Ngộ
Đoản văn của Vân Đình
Hùng
Hồi những năm đầu của thập kỷ 70, ga
xe lửa của tuyến đường phía bắc phải sơ tán sang ga Đông Anh. Tôi được theo các
con nhang đệ tử đi lễ hành hương ở đền Bảo Hà
gần Lào Cai, phải tăng-bo bằng các phương tiện khác đến Đông Anh rồi chờ đến
tối, tàu mới khởi hành.
Một vấn lễ của một
thành viên Hội - quần - tiên được chuẩn bị khá kỹ. Từ bông hoa, lá
trầu, quả cau đến các loại bánh, kẹo, rượu và các loại thực phẩm để dùng làm cỗ
mặn. Đi lễ hành hương thường là những người thân, có quan hệ gia đình hoặc bạn
bè cùng cánh; nhưng chủ yếu là những người có đồng, căn cao
số nặng phải đầu hàng bốn phủ và được “các cô,
các cậu” chấm lính bắt đồng. Những người này thường đi theo để giúp
việc phụ lễ, bày biện lễ vật trên các ban thờ và hầu dâng.
Tiệc mặn được làm khá công phu, có người
còn đem sẵn cả một con lợn sữa đã cạo lông, mổ phanh ra, ướp các loại gia vị,
kèm theo gần một yến than Đục-Khê và một chai dấm trộn lẫn mật ong dùng để quay
lợn tại nhà đền.
Đến nơi sau tuần trà thuốc, nghỉ
ngơi, ai vào việc nấy. Người thì cắt tiết làm gà, người thì chuẩn bị chỗ để
quay lợn. Con lợn được đặt úp lên một cái mâm sạch, người đầu bếp già đi theo
đoàn cẩn thận lấy chai mật ong trộn với dấm chua cứ thế rót dọc sống lưng con
lợn. Hỗn hợp dấm mật ong lan đều, phủ lên da con lợn sữa trắng hếu một lớp màu
vàng sền sệt. Xong việc, con lợn được hong gió cho se bớt, rồi được lồng vào
một cái xiên hình chữ U có chuôi bằng ống sắt trông tựa như cái gảy rơm ở quê.
Hai cái trạc chữ V bằng cây tươi chặt trong vườn được đóng xuống, than Đục-Khê
được đốt đỏ rực. Chú lợn con mắt nhắm nghiền được quay qua quay lại trên ngọn
lửa than hồng rực, một lúc sau, những giọt mỡ chảy xuống, bắt lửa kêu xèo xèo.
Chừng gần một tiếng đồng hồ, lợn chín, da vàng rộm, ửng màu cánh dán. Cứ thế,
con lợn được đặt lên một cái mâm đồng đánh sáng choang và được bưng lên đặt lễ tại công
đồng. Các món khác cũng vừa làm xong, và được đơm, bày rất khéo trông thật
thích mắt. Các cô đồng (thường là các cậu hoặc các ông con
trai) là những người buôn bán giàu có, làm ăn đang hái ra tiền mới dám chuẩn bị
một vấn lễ thịnh soạn như vậy.
Mâm lễ tam sinh cúng Mẫu và hội đồng tứ
phủ gồm đủ các sơn hào hải vị. Lợn, gà, giò lụa, chả quế, bóng,
vây, mực... Mâm lễ cúng sơn trang gồm đủ cơm lam, thịt thính,
khế chua, măng vầu, 12 con cua đồng hấp chín đỏ nhưng nhức, ốc nhồi hấp với lá
bưởi, gừng cay, chanh tươi, ớt quả được bày thật công phu. Hương nến đã thắp
lên. Trong không khí trang nghiêm, ông thày (thường là các cung văn cao tuổi
đàn anh trong nhóm cung văn hát dâng văn khi hầu đồng) cất giọng ê a trang
trọng tuyên sớ, dứt lời, dàn nhạc cử bài nhạc theo điệu Lưu thủy, thường dùng
khi hành lễ. Các con nhang, chủ tế sì sụp khấn vái, cầu xin đủ thứ
trên đời, chủ yếu là cầu cho được mua may bán đắt, đi tươi về tốt, đi một về
mười... Hết tuần hương, cỗ được hạ xuống để mọi người thụ lộc. Ăn uống
xong, ai lại vào việc nấy, bày biện hoa quả trên công đồng, cung đệ nhị, hậu
cung, lầu cô, lầu cậu, v.v...chuẩn bị cho vấn lễ hầu đồng.
Cô đồng bắc ghế hầu thánh trong
vấn lễ hành hương này sau khi dọn mình (tắm rửa) sạch sẽ, mặc bộ đồ lót-mình-hầu màu
trắng và bắt đầu trang điểm. Các đồng cô nam giới thường xưng chị em với nhau,
họ luôn coi mình là giới nữ, nên trang phục họ chọn để mặc cũng là quần áo nữ.
