Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số
1/2012, tr. 60 - 63
Hiến pháp của CHLB Đức hiện
nay là một trong những bản Hiến pháp nổi tiếng thế giới về tính chặt chẽ, khoa
học và những đặc trưng nổi bật của nhà nước pháp quyền hiện đại.
Không thể từ hư vô hay nhờ sao chép
từ một bản Hiến pháp của nước khác mà có được những thành tựu ấy. Sản
phẩm lập hiến hiện hành thực sự là sự kết tinh của cả một quá trình dài, thậm chí rất dài, sàng lọc, gắn kết những giá trị lập hiến của nhân
loại với những đặc trưng riêng độc đáo của Hiến pháp Đức. Bài
viết dưới đây sẽ tiếp cận Hiến pháp Đức từ góc nhìn lịch sử, nhằm chỉ ra những
giá trị cốt lõi của bản Hiến pháp này.
1. Một chặng đường lịch sử lập
Hiến ở Đức trước năm 1945
Đầu thế kỷ XIX, trên lãnh thổ của
Đức nhiều nơi đã có Hiến pháp như Hiến pháp của Bayern (26/5/1818), Baden
(22/8/1818), Württemberg (25/9/1819), Hessen-Darmstadt (1820), Kurhessen,
Sachsen (1831) và Hannover (1833). Đây là thời điểm xét về tương quan lực lượng,
giai cấp tư sản chưa đủ mạnh, nhà vua (der König) vẫn có rất nhiều quyền hành.
Về nội dung, các bản Hiến pháp này chủ yếu đề cập đến vấn đề tổ chức nhà nước,
dựa trên nền tảng chế độ quân chủ. Các quyền cơ bản chưa được hiểu theo nghĩa là
quyền công dân giống Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và ở Pháp, mà chỉ là
các quyền của thần dân.
|
Nhà thờ thánh
Paul. Ảnh: Wiki
|
Sau cách mạng tháng 2 năm 1848
của Pháp, ở Đức cũng như nhiều nước Châu Âu khác, nhiều cuộc biểu tình, đấu
tranh của tư sản chống phong kiến đã diễn ra mạnh mẽ. Nhà vua Friedrich Willhelm
IV, ngày 21 và 22 tháng 3/1848 đã phải thỏa hiệp với giai cấp tư sản và tuyên bố
sẽ xây dựng Hiến pháp chung cho đế chế Đức Phổ.
Ngày 28 tháng 3 năm 1849
Hiến pháp nhà thờ thánh Paul (Paulskirchen-verfassung) của
đế chế Đức Phổ được thông qua bởi một Quốc hội lập hiến mà thành viên là những
nhà trí thức hàng đầu thời đó. Họ đã tổng kết kinh nghiệm lập hiến trên thế
giới, trao đổi rất kĩ lưỡng và kiến thiết ra một bản Hiến pháp dân chủ cho nước
Đức - một bản Hiến pháp có thể nói về mức độ hoàn bị không thua kém bất cứ một
bản Hiến pháp thành văn nào trên thế giới thời điểm đó.
Có được thành quả ấy cũng bởi khi
xây dựng Hiến pháp này, các nhà lập hiến đã ý thức được rằng Hiến pháp trước hết
phải chứa đựng những giá trị pháp quyền, Hiến pháp sinh ra là để ghi nhận, bảo
vệ quyền con người và chống lại sự lạm quyền của nhà nước.
Đọc Hiến pháp này, người ta không
khỏi ngạc nhiên và trân trọng những giá trị của nó, vì gần như tất cả các quyền
tự do dân chủ mà hiện nay người Đức đang được hưởng đều đã được qui định một
cách đầy đủ, chi tiết ở Chương VI của Hiến pháp như: quyền tự do ngôn luận
(Điều 143), quyền tự do biểu tình (Điều 161), quyền tự do lập hội (Điều 162),
quyền tự do tôn giáo (Điều 147), quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp (Điều 158),
quyền tự do khoa học (Điều 152), quyền sở hữu tài sản, quyền tự do cư trú, quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 133), quyền bất khả xâm phạm về thư tín, quyền
bình đẳng (Điều 137), các quyền tố tụng, liên quan đến việc bắt giam, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử (Điều 175), bãi bỏ hình phạt tử hình (Điều
139)...
