lại ngả về phía sau. Người hiến nguyên một gói thuốc lào Vĩnh Bảo (to bằng ruột cái bánh gai Ninh Giang) vào miệng, nhai cùng miếng trầu đã ứa nước đỏ nồng. Vẫn cái thân ngúc ngoắc, Chầu phát ra những tiếng hú nhẹ nhàng, hun hút sâu, như khoan vào núi đá rậm rạp vô hình. Người bắt đầu ban phát lộc cho các hầu dâng, phát lộc cho những người đang dự lễ, lần lượt ai cũng được một phần lộc của Chầu. Lộc Chầu ban cho là những phần bánh xinh xắn, những túm hoa quả tươi được bao gói, buộc tỉa công phu. Riêng “cái ghế của Chầu”, Người dành riêng miếng trầu đang nhai trong miệng kèm một bông lan hay một bông hồng đỏ thắm xinh xắn. Gói Lộc-Chầu được gói bằng một mảnh giấy điều và được đặt cẩn thận lên ban thờ cạnh cây nến sáng trưng. Hết vấn lễ cô đồng mang về nhà đặt lên bàn thờ tại gia mong Lộc Chầu linh nghiệm, hiển hiện trong doanh thương.
Khi Chầu xe giá, mắt Người nhắm lại, hai tay chắp cao trước mặt, miệng cất tiếng hú nhẹ. Hầu dâng nhanh tay phủ tấm vải đỏ lên đầu. Cung văn vẫn cái nhịp cuống quít nhả lời “Thánh giá hồi loan”. Mặc dù đã hát dâng văn rất nhiều vấn hầu, nhưng đến lúc “Xe giá”, cái cuống quít của tay đàn, tạo nhịp điệu gấp gấp, vẫn như bất thần đến với người cung văn già dặn, ngơ ngác.
Màu sắc trang phục (thường được gọi là khăn chầu áo ngự) của cô đồng tôn trọng ngôi thứ trong mỗi phủ. Màu đỏ cờ là ngôi đệ nhất, màu xanh lá cây tươi là ngôi thứ hai, màu trắng là ngôi thứ ba, màu đào phai là ngôi thứ chín, và ngôi út lại là màu trắng với các đăng ten viền mép áo sặc sỡ. Cũng có cô đồng áp đặt những ý thích riêng của mình khi may khăn chầu áo ngự, nhưng nhìn chung các màu cơ bản cho các ngôi thứ luôn được tôn trọng.
Sau các giá Chầu là các giá Ông Hoàng. Cũng mười hai ngôi nhưng người ta lại gọi khác đi. Ông Hoàng Đệ Nhất, Ông Hoàng Đôi, Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Chín, Ông Hoàng Mười. Mỗi giá ông hoàng đều có đền thờ chính. Tại đền Bảo Hà, Lào Cai là đền thờ ông Hoàng Bảy. Đền thờ Ông Hoàng Mười ở Nghệ An...
Có hai giá Ông Hoàng được hầu rất cẩn trọng, từ khăn chầu áo ngự cho đến lộc ông hoàng, việc chuẩn bị công phu lắm. Khi Ông Hoàng Bảy về ngự giá, ngài mặc áo dài kép hai lớp, lớp trong là áo dài trắng, lớp ngoài là áo dài đoạn màu xanh lam, mặc như vậy được coi là đúng cách sang trọng. Chỉ những cô đồng khá giả, coi trọng việc lễ bái mới dám đầu tư bộ khăn chầu áo ngự cầu kỳ như vậy. Các cô đồng nghèo khi hầu thánh chỉ mỗi một cái áo dài đỏ hoặc thêm một cái xanh, cái trắng, rồi thì cũng vẫn hầu qua các giá thánh, hoàn thành vấn lễ của mình.
