Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2012


Nguyễn Văn Vĩnh: ‘Ông tổ của nghề báo’ Việt Nam

Wednesday, May 30, 2012 3:27:34 PM


Viên Linh

“Ờ, báo là đệ tứ quyền, thật thế; nhưng là đệ tứ quyền ở các nước Âu Châu, chớ ở nước ta thì nói như thế làm gì, cho mắc cỡ...
Nhà báo, học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936).

Người viết báo phải quan niệm mình làm nghề không phải là để chơi hay để kiếm tiền, nhưng phải quan niệm mình là những người thừa kế của cách mạng tư sản, mở đầu là cách mạng tư sản Pháp, say sưa với tự do, trung thành với lý tưởng, chống áp bức, chuộng tiến bộ mà quyền lợi tinh thần của con người đã ủy thác nơi báo chí.. (Lời Nguyễn Văn Vĩnh, theo Vũ Bằng kể lại trong hồi ký “40 năm nói láo.”)
Tờ báo Việt ngữ đầu tiên ở Ðông Dương xuất bản ở Sài Gòn (1) chứ không phải ở Hà Nội, tuy nhiên Nam Việt lúc ấy ở dưới quyền cai trị của một thống đốc Pháp, nên khi ông Nguyễn Văn Vĩnh (chủ bút sáng lập Ðăng Cổ tùng báo, 1907), từ trần ngày 2 tháng 5, 1936, đám tang ông được tham dự đông đảo các đại diện làng báo của cả 3 kỳ Nam Trung Bắc, trọng thể và đông đảo, diễn hành trên đường phố dưới dòng chữ vinh danh “Ông tổ của nghề báo” Việt Nam.
Xem tiểu truyện nghề nghiệp và thân thế của ông, Nguyễn Văn Vĩnh xứng đáng được dương danh như thế, vì ngay từ nhỏ, cho tới khi vỡ nợ vì tờ Nhật báo Annam Nouveau (1931-1934), ông đã tự học nghề báo, tự ra báo lấy, và gây dựng nên những tờ báo còn được nhắc nhở mãi trong lịch sử báo chí Việt Nam, không ngừng là một người sáng lập và canh tân báo chí đất nước. Nguyễn Văn Vĩnh từng làm chủ bút “Ðại Nam đăng cổ tùng báo” (Hà Nội, 1907) “Lục Tỉnh Tân văn” (Saigon, 1910), chủ trương tờ Notre Journal (1908-1909), xuất bản tờ Notre Revue (1910), chủ bút “Ðông Dương Tạp Chí” (1913) và Trung Bắc Tân Văn (1915). Năm 1919, ông mua lại “Trung Bắc Tân Văn” của một người Pháp và biến nó thành nhật báo. (2)
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15 tháng 6 năm 1882, tại Hà Nội nhưng quê ở phủ Thường Tín, tỉnh Hà Ðông và qua đời vào ngày 2 tháng 5, năm 1936 nghe đâu trên một con thuyền độc mộc ở dòng sông Tchépone bên Lào vì bệnh sốt rét ác tính. Ông chết thế kể là quá trẻ, mà lại là một cái chết xa gia đình xa quê hương. Nhưng ông không bao giờ xa ngòi bút: ông vẫn viết bài từng kỳ trong loạt ký sự về những người mạo hiểm vào nơi ma thiêng nước độc như ông để tìm vàng và tương truyền trong thuyền vẫn còn tập giấy và cây bút ông đương dùng để viết loạt này khi ông lìa đời. Cho tới nay, chưa có một hay lẽ ra nhiều công trình nghiên cứu hẳn hòi về sự nghiệp lẫy lừng đa dạng của ông từ dịch thuật, báo chí cho đến xuất bản và sự vận động cho phong trào quốc văn. Nhưng đã có những cố gắng rất tốt đẹp mới đây của cả hậu duệ và giới chuyên môn Việt Nam nhắm đặt một chỗ ngồi xứng đáng hơn cho ông trên văn đàn, nhất là đã có một website cung cấp rất nhiều tư liệu giá trị và tin cậy về ông. Nhân ngày qua đời của ông cách đây gần 80 năm, chúng tôi xin được tưởng niệm “thủy tổ nhà báo xứ sở” Nguyễn Văn Vĩnh bằng một số tin tức góp lại từ nhiều tác giả kỳ cựu.
Tuần báo Ðông Tây viếng ông một câu đối hàm ý đó:
“Chẳng quan mà quý, chẳng phú mà hào, giữa trời Nam gió thổi tung mây, gan óc dễ đâu vùi chín suối. Có lưỡi như cồng, có bút như thép, trong làng báo mở cờ khua trống, văn chương âu cũng đủ nghìn thu.”
Về mặt xuất bản, ông cùng một người Pháp là Vayrac thành lập nhà xuất bản Âu Tây Tư Tưởng (La pensée de l'Occident) in ấn và phát hành các sách do ông dịch thuật. Những nhan đề sau đây sẽ nhắc nhở cùng bạn đọc các công trình dịch thuật to lớn của vị tiền bối mà người viết bài này tin rằng không nhiều thì ít, chúng ta từng đã nghe nói đến, nếu không là đã đọc qua: Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (dịch Les trois mousquetaires của Dumas, père), Mai Nương Lệ Cốt (dịch Manon Lescault của A. Prevost), Thơ Ngụ Ngôn La Fontaine (dịch Les Fables của La Fontaine), Những Kẻ Khốn Nạn (dịch Les Miserables của V. Hugo), Trưởng Giả Học Làm Sang, Kẻ Biển Lận, dịch Molière v.v... còn rất nhiều. Và Nguyễn Văn Vĩnh chính là người đầu tiên đã dịch Kim Vân Kiều của Nguyễn Du ra Pháp ngữ.
Trên hết thẩy, sự nghiệp làm báo, chứa đựng tâm huyết của ông qua những bài xã luận và dịch thuật, là một điều những người đi sau ông cần nghiên cứu kỹ. Ông đúng là một ký giả chuyên nghiệp và đầy lương tâm, đã từ chối những ân huệ của người Pháp để tranh đấu cho tổ quốc và lý tưởng của mình bằng ngòi bút. (Hai lần từ chối huân chương Bắc Ðẩu Bội Tinh của Pháp.) Như thế, ngay trong những ngày phôi thai của làng báo Việt ngữ, đã có người dám so sánh kẻ làm báo với “những nhà cách mạng.” Ðó là điều đáng cho giới hành nghề truyền thông ngẫm nghĩ, gần 80 năm sau khi ký giả Nguyễn Văn Vĩnh qua đời với loạt ký sự dở dang kia.
Trang đầu nguyên văn bài thơ của Thơ La Fontaine do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, in trong cuốn sách xuất bản năm 1951 tại Hà Nội.