Mặc dù đã được thông qua và đăng
công báo, nhưng rất tiếc là bản Hiến pháp này lại không được thực thi do sự
chống đối của vị vua độc tài Friedrich Wilhelm IV.
Dù không có hiệu lực trên thực
tế, nhưng bản Hiến pháp này đã để lại một di sản vô cùng quí giá, đó là lần đầu
tiên xây dựng được nền tảng, hình hài của một bản Hiến pháp dân chủ, lần đầu
tiên phản ánh được Tinh thần Hiến pháp - một tinh thần xây dựng, đấu tranh và
bảo vệ các giá trị sống, các giá trị tự do, dân chủ ở Đức.
Dưới thời Bismark, năm 1871, một
bản Hiến pháp thành văn khác có tên là Hiến pháp đế chế Bismark
(Bismarcksche Reichsverfassung) đã được thông qua. Điểm hạn chế của bản
hiến pháp này là chỉ đề cập đến vấn đề tổ chức nhà nước và hoàn toàn không chứa
đựng những quyền cơ bản của công dân, do vậy bản Hiến pháp này đã không được
đánh giá cao trong lịch sử lập hiến ở Đức.
Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất, năm 1919, một Hiến pháp cộng hòa được soạn thảo, thông qua ở Weimar (gọi
tắt là Hiến pháp cộng hòa Weimar [Weimarer Reichsverfassung]) có
hiệu lực từ ngày 14/8/1919. Đây là bản
Hiến pháp dân chủ đầu tiên có hiệu lực, xác lập một nền cộng hòa, liên bang, tồn
tại từ năm 1919 đến 1933 ở Đức.
Nội dung của bản Hiến pháp này
có rất nhiều điểm tiến bộ cả trên phương diện tổ chức quyền lực nhà nước cũng
như phương diện qui định cụ thể các quyền cơ bản của công dân.
Khác với Hiến pháp đế chế
Bismark, hàng loạt các điều khoản của Hiến pháp nhà thờ thánh Paul năm 1948 đã
được kế thừa trong bản Hiến pháp này. Hàng loạt các quyền như tự do tôn giáo,
tín ngưỡng (chương III, phần 2), quyền học tập (chương 4, phần 2), quyền tự do
kinh doanh (chương 5, phần 2), bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 115), quyền tự do
ngôn luận (Điều 116), quyền tự do biểu tình (Điều 123), quyền tự do bầu cử (Điều
125), quyền bình đẳng nam nữ (Điều 128, Điều 130), quyền sở hữu, quyền thừa kế
(Điều 153) v.v...đã được qui định rất cụ thể, chặt chẽ.
|
Hiến pháp Weimar, Ảnh:
Wiki |
Chính thể của nền cộng hòa Weimar
này là chính thể cộng hòa hỗn hợp, bởi đó là sự kết hợp những đặc tính của cả
chính thể Cộng hòa Tổng thống và Cộng hòa đại nghị (ein Mischform aus
präsidialem und parlamentarischem Regierungssystem).
Ngoài việc phân định rõ nhiệm vụ
của liên bang và các tiểu bang, Hiến pháp Weimar đã xác định rất cụ thể, chi
tiết vị trí pháp lý của từng thiết chế như Hạ viện (Reichstag), Thượng viện
(Reichsrat), Tổng thống và Chính phủ (Reichspräsident und die Reich), Tòa án
(Gerichtshof), cũng như các nhiệm vụ lập
pháp (Reichsgesetzgebung), hành chính (Reichsverwaltung) và tư pháp
(Rechtspflege).
Bên cạnh cơ chế phân
quyền, các vấn đề liên quan đến bảo hiến, trách nhiệm của nhà nước, những
yêu cầu được coi là tối quan trọng của nhà nước pháp quyền lần đầu tiên đã được
qui định cụ thể trong bản Hiến pháp này.
Tòa án quốc gia (Der
Staatsgerichtshof) có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về Hiến pháp
(Verfassungsstreitigkeiten) giữa các tiểu bang với nhau hoặc giữa liên bang và
tiểu bang. Ngoài ra trên cơ sở có đề nghị
của Hạ viện (Reichstag), Tòa án quốc gia
có quyền phán quyết việc liệu những chức danh đứng đầu nhà nước có vi phạm Hiến
pháp hay luật của nền cộng hòa hay không.