Cách thức làm việc quan của các giá Ông Hoàng cũng tương tự như các giá Quan Lớn, nhưng sự oai vệ có phần giảm đi đôi chút. Lúc ngài làm việc quan, hầu dâng dâng trà sen cúng (tuần trà mới khi giá ngài về ngự), dâng thuốc lá được phết nước sái thuốc phiện. Các điếu thuốc được cắm chân hương vào phía đầu lọc, được phết, tẩm nước sái rồi cắm vào một vật mềm đặt trên đĩa, làm thành một món lễ vật lạ mắt đặt trên công đồng. Ngài thườngngự hai cho đến ba điếu, cứ hút đến nửa chừng, ngài lại ban cho hầu dâng hoặc bất kỳ ai ngài muốn. Khói thuốc có nước sái phết ngoài thơm ngầy ngậy làm ngơ ngác các con nhang đang lễ hành hương theo ghế Ông. (Khi bắc ghế hầu thánh, các giá thánh mà người hầu sát căn được gọi là ghế của vị thánh đó, thí dụ ghế Chầu, ghế Ông, ghế Cô...). Trà sen dâng lên, lời văn tao nhã như gió thoảng, văn dâng Ông Hoàng có cả những thú chơi của người trần, có lúc chuyển sang làn điệu hát ả đào, lời ca các thày mượn trong các bài ca trù truyền thống hoặc tự soạn lấy lời. Nội dung dựa vào những đặc trưng của giá Ông, ca ngợi công đức lồng trong những thú chơi tao nhã và những cảnh sắc bồng lai nơi tiên giới trong sự tưởng tượng sáng tạo của người nghệ nhân. Nghe văn lúc làm việc quan cũng phải có kiến thức, các cô đồng thường được bổ xung các kiến thức này qua các lần bắc ghế hầu thánh của chính mình hoặc các lần khâm trực các giá thánh ở những lần đi lễ hành hương. Họ quan sát kỹ và nhớ những động tác chuẩn mực của những người được coi là Đồng Linh Bóng Hiển, đứng đầu trong Hội-Quần-Tiên.
Lộc Ông Hoàng Bảy ban phát là những điếu thuốc lá được bày trên mâm lễ, con nhang đệ tử có người hút ngay tại đền, có người gói cẩn thận đem về. Phát lộc tiền là cách phát lộc phổ biến khi hầu đồng trong một vài giá quy định. Ngài ban phát khắp lượt, ai cũng được một phần lộc nhỏ do những người hầu dâng nhận từ tay ngài đưa tới hoặc do một vài người được ngài chỉ định đem lộc phân phát. Quan niệm khi phát lộc ở các giá hầu thánh là: Tán lộc ra rồi thu lộc về (Tiểu tiền suất, Đại tiền nhập). Các con nhang đệ tử có dính dáng đến ả tiên nâu thường quý các món lộc do Ông Bảy ban phát lắm. Có người còn xin hai suất cho một ghế Ông vắng mặt.
Ông Hoàng Mười lẫm liệt, oai phong trong trường đoạn múa thanh long đao (chỉ có hai giá có múa thanh long đao là giá Quan Lớn Tuần Tranh và giá Ông Hoàng Mười. Có lẽ các ngài đã từng là võ tướng linh hiển của bát vạn hùng binh một thời). Nếu quan sát kỹ, cách múa thanh long đao của hai giá thánh có sự khác biệt trong động tác, điều này nói lên sự công phu của người bắc ghế hầu thánh. Cũng có khi do sự theo dõi chăm chú nhiều lần qua những vấn hầu, rồi khi chính mình được hầu bóng Ngài, trong lúc thăng hoa, động tác tự nhiên nhanh nhẹn lạ thường như có lực lượng siêu nhiên nào ẩn náu phía sau, hay ẩn náu ngay trong những đường đao vậy.
Khi về ngự giá, Ông Hoàng Mười mặc áo dài gấm màu hoàng oanh có các ổ rồng thêu thất thể rất sang trọng. Khăn xếp ngài đội cũng được viền một khăn nét màu vàng cùng loại thêu lưỡng long chầu mặt nguyệt. Động tác của ngài khi làm việc quan sang lắm, mặt ngài đổi diện, trông thật lạ lùng, không giống khuôn mặt ngày thường của cô đồng. Tinh hoa như được phát tiết qua ánh mắt nhìn, qua giọng nói sang sảng khi ngài truyền phán. Lúc ngài làm việc quan, dứt khoát phải mở một chai Sâm-banh, ngài ngự ba lần trong lời văn dâng trang trọng ở chén đầu:
Hội quần tiên chuốc chén rượu đào,
nhất tuần sơ dâng lên bệ ngọc.