Ðể nhớ Nguyễn Văn Vĩnh, và nhớ thời còn nhi đồng, xin đọc vài lời thơ dịch của ông:
Con ve và con kiến
Ve sầu kêu ve ve,
Suốt mùa hè.
Ðến kỳ gió bấc thổi,
Nguồn cơn thật bối rối.
Một miếng cơm chẳng còn,
Ruồi bọ không một con.
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm,
Xin cùng chị cho vay,
Dăm ba hạt qua ngày.
“Từ nay sang tháng hạ,
Em lại xin đem trả.
Trước thu, thề Ðất Giời!
Xin đủ cả vốn lời.”

Chú thích:
1. Tờ Gia Ðịnh báo với giám đốc Trương Vĩnh Ký và chủ bút Huỳnh Tịnh Của, ra ngày 15 tháng 4, 1865.
2. Theo Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn học sử Giản ước Tân biên-Tân học hiện đại 1862-1945.
(nguồn nguoiviet)
-------------------------------------------------------------------------------
Sự ra đời của chữ quốc ngữ

Nhân kỷ niệm 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919) và
80 năm (1924) quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy
tại cấp tiểu học Việt Nam
___


Sự ra đời của chữ quốc ngữ -
Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh

Alexandre de Rhodes
(1591 - 1660)

Nguyễn Văn Vĩnh
(1882 - 1936)
Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20.
Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư)
đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630).
Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt
(nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tựchữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh).
Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar dAmaral, Antonio Barbosa, v.v.
trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giáo lý Tám ngày
đầu tiên bằng tiếng Việt
và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome.
*** Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La-mã này
được chúng ta ngày nay gọi là chữ quốc ngữ (chữ viết của quốc gia)***
Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội – cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn.
Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học.
Lên tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống.
Công việc của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đình Yên phụ - Hà Nội.
Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng.
Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn đương lúng túng.
Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng giúp tiền cho cậu vào học chính thức.
Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học
và trở thành một thông dịch viên xuất sắc.
Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm tại Marseilles.
Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí.
Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp.
Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do.
Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ.
Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí
để dạy dân Việt viết văn bằng quốc ngữ.
Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩmcủa các đại văn hào Pháp
như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, v.v. và cũng là
ngườiđầu tiên dịch “Truyện Kiều sang tiếng Pháp. Bản dịch Kiều của ông Vĩnh rất đặc sắc
vì ông không chỉ dịch cả câu mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm),
Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được.
Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh
đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt,
và đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc ngữ.
Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đình) ở Bắc Kỳ.
Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ
và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho,
thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt.
Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định
đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học.
Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt - La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời,
người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với chữ viết của Trung Hoa,
chính thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ.
Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao,
trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề báo của mình.
Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của Pháp đối với thuộc địa,
là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất
đã hai lần từ chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng,
và cũng là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh.
Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng ưa gì ông.
Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên.
Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét.
Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole.
Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ ghi chép:
Ông đang viết dở
thiên ký sự bằng tiếng Pháp “Một tháng với những người tìm vàng”.
Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ,
hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cùng trang nghiêm
trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông
- con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của mình
đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt.
------ Tôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh” với lòng ngưỡng mộ sâu sắc
đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam - Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
------ Lời cảm ơn:
Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình - nhà giáo Nguyễn Đình Nam,
người đầu tiên kể cho tác giả về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh
từ khi tác giả còn là học sinh tiểu học,
khi sách giáo khoa chính thống còn gọi Alexandre Rhodes là gián điệp
còn Nguyễn Văn Vĩnh là bồi bút của Pháp.
Tác giả xin chân thành cảm ơn
ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh,
và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh
vì những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh
cũng như của gia tộc cụ.
Tác giả xin cảm ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh ,
đồng thời từng là thày dạy toán của tác giả khi tác giả là học sinh trung học.
Tokyo, 10/11/2004
(Trileo sưu tầm)
--------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001