Có người còn độn ngực, mặc áo trong như đàn bà vậy. Nhất là các đồng cô được
mời làm hầu dâng thì rất điệu đàng. Trong lúc trang điểm
để chuẩn bị hành lễ, họ nói với nhau rất nhẹ nhàng, tô môi, kẻ mắt cho nhau,
hoặc cài lại cái khuy áo, trông thật thuận hòa.
Hồi đó còn chiến tranh nên việc lễ
bái thật công phu, vất vả. Nhân đức tin của họ đã vượt qua mọi khó khăn để đạt
được ý nguyện là được dâng mình cho đấng hư vô. Để có được vấn lễ tố
hảo, chủ lễ phải đăng ký trước vớiđồng đền và các quan chức địa
phương, xin được chuông trống khi làm lễ. Thậm chí họ còn mời dân thôn và các
ông trưởng thôn, trưởng bản đến thụ lộc và dự lễ.
Khoảng tám chín giờ tối, vấn lễ bắt
đầu tiến hành. Các cung văn tấu nhạc, ban nhạc có bốn người. Một người đánh đàn
nguyệt, một người thổi tiêu, sáo, một người gõ phách, một người đánh trống.
Người đánh đàn và gõ phách thường thay nhau hát khi dâng văn các giá
thánh về ngự khi hầu đồng. Vấn lễ hầu đồng thường
kéo dài từ sáu cho đến tám tiếng đồng hồ, có giải lao ở giữa thời gian.
Cô đồng chủ lễ chắp tay xin phép mọi
người để được hầu thánh và mời bốn đồng cô được chọn làm hầu
dâng vào vị trí. Nhạc nổi lên, đèn nến lung linh, hương thơm ngào
ngạt, cô đồng trong tư thế ngồi, chùm tấm khăn đỏ thêu rồng phượng lên đầu rồi
đảo người cùng với tiếng hú hoang dã, một lúc sau, tấm khăn đỏ được hất tung ra
sau khi lời cung văn mời ông thánh đầu tiên về ngự đồng vừa
dứt.
Thứ tự hầu đồng được
tuân theo nghiêm ngặt. Đầu tiên phải mời các giá Mẫu về ngự,
tiếp đó là các Quan lớn rồi giá các Chầu, các ông Hoàng, các
Cô và cuối cùng là các Cậu. Có người hầu gần hết các giá, nhưng khi
hầu các giá Mẫu, thông thường họ chỉ hầu ba giá Mẫu:
Mẫu đệ nhất, Mẫu Thoải, rồi hầu đến Mẫu bản địa (thí dụ như Mẫu Đông Cuông, Mẫu
Phủ Giầy...). Khi Mẫu ngự, cô đồng nhập thần, khoan thai, nhẹ nhàng, âm thanh
phát ra khe khẽ. Tiếng đàn văn sang trọng lơi buông những âm giai cung đình.
Mẫu ngự không lâu, không truyền phán gì, chỉ nhìn sang trái, sang phải như
chứng cho tất cả các con nhang đệ tử của Người đang khâm
trực đắm say suốt vấn hầu, với đôi mắt ngưỡng mộ, tự tin
chờ đợi...
Trong các giá quan lớn ngự đồng, ngôi thứ ba được gọi là Quan Lớn Tam Phủ, khi ngự ngài mặc áo trắng thêu thủy ba sóng gợn ở gấu áo và một ổ rồng chầu bố cục uyển chuyển thành hình tròn trước ngực. Việc thay khăn chầu, áo ngự của các giá được diễn ra ngay tại nơi hành lễ trong tư thế ngồi; bốn người hầu dâng chuẩn bị rất nhanh, chính xác những trang phục cần có, loáng một cái, cô đồng như hóa thân thành một ông thánh khác so vớigiá trước đó đã xe giá hồi cung.
Trong các giá quan lớn ngự đồng, ngôi thứ ba được gọi là Quan Lớn Tam Phủ, khi ngự ngài mặc áo trắng thêu thủy ba sóng gợn ở gấu áo và một ổ rồng chầu bố cục uyển chuyển thành hình tròn trước ngực. Việc thay khăn chầu, áo ngự của các giá được diễn ra ngay tại nơi hành lễ trong tư thế ngồi; bốn người hầu dâng chuẩn bị rất nhanh, chính xác những trang phục cần có, loáng một cái, cô đồng như hóa thân thành một ông thánh khác so vớigiá trước đó đã xe giá hồi cung.
Âm nhạc vẫn dìu dặt chờ đợi. Các bà,
các cô đi lễ hành hương bị cuốn hút vào không khí vừa trang nhã vừa siêu thoát
linh thiêng. Thời gian như được thay đổi đơn vị đo đối với họ.