(Xem thêm: Milan Kuhli: Zur Verfassung von Weimar – eine Einführung, in:
Juristische Ausbildung (JURA) 2009, S.
321–329).
Về vấn đề trách nhiệm của nhà
nước (Staatshaftung), Điều 131 Hiến pháp 1919 qui định trách nhiệm nhà nước phải
bồi thường cho công dân khi công chức gây ra thiệt hại, một cách có lỗi, khi thi
hành công vụ. Đây là qui định đầu tiên xác lập trách nhiệm bồi thường của nhà
nước theo nghĩa hẹp (Staatshaftung i.e.S), đồng thời là một bước tiến nổi bật so
với qui định trách nhiệm cá nhân của công chức phải bồi thường khi thi hành công
vụ (Điều 839 BLDS 1900). Qui định này sau này được kế thừa và phát triển ở
Điều 34 Luật cơ bản.
Trong suốt thời cai trị của Adolf
Hitler và Đảng Đức quốc xã sau này (1933 – 1945), bản Hiến pháp cộng hòa Weimar
hoàn toàn không bị bãi bỏ.
Luật cơ bản của Cộng hòa liên
bang Đức (Tây Đức) và nước Đức thống nhất sau này đã kế thừa nhiều nội dung tiến
bộ từ Hiến pháp cộng hòa Weimar, cũng như Hiến pháp nhà thờ thánh Paul nếu nhìn
trong một chiều dài lịch sử lập hiến ở Đức.
2. Hoàn cảnh ra đời Luật cơ bản (Grundgesetz) của
Cộng hòa liên bang Đức
Năm 1947, sau khi hội nghị ngoại
trưởng của bốn nước đồng minh thắng trận Mỹ, Anh, Pháp, Liên xô (Siegermächte) ở
Mát-xơ-cơ-va và ở Luân đôn không đi đến thống nhất về tương lai của nước Đức, ba
nước Mỹ, Anh và Pháp đã tìm cách đưa ra sự thống nhất chung mà không cần đến sự
nhất trí của Liên Xô.[5]
Cụ thể ngày 1/7/1948, các chính
quyền quân sự ở Tây Đức gồm Mỹ, Anh và Pháp đã ký các thỏa thuận chung tại
Frankfurt (Frankfurter Dokumente). Nội dung chính của các thỏa thuận này
liên quan đến vấn đề lập hiến. Trước tình trạng tiến thoái lưỡng nan, mọi quyết
định không thận trọng có thể dẫn đến mối nguy hại về việc chia cắt nước Đức, các
nước này đã thống nhất 3 vấn đề chính trong thỏa thuận chung Frankfurt về lập
hiến:
Thứ nhất, không tổ chức
tổng tuyển cử bầu Hội đồng lập hiến (verfassunggebende Versammlung) mà Hội đồng
này chỉ bao gồm đại biểu do Hạ viện các bang trực tiếp bầu ra.
Thứ hai, lấy tên là Luật
cơ bản (Grundgesetz) thay vì Hiến pháp (Verfassung).
Thứ ba, sau khi Hội đồng
lập hiến thông qua Luật cơ bản, sẽ không tổ chức trưng cầu dân ý
(Volksabstimmung) mà chính quyền quân sự trung ương (Militärgouverneure) và Hạ
viện của bang sẽ quyết định việc chuẩn thuận Hiến
pháp.
Tháng 8/1948, một Ủy ban soạn
thảo Hiến pháp (Sachverständigenausschuss) bao gồm các chuyên gia luật học
hàng đầu về lĩnh vực luật công lúc đó đã được các thống đốc bang triệu tập ở
Bayern để bàn thảo xây dựng Hiến pháp.