Dâng lên cúng Mẫu, các Cô dâng mời, rước Ông Hoàng Mười xơi
và ở chén thứ hai
Dâng lên, dâng lên rượu mời, nhị tuần xơi.
Rước Ông Hoàng xơi
và ở chén thứ ba
Nhất tuần sơ, nhị tuần á ông đã cạn rồi.
Tam tuần tay dâng lên bệ ngọc. Dâng lên cúng Mẫu,
các Cô dâng mời, rước Ông Hoàng Mười xơi.
Lời văn dâng Ông Hoàng Mười, lúc Ngài ngự được coi là sang trọng nhất, Ngài sành điệu trong thưởng lãm mọi mặt, từ cung cách đến cử chỉ nhỏ, từ giọng nói đến cái liếc nhìn, phẩy tay... Văn dâng Ngài trong tiết tấu khoan thai nhã nhặn, lời ca óng lên vẻ kiêu sang của ngôi vị Ngài. Có khi cô đồng bắc ghế hầu thánh, lúc hầu giá Ngài yêu cầu Pháp sư (là những cung văn có thể viết sớ, tuyên sớ) hát những đoạn mà Người thích, được phán truyền như người trần vậy. Và đặc biệt khi Ngài xe giá, Ngài nhắc nhở với cung văn là phải chọn đúng các cô (bát bộ các cô sơn trang, thập nhị các cô tiên nàng trong các giá Cô) mà Người ưng để đón Ngài hồi loan.
Lời ca ở câu vấn như sau :
Ông Hoàng ra về gối xếp ai mang ?
Hèo hoa ai vác, ngựa Ông Hoàng ai coi.
Lời ca ở câu đáp sẽ là :
Ông Hoàng ra về gối xếp Cô Bơ mang,
Hèo hoa Cô Chín vác, ngựa Ông Hoàng Cô Bé coi.
Nghe xong Ngài hoan hỉ lắm, trước khi tung khăn phủ diện trùm lên đầu xe giá, Ngài tung một nắm tiền lộc về phía cung văn trong tiếng ca rối rít “Thánh giá hồi loan”.
Hết các giá Ông Hoàng là đến thời gian giải lao giữa vấn hầu. Người khâm trực buổi lễ bừng tỉnh, các cô hầu dâng cũng như cô đồng bắc ghế hầu thánh đều thoáng lộ chút mệt mỏi và lo toan. Trong đầu họ đang hiện ra những bước tiếp theo cần làm, hoặc sắp xếp lại khăn chầu áo ngựkhăn nét, đai, mạng... Những cái đã dùng rồi gấp gọn lại cho vào vali cất đi, để lại những thứ cần dùng cho giá Cô và giá Cậu sắp tới.
Tiếng trống nhập cuộc dóng dả cất lên để lấy lại không khí siêu thoát thăng đồng của đoạn trước lúc nghỉ. Lời văn dâng lại ngọt ngào lơi buông nhàn nhã thỉnh mời các giá Cô về ngự đồng. Khi hầu các giá Cô, có ngôi vị, người bắc ghế có thể hầu hai ba giá cùng ngôi, nhất là giá Cô Bơ, Cô Chín và Cô Bé. Cô Bơ có thể là Cô Bơ thoải, hoặc là Cô Bơ thác. Cô Chín khi là Cô Chín đền Sòng, Cô Chín Giếng (đền Giếng). Cô Bé Suối Lân, Cô Bé Thác Bờ, Cô Bé Bắc Lệ...