Trang phục đã xong Quan Lớn Tam Phủ
cầm một bó hương to do người hầu dâng, dâng trong tư thế cúi đầu, ngài bắt đầu
khai cuông và hành lễ. Rồi ngài cầm thêm tấm nhiễu đỏ của người hầu
dâng khác cũng cúi đầu dâng lên, tay phải giơ cao bó hương nghi ngút
nhả khói, bó chân hương được bọc trong một đầu tấm nhiễu đỏ, tay trái chống
nạnh, giữ đầu kia của tấm nhiễu, mắt ngài nhìn thăm thẳm vào cõi hư vô, hướng tới
các bức tượng đặt trên ban thờ trong hậu cung. Thần sắc như chuyển, như say làm
khuôn mặt ngài rạng rỡ dị thường.
Trường đoạn múa thanh long đao thật
uy nghi hoà cùng lời văn ca ngợi công đức ngài đã có công dẹp giặc được cung
văn dâng thành kính cùng tiếng nhạc nẩy nhịp quân hành. Thỉnh thoảng tiếng hắng
giọng oai vệ của ngài phát ra làm mọi người thấy rõ cái uy của ngài. Thanh long
đao quay tít, quay tít, lúc tiến, lúc lui, đường đao tỏ rõ bản lĩnh của một
đấng bậc đứng đầu bát vạn hùng binh. Các con nhang ngây
ngất chiêm ngưỡng...
Khi ngài trao thanh long đao lại cho người hầu dâng, và ngồi xuống cạnh một chồng gối xếp bọc gấm, âm nhạc trùng lại khoan thai. Ngài bắt đầu làm việc quan, hầu dâng cúi đầu dâng thuốc, dâng trà (trà sen thơm ngát vừa pha để cúng khi giá ngài về ngự), ngài vỗ gối nghe văn, thưởng thức lời ca tiếng nhạc, phong độ ung dung. Thỉnh thoảng có những câu hát ca ngợi công đức ngài thật hay, tay trái ngài vỗ gối, tay phải ném ra một số tiền có giá trị không nhỏ để thưởng cung văn. Người cung văn dạ một tiếng nhỏ, và tay đàn hình như dẻo hơn nhập cuộc. Sự phối hợp nhịp nhàng của người đánh trống làm cho không khí ban thưởng càng đậm đà. Khi ngài vỗ gối, những tiếng cắc gõ vào tang trống dồn dập, tiền thưởng tung lên là những tiếng tùng oà ra, vỡ tung trong không khí hừng hực của buổi hành lễ.
Cảm thấy sự hiện diện trên trần gian
như thế đã đủ, ngài ngồi xếp bằng, mắt lim dim rồi bất thần tay ngài tung mạnh
tấm khăn đỏ chùm lên đầu, tiết tấu nhạc cuống quít lạ thường, người cung văn
nhả câu “Thánh giá hồi loan”. Các cô hầu dâng thì “Nam
mô” rối rít “Tấu lạy” rối rít khẩn cầu mời gọi các giá thánh về ngự. Bốn giọng
hầu dâng như dàn hợp xướng bốn bè cùng cất lên vừa như khẩn khoản, vừa như nũng
nịu, cho đến khi cô đồng ra dấu tay, ông cung văn nhìn thấy liền dâng văn
mời giá thánh vừa được cô đồng ra dấu. Rồi nét nhạc lại khoan
thai dìu dặt mời gọi, lời văn thỉnh mời các giá thánh về ngự
đồng được dâng trang trọng, đến khi cô đồng gật đầu, rùng mình tung
tấm khăn phủ diện ra thì cung văn bắt đầu bản văn của giá đó tiếp theo vừa chợt
hiện về ngự đồng. Khăn chầu áo ngự được thay đổi cho phù hợp.
Trong các hàng quan lớn, các cô đồng
hay chọn hầu Quan Lớn Tuần tranh, Quan Lớn Tam phủ, Quan lớn Triệu Tường còn các
quan lớn khác ngài ít về ngự đồng. Có một số ít cô đồng sát
căn Quan Lớn Trần Triều (Trần Hưng Đạo) khi hầu, giá ngài vẫn
về ngự. Mỗi phủ (trong tứ phủ) thường có mười hai ngôi, từ ngôi đệ nhất tới
ngôi thứ mười hai, có phủ gọi ngôi thứ mười hai là “bé”, như Cô Bé, Cậu Bé
v.v... Các giá hầu khác nhau, cô đồng lại múa với các loại
binh khí khác nhau. Khi thì dùng một thanh long đao to bằng gỗ, có lúc lại là
đôi hèo hoa với chuỗi lục lạc bằng đồng phát ra âm thanh vui tai, hoặc đôi kiếm
gỗ..., tất cả vật dụng trợ giúp cho cuộc hành lễ đều là đồ thờ đặt trong đền,
trong phủ.