Xây dựng lại đất nước trong đống
hoang tàn đổ nát, người Đức đã nhanh chóng tiếp nối Tinh thần Hiến pháp trong
việc xây dựng Luật cơ bản năm 1949, một tinh thần đã có một thế kỷ phát triển
nếu tính từ bản Hiến pháp đầu tiên là Hiến
pháp nhà thờ thánh Paul năm 1848. Tại Hội
nghị lập hiến, Karl Arnold, thống đốc bang Nord-Rhine Westphalia (sau này là Chủ
tịch Thượng viện) đã tuyên bố một câu nói nổi tiếng rằng: "Nhiệm vụ của chúng
ta rất nặng nề đó là tiếp nối tinh thần Hiến pháp, chúng ta phải làm việc thật
cẩn trọng và trách nhiệm, phải cân nhắc để chắc chắn rằng những gì mà chúng ta
kiến thiết hôm nay, ngày mai sẽ là tương lai tốt đẹp cho tất cả người
Đức".Kết quả là dự thảo Luật cơ bản đầu tiên đã được xây dựng vào thời điểm
này.
|
Luật cơ bản (Grundgesetz), Ảnh: DPA
|
Ngày 1/9/1948, Hội nghị lập
hiến được tổ chức ở Bonn (thủ đô của Tây Đức) để thảo luận và thông qua Luật
cơ bản. Hội nghị này gồm 65 thành viên. Những thành viên này do Hạ viện của các
bang bầu ra. Chủ tịch Hội nghị này là Konrad Adenauer - người sau này là Thủ
tướng đầu tiên của Cộng hòa liên bang Đức (Tây Đức).
Sau một quá trình làm việc cẩn
trọng, ngày 8/5/1949, Hội nghị lập hiến đã biểu quyết thông qua Luật cơ
bản (Grundgesetz)
với tỷ lệ 53 phiếu thuận, 12 phiếu chống
trên tổng số 65 phiếu.
Theo Hiệp định chung Frankfurt đã
ký kết ngày 1/7/1948, ngày 12/5/1949, sau khi Hội nghị lập hiến đã biểu quyết
thông qua Luật cơ bản, chính quyền quân sự trung ương (Militärgouverneure) phải
chuẩn thuận bằng văn bản và có đủ ít nhất 2/3 tổng số Hạ viện của các bang
(Landtage) thuộc Tây Đức nhất trí thông qua. Trừ bang Bayern, khi tiến hành thủ
tục này, các bang đều nhất trí chuẩn thuận Luật cơ
bản.
Vào 24 giờ ngày 23.5.1949, Luật
cơ bản (Grundgesetz) chính thức có hiệu lực.
3. Hiến pháp Cộng hòa dân chủ Đức
(DDR)
Chỉ một thời gian ngắn sau khi
Luật cơ bản có hiệu lực, Liên xô tuyên bố thành lập nhà nước Cộng hòa dân chủ
Đức (Deutsche Demokratische Republik, thường được gọi tắt là nhà nước Đông
Đức, hay DDR) trên phần lãnh thổ chiếm đóng.
Vào ngày 7/10/1949 nhà nước Cộng
hòa dân chủ Đức đã thông qua Hiến pháp. Hiến pháp của Cộng hòa dân chủ Đức
(DDR) đã xóa bỏ chế độ phân quyền (có từ Hiến pháp Cộng hòa Weimar) và
xây dựng chế độ tập quyền thống nhất. Điều 50 Hiến pháp DDR qui định cơ
quan dân biểu (Volkskammer) là cơ quan tối cao của nền Cộng hòa. Hiến pháp DDR
cũng qui định các quyền cơ bản (từ Điều 6 đến Điều 18), tuy nhiên trên thực tế
chúng không được thực thi và với những quyền cơ bản được ghi nhận trong Hiến
pháp này công dân hoàn toàn không thể được khởi kiện thông qua một Tòa án hiến
pháp độc lập khi các quyền của mình bị xâm hại (ohne Rechtsweg).
Cuối những năm 1980 và đầu những
năm 1990, chế độ cộng sản ở Liên xô và các nước Đông Âu lần lượt sụp
đổ.
4. Thống nhất nước Đức và
những thay đổi của Luật cơ bản
Ngày 9/11/1989, bức tường Berlin
ngăn cách giữa Đông Đức và Tây Đức bị phá bỏ. Trên cơ sở hiệp định thống nhất
nước Đức giữa Cộng hòa liên bang Đức và Cộng hòa dân chủ Đức ngày 3/10/1990, 5
bang của Đông Đức và phía Đông của Berlin đã thuộc về Cộng hòa liên bang Đức
thống nhất.