Các giá Cô về ngự, mặc dù là đồng nam thì nữ tính vẫn được thể hiện rõ nhất ở trường đoạn này. Ngoài các việc đã thành bắt buộc mỗi khi các giá về ngự như: khai cuông bằng hương, hành lễ trong điệu Lưu Thủy Kim Tiền... đến khi các giá Cô làm việc cũng thật khác nhau, đặc biệt là các giá Cô Chín. Khi thì Cô Chín dệt gấm thêu hoa với các động tác thật mềm mại, thật duyên dáng e lệ. Đây không phải là các động tác trên sân khấu có gì hời hợt mà là sự phân thân nhập đồng, động tác như thực như mơ. Hai cô hầu dâng dâng tấm lụa tưởng tượng, và cũng trong tưởng tượng Cô Chín làm động tác lấy kim, xâu chỉ và bắt đầu thêu. Lời văn dâng hòa cùng động tác của giá Cô nghe huyền ảo lạ thường.
Cô Chín dệt gấm thêu hoa,
Cô thêu non thêu nước thêu ra con người, thắm tươi...
Cô thêu con Long, con Ni, con Quy, con Phượng...
Đằm mình trong trang phục màu phấn hồng đào phai, với chiếc khăn nét cùng màu duyên dáng, hình bóng một Cô Chín hiển linh đang hiển hiện trước mắt con nhang đệ tử. Đôi môi đỏ lựng say sưa. Đôi tay giá Cô thoăn thoắt những động tác thành thạo và thoát tục, tạo sự linh thiêng cần có trong một vấn lễ. Khi trường đoạn dệt gấm thêu hoa kết thúc, cô ngồi truyền phán và phát lộc. Lộc Cô Chín cũng được người đi lễ hành hương quý lắm, theo họ, nó sẽ mang lại may mắn trong doanh thương, sự vui vẻ trong giao đãi bạn bè, gia đình. Lúc phát lộc của các giálà vui nhất, đời thường nhất. Những khuôn mặt con nhang hoan hỉ như trẻ lại với tuổi thơ mình đã nằm lại nơi quê cha gần bốn chục năm hay hơn nữa. Các bà, các cô, các ông con trai, các cậu... nhao về phía giá Cô xin lộc. Họ nhất loạt hoặc kẻ trước người sau : “Lạy Cô, Cô thương họ Nguyễn, (họ Trần, họ Lê, họ Phạm...) chúng con, Cô rón tay làm phúc, Cô tán lộc ra, Cô thu lộc về. Lạy Cô...”, cứ như thế không gian ngôi đền như bừng tỉnh náo nức, tuổi thơ của mỗi người và của mọi người chen vai thích cánh trở lại. Ôi ! thật là kỳ diệu!
Phần lộc Cô Chín phát vẫn chỉ là những gói bánh kẹo bình thường được bao gói xinh xắn khéo léo, thảng hoặc là những phong bao màu đỏ bên trong có tờ giấy bạc mới tinh gấp làm ba.
Khi Cô Chín xe giá, cái không khí náo nức vẫn còn đọng lại trên khuôn mặt hoan hỉ của các con nhang đệ tửmãi.
Tiếp sau giá Cô Chín là đến các giá Cô Bé. Các giá Cô Bé về ngự thường nũng nịu, hay dỗi hờn. Cô Bé mở quán bán hàng là hình tượng đặc trưng của giá Cô Bé khi về ngự đồng. Cô bán hàng nhưng thật ra là Cô đang phát lộc cho các hầu dâng và các con nhang đệ tử khâm trực Cô, xin lộc Cô. Làn điệu dùng trong văn dâng cô theo điệu Xá thượng, lúng liếng.
Các giá Cậu là phần cuối cùng của vấn lễ. Nhưng các cô đồng nữ mới hay hầu giá Cậu, còn các đồng nam thì ít người hầu giá Cậu. Khi giá Cậu về ngự đồng, Cậu mặc áo trắng ngắn, cổ lá sen, bên ngoài khoác thêm áo giống như áo Ghinê gấm đỏ. Đầu Cậu đội khăn rìu màu đỏ, buộc khéo léo, trông thật nghịch ngợm, trẻ trung. Các bà các cô đồng đứng tuổi sát căn Cậu Hoàng, khi hầu đổi diện, trông họ trẻ đến lạ lùng. Điều này khó giải thích lắm.