Sau các giá Quan lớn là các giá
Chầu. Các giá chầu có Chầu đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ, chầu lục... Các giá
ở ngôi thứ sáu là các giá thượng, sơn trang, nên dâng văn cho các giá này nhạc
có tiết tấu sôi động được xây dựng trên nền làn điệu Xá - một trong ba làn điệu
chủ yếu: Dọc, Cờn, Xá dùng rất biến hóa trong hát dâng văn hầu đồng.
Nét nhạc mang âm hưởng của dân ca các dân tộc vùng núi phía bắc hay vùng tây
nguyên nước ta. Người hầu đồng tay múa mồi lửa, miệng ngậm miếng trầu nhai dập,
đứng dậy nhún nhảy theo điệu nhạc, tay vung vẩy chiếc khăn voan xanh lục, thỉnh
thoảng cất tiếng hú dài. Một lát sau, hầu dâng đốt đôi mồi lửa
cháy phừng phừng, cô đồng kẹp mồi lửa vào giữa hai ngón tay để sấp, rồi bắt đầu
điệu múa với mồi lửa theo tiếng nhạc và những tiếng hú dài gọi bầy. Nhạc càng
nhanh cô múa càng dẻo. ánh lửa từ đôi mồi (làm bằng giấy bản vặn vấn thừng vào
nhau được nhúng vừa khéo trong nến nóng chảy) khi lên, khi xuống phản chiếu ánh
bạc trong các bộ xà tích, bộ khuy hình con bướm đính trên trang phục và ánh mắt
long lanh siêu thoát của cô đồng làm thành một không khí huyền ảo mê hoặc lòng
người. Chầu vui bao nhiêu, mặt đổi diện bao nhiêu, sau vấn lễ cô đồng nhiều lộc
lắm. Khi về nhà mà được đắc ý nguyện cầu, lộc lá Chầu cho chồng chất, cô đồng
lại sắm một lễ tạ to lắm tại bản đền hay một đền nào đó để tạ Người.
Vũ điệu dân gian như một trường đoạn
của vai diễn linh thiêng với sự trợ giúp của một tâm linh ổn định, hướng thiện,
hướng tới một cõi-tâm-linh vừa được xác lập.
Cõi tâm linh của cô đồng với nhân
đức tin đang được lớn dần, bùng lên đột khởi, như được trợ giúp bởi quyền năng vô
biên của một ngôi vị vô hình tận ở xa xăm. Người hầu đồng được đặc cách nhận
năng lượng vũ trụ truyền tới.
Sau những cơn thăng hoa bạo liệt của
điệu múa mồi lửa, Chầu lục quỳ xuống, nhưng thân hình luôn di chuyển, lúc sang
phải, lúc sang trái, lúc phía trước, lúc lại ngả về phía sau. Người hiến nguyên
một gói thuốc lào Vĩnh Bảo (to bằng ruột cái bánh gai Ninh Giang) vào miệng,
nhai cùng miếng trầu đã ứa nước đỏ nồng. Vẫn cái thân ngúc ngoắc, Chầu phát ra
những tiếng hú nhẹ nhàng, hun hút sâu, như khoan vào núi đá rậm rạp vô hình.
Người bắt đầu ban phát lộc cho các hầu dâng, phát lộc cho những
người đang dự lễ, lần lượt ai cũng được một phần lộc của Chầu. Lộc Chầu ban cho
là những phần bánh xinh xắn, những túm hoa quả tươi được bao gói, buộc tỉa công
phu. Riêng “cái ghế của Chầu”, Người dành riêng miếng trầu đang nhai trong
miệng kèm một bông lan hay một bông hồng đỏ thắm xinh xắn. Gói Lộc-Chầu được gói
bằng một mảnh giấy điều và được đặt cẩn thận lên ban thờ cạnh cây nến sáng
trưng. Hết vấn lễ cô đồng mang về nhà đặt lên bàn thờ tại gia mong Lộc Chầu
linh nghiệm, hiển hiện trong doanh thương.
Khi Chầu xe giá, mắt
Người nhắm lại, hai tay chắp cao trước mặt, miệng cất tiếng hú nhẹ. Hầu
dâng nhanh tay phủ tấm vải đỏ lên đầu. Cung văn vẫn cái nhịp cuống
quít nhả lời “Thánh giá hồi loan”. Mặc dù đã hát dâng văn rất nhiều vấn hầu,
nhưng đến lúc “Xe giá”, cái cuống quít của tay đàn, tạo nhịp điệu gấp gấp, vẫn như
bất thần đến với người cung văn già dặn, ngơ ngác.