Sự thống nhất nước Đức cũng chấm
dứt về mặt pháp lý Hiệp định quốc tế giữa bốn nước đồng minh chiến thắng, chấm
dứt hiệp định chung chế độ hai nhà nước Đức (hay còn gọi là Hiệp định 2+4-).
Theo đó, Hiến pháp của Cộng hòa dân chủ Đức chấm dứt hiệu lực và Luật cơ bản
(Grundgesetz) có hiệu lực trên toàn bộ lãnh thổ nước Đức thống nhất.
Trước khi nước Đức thống nhất năm
1990, Luật cơ bản cũng đã có một số lần sửa đổi như:
- Năm 1954/1956: Bổ sung nghĩa vụ
quân sự (1954) và tổ chức lực lượng quốc phòng (1956);
- Năm 1968: Qui định về tình
trạng khẩn cấp, bổ sung qui định trách nhiệm của nhà nước tại Điều 20 Khoản
4.
- Năm 1969: Cải cách về tài
chính, bổ sung Điều 104a GG và thay đổi cơ bản các Điều 105 GG, 106 GG, 107 GG,
108 GG.
Sau khi nước Đức thống nhất, đã
có một số sửa đổi, bổ sung như:
- Năm 1990: Thay đổi lời nói đầu
(Präambel), bãi bỏ Điều 23, bổ sung Điều 143 GG và qui định mới Điều 146
GG.
- Năm 1992: Qui định mới Điều 23
GG liên quan đền những qui định về EU năm 1992.
Ngoài ra, nước Đức cũng đã tiến
hành hai lần cải cách liên bang (Föderalismusreform) vào năm 2007 và năm
2009. Cải cách liên bang năm 2007 tập trung bổ sung thẩm quyền lập pháp của liên
bang tại Điều 72 và Điều 74 GG, trong đó giảm bớt số lượng các đạo luật của liên
bang mà đòi hỏi phải có sự chuẩn thuận của Bundesrat tại Điều 84 Khoản 1 GG. Cải
cách liên bang năm 2009 tập trung về vấn đề giới hạn nợ công (Schuldenbremse) ở
Điều 109 Khoản 2 GG và Điều 115 Khoản 2 GG.
5. Thành công của Luật cơ bản
(Grundgesetz)
5.1. Thành công thứ nhất,
những giá trị của "Tinh thần Hiến pháp dân chủ" có từ trong lịch sử ở Đức đã
được kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và thể hiện trong Luật cơ bản
Đức
Luật cơ bản của Đức là sự tiếp
nối những giá trị của Hiến pháp trong suốt một chiều dài lịch sử lập hiến của nước Đức.
một chương
riêng, viện dẫn trực tiếp các Điều khoản của hiến pháp Weimar, với 31 điều (từ
Điều 116 đến Điều 146 Luật cơ bản). Chính điều này làm cho một phần của Hiến
pháp Weimar như được sống lại và tiếp tục phát huy những giá trị của nó trong
Luật cơ bản 1949.
5.2. Thành công thứ hai là chế
độ dân chủ ở Đức đã được vĩnh viễn hóa, một hệ thống các quyền cơ bản của công
dân có chất lượng và có sức mạnh thi hành đã được thể hiện đầy đủ trong Luật cơ
bản
Điều 79 khoản 3 Luật cơ bản đã
vĩnh viễn hóa nền tảng của chế độ dân chủ. Điều luật này chỉ rõ các qui định về
nhân quyền (Menschenwürde) tại Điều 1 và các nguyên tắc nhà nước cộng hòa dân
chủ pháp quyền liên bang (Verfassungsgrundsätze) tại Điều 20 là không thể thay
đổi. Hay nói cách khác, Điều khoản này đã vĩnh viễn hóa những đặc trưng nền
tảng về dân chủ, pháp quyền của nhà nước Đức, vĩnh viễn hóa một chân lý: “Phẩm
giá của con người là giá trị cao nhất và không thể bị xâm
phạm”.