Vấn lễ kết thúc, cô đồng bắc ghế hầu thánh trở về với con người mình ở đời thường vẫn trang phục lót-mình-hầu trắng, chưa thay. Nét mệt mỏi phảng phất, nhưng nổi bật trên khuôn mặt là sự mãn nguyện như cô vừa xong một việc lớn. Khuôn mặt thanh thoát hẳn ra, dấu ấn của nhân đức tin hiện rõ trong từng câu nói, điệu cười.
*
Khoảng năm 1976, sau khi đất nước thống nhất một năm, sự giao lưu giữa hai miền không những ở các mặt xã hội mà còn có trong Hội-Quần-Tiên. Có người chuẩn bị cẩn thận rồi vào tận đền thờ các giá tứ phủ để bắc ghế hầu thánh mãi tận Sài Gòn. Trong đó cung văn hát pha tạp không thuần khiết như ngoài Bắc, để kiệm hơi, họ dùng cả tăng âm, micro để dâng văn...
Cung văn chân truyền ở ta hiện còn không nhiều, giọng hay lớp trước phải kể đến ông Đan, ông Đạt, ông Khiêm, đặc biệt ông Cao ở thôn Bằng Sở. Hiện nay, lớp cung văn trẻ, nhiều người có học vấn, được đào tạo chính quy về nhạc cụ tại các nhạc viện nổi tiếng, sẵn có giọng đẹp cũng theo nghề hát cung văn. Nhưng có lẽ cái hồn ngơ ngác, cuống quít khi xe giá hồi loan của các giá thánh thì họ đánh mất, hay chưa thấy nó hiện ra, thật lấy làm tiếc thay.
Tôi có vinh hạnh được thu giọng hát dâng văn của nghệ sỹ Bạch Phượng, ông Phụng, ông Đan, ông Cao hồi những năm đầu thập kỷ 70, ba mươi năm qua, cuốn băng ấy đã xuống cấp do kỹ thuật bảo quản và thời tiết khắc nghiệt của ta. Giá mà các bản văn dâng hầu thánh được thu tại chỗ, và được lưu giữ trong đĩa CD với kỹ thuật số hiện nay... tôi cứ thầm ước như vậy. Một số băng tư liệu về các vấn lễ hầu thánh đã được phát trên các phương tiện thông tin đại chúng, lượng thông tin quá ít ỏi, bộc lộ sự cảm nhận của người làm chương trình thiếu thành tâm với công việc tứ phủ, các góc nhìn của họ thiếu sự tìm tòi tận cội nguồn tâm linh của những người bắc ghế hầu thánh trong mỗi vấn hầu.
*
Hàng năm, Hội-Quần-Tiên tổ chức các vấn lễ hành hương về các đền phủ danh tiếng, trên sơn lâm hoặc ở đồng bằng châu thổ sông Hồng. Xuân thu nhị kỳ, “tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ”. Người khá giả, đốn ngộ linh hiển, một năm bắc ghế hầu thánh hai vấn trong tháng hội Cha và hội Mẫu. Phải như thế cõi tâm linh của họ mới an, yên chí làm ăn, hy vọng, chờ đợi sự linh nghiệm của các giá thánh đã về ngự trong vấn lễ.
Tôi không phải người của Hội Quần Tiên, nhưng cứ đến cuối tháng hai, trong tiết Xuân phân, mưa phùn bay nhè nhẹ, thế nào tôi cũng đi ngang qua các đền thờ Mẫu dọc sông Hồng, địa phận xã Đại Lộ, Thường Tín, Hà Tây để nghe từ xa tiếng trống, tiếng đàn cung văn văng vẳng trong không gian bao la của trời đất, con Lạc, cháu Hồng. Rồi cũng tự thấy lòng mình như được giải thoát, đốn ngộ, thanh thản...
Hạ Đình, Thăng Long - Thu Tân Tỵ.
*Bài viết do tác giả gửi riêng cho Tễu Blog để tặng bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001