Màu sắc trang phục (thường được gọi
là khăn chầu áo ngự) của cô đồng tôn trọng ngôi thứ trong mỗi phủ.
Màu đỏ cờ là ngôi đệ nhất, màu xanh lá cây tươi là ngôi thứ hai, màu trắng là
ngôi thứ ba, màu đào phai là ngôi thứ chín, và ngôi út lại là màu trắng với các
đăng ten viền mép áo sặc sỡ. Cũng có cô đồng áp đặt những ý thích riêng của mình
khi may khăn chầu áo ngự, nhưng nhìn chung các màu cơ bản cho các ngôi thứ luôn
được tôn trọng.
Sau các giá Chầu là
các giá Ông Hoàng. Cũng mười hai ngôi nhưng người ta lại gọi
khác đi. Ông Hoàng Đệ Nhất, Ông Hoàng Đôi, Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy, Ông
Hoàng Chín, Ông Hoàng Mười. Mỗi giá ông hoàng đều có đền thờ chính. Tại đền Bảo
Hà, Lào Cai là đền thờ ông Hoàng Bảy. Đền thờ Ông Hoàng Mười ở Nghệ An...
Có hai giá Ông Hoàng được hầu rất
cẩn trọng, từ khăn chầu áo ngự cho đến lộc ông hoàng, việc chuẩn bị công phu lắm.
Khi Ông Hoàng Bảy về ngự giá, ngài mặc áo dài kép hai
lớp, lớp trong là áo dài trắng, lớp ngoài là áo dài đoạn màu xanh lam, mặc như
vậy được coi là đúng cách sang trọng. Chỉ những cô đồng khá giả, coi trọng việc
lễ bái mới dám đầu tư bộ khăn chầu áo ngự cầu kỳ như vậy. Các
cô đồng nghèo khi hầu thánh chỉ mỗi một cái áo dài đỏ hoặc thêm một cái xanh,
cái trắng, rồi thì cũng vẫn hầu qua các giá thánh, hoàn thành vấn lễ của mình.
Cách thức làm việc quan của các giá
Ông Hoàng cũng tương tự như các giá Quan Lớn, nhưng sự oai vệ có phần giảm đi
đôi chút. Lúc ngài làm việc quan, hầu dâng dâng trà sen cúng (tuần
trà mới khi giá ngài về ngự), dâng thuốc lá được phết nước sái thuốc phiện. Các
điếu thuốc được cắm chân hương vào phía đầu lọc, được phết, tẩm nước sái rồi
cắm vào một vật mềm đặt trên đĩa, làm thành một món lễ vật lạ mắt đặt trên công
đồng. Ngài thườngngự hai cho đến ba điếu, cứ hút đến nửa chừng,
ngài lại ban cho hầu dâng hoặc bất kỳ ai ngài muốn. Khói thuốc
có nước sái phết ngoài thơm ngầy ngậy làm ngơ ngác các con nhang đang
lễ hành hương theo ghế Ông. (Khi bắc ghế hầu thánh, các giá thánh
mà người hầu sát căn được gọi là ghế của vị thánh đó, thí dụ ghế Chầu, ghế Ông,
ghế Cô...). Trà sen dâng lên, lời văn tao nhã như gió thoảng, văn dâng Ông
Hoàng có cả những thú chơi của người trần, có lúc chuyển sang làn điệu hát ả
đào, lời ca các thày mượn trong các bài ca trù truyền thống hoặc tự soạn lấy
lời. Nội dung dựa vào những đặc trưng của giá Ông, ca ngợi công đức lồng trong những
thú chơi tao nhã và những cảnh sắc bồng lai nơi tiên giới trong sự tưởng tượng
sáng tạo của người nghệ nhân. Nghe văn lúc làm việc quan cũng phải có kiến
thức, các cô đồng thường được bổ xung các kiến thức này qua các lần bắc
ghế hầu thánh của chính mình hoặc các lần khâm trực các giá
thánh ở những lần đi lễ hành hương. Họ quan sát kỹ và nhớ những động
tác chuẩn mực của những người được coi là Đồng Linh Bóng Hiển, đứng
đầu trong Hội-Quần-Tiên.
Lộc Ông Hoàng Bảy ban phát là những
điếu thuốc lá được bày trên mâm lễ, con nhang đệ tử có người hút ngay tại đền,
có người gói cẩn thận đem về. Phát lộc tiền là cách phát lộc phổ biến khi hầu
đồng trong một vài giá quy định. Ngài ban phát khắp lượt, ai cũng được
một phần lộc nhỏ do những người hầu dâng nhận từ tay ngài đưa tới hoặc do một
vài người được ngài chỉ định đem lộc phân phát. Quan niệm khi phát lộc ở các
giá hầu thánh là: Tán lộc ra rồi thu lộc về (Tiểu tiền suất, Đại tiền nhập).