Về chất lượng, các nhà lập
hiến khi xây dựng Luật cơ bản đã thừa nhận một hệ thống các giá trị khách quan
về quyền con người như: Quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm thân thể (Điều
2), quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng (Điều 4), quyền tự do tư tưởng, tự do báo
chí, tự do về khoa học và nghệ thuật (Điều 5), Quyền tự do biểu tình (Điều 8),
Quyền tự do lập hội, cấm các biện pháp hạn chế đình công (Điều 9), quyền tư hữu
(Điều 14)…Các quyền cơ bản này ngoài chức năng bảo vệ tự do cá nhân (Schutz der
individuellen Freiheit) còn có chức năng là các quyền tự vệ của cá nhân
(Abwehrrechte) đối với nhà nước.
Luật cơ bản Đức 1949 đã có sự
tách biệt rõ đâu là quyền (Rechte) và đâu là nghĩa vụ (Pflichte) cơ
bản của công dân (Điều 1-19), điều này hoàn toàn khác với Hiến pháp của Cộng
hòa dân chủ Đức (DDR) 1949, 1968 không có sự tách rời giữa quyền và nghĩa vụ
của công dân (giống với Điều 51 Câu 1 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 hiện
hành). Có nghĩa là theo Luật cơ bản 1949 thì đối với một vấn đề, công dân chỉ
có quyền hoặc nghĩa vụ, chứ không phải là quyền đồng thời là nghĩa vụ, chẳng
hạn như quyền bầu cử (Điều 38 Luật cơ bản) là một quyền tự do, chứ không phải
vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ giống ở DDR trước đây hay ở Việt Nam hiện nay. Ưu
điểm rất rõ qui định này là bất cứ ai khi đọc luật cơ bản cũng có thể hiểu
được điều gì được phép làm (quyền) và những gì bắt buộc phải làm (nghĩa
vụ).
Về sức mạnh thi hành, Điều
19 khoản 4 Luật cơ bản qui định „Nếu bất cứ ai bị các cơ quan công quyền xâm hại
các quyền cơ bản đã được nêu trong Luật cơ bản, đều có quyền khởi kiện trực
tiếp“. Sức mạnh thi hành của Luật cơ bản chỉ thực sự đi vào cuộc sống sau khi
Luật tòa án Hiến pháp (Bundesverfassungsgerichtgesetz - BVerfGG) năm 1951 và qui
định bổ sung chế định khiếu kiện Hiến pháp của công dân tại Điều 93 khoản 1 số
4a Luật cơ bản năm 1969 có hiệu lực. Từ đó đến nay, từng quyền cơ bản của công
dân được bảo vệ, được giải thích và làm sáng tỏ trong các phán quyết có hiệu lực
pháp luật của Tòa án Hiến pháp liên bang.
5.3. Thành công thứ ba là Luật
cơ bản đã xây dựng nền tảng của một nhà nước pháp quyền hiện đại (moderner
Rechtsstaat), mô hình Tòa án Hiến pháp liên bang (Bundesverfassungsgericht) và
chính thể đại nghị bền vững (palamentarisches Regierungssystem). Đây là những
nét đặc trưng điển hình trên phương diện tổ chức quyền lực nhà nước trong Luật
cơ bản.
Các yêu cầu về
hình thức như phân chia quyền lực (Gewaltenteilung), đảm bảo tính tối cao
của Hiến pháp và các đạo luật (Vorrang von Verfassung und Gesetz), đảm bảo tư
pháp độc lập và các bảo đảm thủ tục tố tụng (Justizgrundrechte und
Verfahrensgarantie), đảm bảo quyền tố tụng Hiến pháp
(Justizgewaehrungsanspruch), cũng như những yêu cầu về nội dung
của nhà nước
pháp quyền như sự an toàn pháp lý (Rechtssicherheit), chống độc quyền
(Willkürverbot), hiệu lực trực tiếp các quyền cơ bản (Unmittelbare Geltung der
Grundrechte), bảo vệ niềm tin của công dân (Vertrauensschutz), trách nhiệm bồi
thường của nhà nước (Staatshaftung) đều được qui định một cách chi tiết, chặt
chẽ trong Luật cơ bản này.