Các con nhang đệ tử có dính dáng đến ả tiên nâu thường quý các
món lộc do Ông Bảy ban phát lắm. Có người còn xin hai suất cho một ghế
Ông vắng mặt.
Ông Hoàng Mười lẫm liệt, oai phong
trong trường đoạn múa thanh long đao (chỉ có hai giá có múa thanh long đao là giá
Quan Lớn Tuần Tranh và giá Ông Hoàng Mười. Có lẽ các ngài đã từng là võ tướng
linh hiển của bát vạn hùng binh một thời). Nếu quan sát kỹ,
cách múa thanh long đao của hai giá thánh có sự khác biệt
trong động tác, điều này nói lên sự công phu của người bắc ghế hầu
thánh. Cũng có khi do sự theo dõi chăm chú nhiều lần qua những vấn hầu, rồi
khi chính mình được hầu bóng Ngài, trong lúc thăng hoa, động
tác tự nhiên nhanh nhẹn lạ thường như có lực lượng siêu nhiên nào ẩn náu phía
sau, hay ẩn náu ngay trong những đường đao vậy.
Khi về ngự giá, Ông
Hoàng Mười mặc áo dài gấm màu hoàng oanh có các ổ rồng thêu thất thể rất sang
trọng. Khăn xếp ngài đội cũng được viền một khăn nét màu vàng cùng loại thêu lưỡng
long chầu mặt nguyệt. Động tác của ngài khi làm việc quan sang lắm, mặt ngài
đổi diện, trông thật lạ lùng, không giống khuôn mặt ngày thường của cô đồng.
Tinh hoa như được phát tiết qua ánh mắt nhìn, qua giọng nói sang sảng khi ngài
truyền phán. Lúc ngài làm việc quan, dứt khoát phải mở một chai Sâm-banh,
ngài ngự ba lần trong lời văn dâng trang trọng ở chén đầu:
Hội quần
tiên chuốc chén rượu đào,
nhất tuần
sơ dâng lên bệ ngọc.
Dâng lên
cúng Mẫu, các Cô dâng mời, rước Ông Hoàng Mười xơi
và ở chén thứ hai
Dâng lên,
dâng lên rượu mời, nhị tuần xơi.
Rước Ông
Hoàng xơi
và ở chén thứ ba
Nhất tuần
sơ, nhị tuần á ông đã cạn rồi.
Tam tuần
tay dâng lên bệ ngọc. Dâng lên cúng Mẫu,
các Cô
dâng mời, rước Ông Hoàng Mười xơi.
Lời văn dâng Ông Hoàng
Mười, lúc Ngài ngự được coi là sang trọng nhất, Ngài sành điệu trong
thưởng lãm mọi mặt, từ cung cách đến cử chỉ nhỏ, từ giọng nói đến cái liếc
nhìn, phẩy tay... Văn dâng Ngài trong tiết tấu khoan thai nhã nhặn, lời ca óng
lên vẻ kiêu sang của ngôi vị Ngài. Có khi cô đồng bắc ghế hầu thánh,
lúc hầu giá Ngài yêu cầu Pháp sư (là những cung văn có thể
viết sớ, tuyên sớ) hát những đoạn mà Người thích, được phán truyền như người
trần vậy. Và đặc biệt khi Ngài xe giá, Ngài nhắc nhở với cung văn
là phải chọn đúng các cô (bát bộ các cô sơn trang, thập nhị các cô tiên nàng
trong các giá Cô) mà Người ưng để đón Ngài hồi loan.
Lời ca ở câu vấn như sau :
Ông Hoàng
ra về gối xếp ai mang ?
Hèo hoa ai
vác, ngựa Ông Hoàng ai coi.
Lời ca ở câu đáp sẽ là :
Ông Hoàng
ra về gối xếp Cô Bơ mang,
Hèo hoa Cô
Chín vác, ngựa Ông Hoàng Cô Bé coi.
Nghe xong Ngài hoan hỉ lắm, trước
khi tung khăn phủ diện trùm lên đầu xe giá, Ngài tung một nắm tiền
lộc về phía cung văn trong tiếng ca rối rít “Thánh giá hồi loan”.
Hết các giá Ông Hoàng là đến thời
gian giải lao giữa vấn hầu. Người khâm trực buổi lễ bừng tỉnh,
các cô hầu dâng cũng như cô đồng bắc ghế hầu thánh đều
thoáng lộ chút mệt mỏi và lo toan. Trong đầu họ đang hiện ra những bước tiếp
theo cần làm, hoặc sắp xếp lại khăn chầu áo ngự, khăn nét,
đai, mạng... Những cái đã dùng rồi gấp gọn lại cho vào vali cất đi, để lại
những thứ cần dùng cho giá Cô và giá Cậu sắp
tới.
Tiếng trống nhập cuộc dóng dả cất
lên để lấy lại không khí siêu thoát thăng đồng của đoạn trước lúc nghỉ. Lời văn
dâng lại ngọt ngào lơi buông nhàn nhã thỉnh mời các giá Cô về ngự
đồng. Khi hầu các giá Cô, có ngôi vị, người bắc
ghế có thể hầu hai ba giá cùng ngôi,
nhất là giá Cô Bơ, Cô Chín và Cô Bé. Cô Bơ có thể là Cô Bơ
thoải, hoặc là Cô Bơ thác. Cô Chín khi là Cô Chín đền Sòng, Cô Chín Giếng (đền
Giếng). Cô Bé Suối Lân, Cô Bé Thác Bờ, Cô Bé Bắc Lệ...
Các giá Cô về ngự,
mặc dù là đồng nam thì nữ tính vẫn được thể hiện rõ nhất ở trường đoạn này.
Ngoài các việc đã thành bắt buộc mỗi khi các giá về ngự như: khai
cuông bằng hương, hành lễ trong điệu Lưu Thủy Kim Tiền... đến khi
các giá Cô làm việc cũng thật khác nhau, đặc biệt là các giá Cô
Chín. Khi thì Cô Chín dệt gấm thêu hoa với các động tác thật mềm mại, thật
duyên dáng e lệ. Đây không phải là các động tác trên sân khấu có gì hời hợt mà
là sự phân thân nhập đồng, động tác như thực như mơ. Hai cô hầu dâng dâng
tấm lụa tưởng tượng, và cũng trong tưởng tượng Cô Chín làm động tác lấy kim,
xâu chỉ và bắt đầu thêu. Lời văn dâng hòa cùng động tác của giá Cô
nghe huyền ảo lạ thường.
Cô Chín
dệt gấm thêu hoa,
Cô thêu
non thêu nước thêu ra con người, thắm tươi...
Cô thêu con Long, con Ni, con Quy, con
Phượng...
Đằm mình trong trang phục màu phấn hồng đào phai, với chiếc khăn nét cùng
màu duyên dáng, hình bóng một Cô Chín hiển linh đang hiển hiện trước mắt con
nhang đệ tử. Đôi môi đỏ lựng say sưa. Đôi tay giá Cô thoăn
thoắt những động tác thành thạo và thoát tục, tạo sự linh thiêng cần có trong
một vấn lễ. Khi trường đoạn dệt gấm thêu hoa kết thúc, cô ngồi
truyền phán và phát lộc. Lộc Cô Chín cũng được người đi lễ hành hương quý lắm,
theo họ, nó sẽ mang lại may mắn trong doanh thương, sự vui vẻ trong giao đãi
bạn bè, gia đình. Lúc phát lộc của các giálà vui nhất, đời thường
nhất. Những khuôn mặt con nhang hoan hỉ như trẻ lại với tuổi
thơ mình đã nằm lại nơi quê cha gần bốn chục năm hay hơn nữa. Các bà, các cô,
các ông con trai, các cậu... nhao về phía giá Cô xin lộc. Họ
nhất loạt hoặc kẻ trước người sau : “Lạy Cô, Cô thương họ Nguyễn, (họ Trần, họ
Lê, họ Phạm...) chúng con, Cô rón tay làm phúc, Cô tán lộc ra, Cô thu lộc về.
Lạy Cô...”, cứ như thế không gian ngôi đền như bừng tỉnh náo nức, tuổi thơ của
mỗi người và của mọi người chen vai thích cánh trở lại. Ôi ! thật là kỳ diệu!
Phần lộc Cô Chín phát vẫn chỉ là những gói bánh kẹo bình thường được bao
gói xinh xắn khéo léo, thảng hoặc là những phong bao màu đỏ bên trong có tờ
giấy bạc mới tinh gấp làm ba.
Khi Cô Chín xe giá, cái không khí náo nức vẫn còn đọng lại
trên khuôn mặt hoan hỉ của các con nhang đệ tửmãi.
Tiếp sau giá Cô Chín là đến các giá Cô
Bé. Các giá Cô Bé về ngự thường nũng nịu, hay dỗi hờn. Cô Bé mở quán bán hàng
là hình tượng đặc trưng của giá Cô Bé khi về ngự đồng.
Cô bán hàng nhưng thật ra là Cô đang phát lộc cho các hầu dâng và
các con nhang đệ tử khâm trực Cô, xin lộc Cô. Làn điệu dùng
trong văn dâng cô theo điệu Xá thượng, lúng liếng.
Các giá Cậu là phần cuối cùng của vấn lễ. Nhưng các cô đồng
nữ mới hay hầu giá Cậu, còn các đồng nam thì ít người hầu
giá Cậu. Khi giá Cậu về ngự đồng, Cậu mặc
áo trắng ngắn, cổ lá sen, bên ngoài khoác thêm áo giống như áo Ghinê gấm đỏ.
Đầu Cậu đội khăn rìu màu đỏ, buộc khéo léo, trông thật nghịch ngợm, trẻ trung.
Các bà các cô đồng đứng tuổi sát căn Cậu Hoàng, khi hầu đổi
diện, trông họ trẻ đến lạ lùng. Điều này khó giải thích lắm.
Vấn lễ kết thúc,
cô đồng bắc ghế hầu thánh trở về với con người mình ở đời
thường vẫn trang phục lót-mình-hầu trắng, chưa thay. Nét mệt
mỏi phảng phất, nhưng nổi bật trên khuôn mặt là sự mãn nguyện như cô vừa xong
một việc lớn. Khuôn mặt thanh thoát hẳn ra, dấu ấn của nhân đức tin hiện rõ
trong từng câu nói, điệu cười.
*
Khoảng năm 1976, sau khi đất nước
thống nhất một năm, sự giao lưu giữa hai miền không những ở các mặt xã hội mà
còn có trong Hội-Quần-Tiên. Có người chuẩn bị cẩn thận rồi vào tận
đền thờ các giá tứ phủ để bắc ghế hầu thánh mãi
tận Sài Gòn. Trong đó cung văn hát pha tạp không thuần khiết như ngoài Bắc, để
kiệm hơi, họ dùng cả tăng âm, micro để dâng văn...
Cung văn chân truyền ở ta hiện còn
không nhiều, giọng hay lớp trước phải kể đến ông Đan, ông Đạt, ông Khiêm, đặc biệt
ông Cao ở thôn Bằng Sở. Hiện nay, lớp cung văn trẻ, nhiều người có học vấn,
được đào tạo chính quy về nhạc cụ tại các nhạc viện nổi tiếng, sẵn có giọng đẹp
cũng theo nghề hát cung văn. Nhưng có lẽ cái hồn ngơ ngác, cuống quít khi xe
giá hồi loan của các giá thánh thì họ đánh mất, hay chưa thấy nó hiện
ra, thật lấy làm tiếc thay.
Tôi có vinh hạnh được thu giọng hát
dâng văn của nghệ sỹ Bạch Phượng, ông Phụng, ông Đan, ông Cao hồi những năm đầu
thập kỷ 70, ba mươi năm qua, cuốn băng ấy đã xuống cấp do kỹ thuật bảo quản và
thời tiết khắc nghiệt của ta. Giá mà các bản văn dâng hầu thánh được
thu tại chỗ, và được lưu giữ trong đĩa CD với kỹ thuật số hiện nay... tôi cứ
thầm ước như vậy. Một số băng tư liệu về các vấn lễ hầu thánh đã
được phát trên các phương tiện thông tin đại chúng, lượng thông tin quá ít ỏi,
bộc lộ sự cảm nhận của người làm chương trình thiếu thành tâm với công
việc tứ phủ, các góc nhìn của họ thiếu sự tìm tòi tận cội nguồn tâm
linh của những người bắc ghế hầu thánh trong mỗi vấn
hầu.
*
Hàng năm, Hội-Quần-Tiên tổ
chức các vấn lễ hành hương về các đền phủ danh tiếng, trên sơn lâm hoặc ở đồng
bằng châu thổ sông Hồng. Xuân thu nhị kỳ, “tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ”.
Người khá giả, đốn ngộ linh hiển, một năm bắc ghế hầu thánh hai vấn trong
tháng hội Cha và hội Mẫu. Phải như thế cõi tâm linh của họ mới an, yên chí làm
ăn, hy vọng, chờ đợi sự linh nghiệm của các giá thánh đã về ngự trong vấn lễ.
Tôi không phải người của Hội
Quần Tiên, nhưng cứ đến cuối tháng hai, trong tiết Xuân phân, mưa phùn bay
nhè nhẹ, thế nào tôi cũng đi ngang qua các đền thờ Mẫu dọc sông Hồng, địa phận
xã Đại Lộ, Thường Tín, Hà Tây để nghe từ xa tiếng trống, tiếng đàn cung văn
văng vẳng trong không gian bao la của trời đất, con Lạc, cháu Hồng. Rồi cũng tự
thấy lòng mình như được giải thoát, đốn ngộ, thanh thản...
Hạ Đình, Thăng Long -
Thu Tân Tỵ.
*Bài viết do tác giả gửi riêng cho Tễu Blog để tặng bạn
đọc.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001