|
Tòa bảo hiến Đức. Ảnh: ZDF |
Tòa án Hiến pháp liên bang
(Bundesverfassungsgericht) là một thiết chế có chức năng bảo vệ Hiến pháp và
bảo vệ nền dân chủ (wehrhafte Demokratie) ở Đức. Thiết chế này được đánh giá là
một trong những mẫu hình bảo hiến thành công nhất trên thế giới hiện nay. Kế
thừa những giá trị về bảo hiến của HIến pháp Weimar, thẩm quyền của Tòa án này
đã được mở rộng hơn, cụ thể như Điều 93, Điều 100, Điều 21 Khoản 2, Điều 41
khoản 2, Điều 61, Điều 93 khoản 1 số 4b. Trong những quy định này, thẩm quyền
quan trọng nhất của Tòa án Hiến pháp gồm: quyền tuyên bố một đạo luật là vi hiến
nếu đạo luật đó trái với Luật cơ bản (Điều 100 khoản 1); quyền giải thích Hiến
pháp (Điều 93 khoản 1 số 2), quyền giải quyết xung đột thẩm quyền giữa các cơ
quan nhà nước ở Liên bang (Điều 93 khoản 1 số 1); quyền giải quyết tranh chấp
thẩm quyền giữa liên bang và tiểu bang (Điều 93 Khoản 1 số 3 và số 4) và đặc
biệt là quyền giải quyết khiếu kiện Hiến pháp của cá nhân (Điều 93 khoản 1 số
4a).
Về chính thể, chính thể
nước CHLB Đức hiện nay là chính thể cộng hòa đại nghị điển hình trên thế giới.
Khác với Hiến pháp Cộng hòa Weimar trước đây, Tổng thống không còn là một thiết
chế có nhiều quyền hành. Theo Luật cơ bản, Tổng thống liên bang là một thiết chế
đại diện, không được nhân dân bầu trực tiếp mà được bầu thông qua Hội nghị liên
bang [Bundesversammlung] (Điều 54 Luật cơ bản). Nhân dân trực tiếp bầu các nghị
sĩ Hạ viện liên bang (Điều 38 Luật cơ bản). Hạ viện bầu ra Thủ tướng theo đề
nghị của Tổng thống liên bang (Điều 63 khoản 1 Luật cơ bản). Thủ tướng thành lập
nên Nội các (Điều 64 Luật cơ bản). Thủ tướng có thể bị bất tín nhiệm và Hạ viện
có thể bị giải tán (Điều 67 và Điều 63 khoản 4 Luật cơ
bản).
Có thể thấy mặc dù ra đời muộn
hơn so với Mỹ, Pháp nhưng Hiến pháp của Đức cũng đã kết hợp được đầy đủ những
giá trị tích cực của chủ nghĩa lập hiến trên thế giới và giá trị lập hiến trong
lịch sử của chính nước Đức. Đây chính là điều góp phần quan trọng làm nên sức
sống trường tồn của Hiến pháp Đức, làm nên một Tinh thần Hiến pháp - một tinh
thần được vun đắp, tiếp nối, phát triển, bảo vệ qua nhiều thế hệ. Tinh thần ấy
sống không chỉ ở những con chữ của Hiến pháp mà còn nằm trong tâm thức cũng như
hành động gìn giữ, bảo vệ, phát triển những giá trị này. Với nhiều qui định tiến
bộ, chặt chẽ, Luật cơ bản (Grundgesetz) của CHLB Đức hiện nay đã vượt ra khỏi
phạm vi nước Đức, xứng đáng trở thành một giá trị văn minh chung của nhân loại
và là mẫu hình rất đáng tham khảo đối với nhiều quốc gia muốn hướng đến dân chủ,
pháp quyền theo nghĩa hiện đại.
E. –W.
Böckenförde (Hrsg.), Probleme des Konstitutionalismus
im 19. Jahrhundert, 1975; J. Hilker, Grundrechte im deutschen
Frühkonstitutionalismus, 2005; M. Schwertmann, Gesetzgebung und
Repräsentation im frühhkonstitutionellen Bayern 2006.
Frotscher/ Pieroth, Verfassungsgeschichte, 8. Auflage, 2009, Rn. 442;
Gröpl, Staatsrecht I, 2. Aufl., 2010, Rn.
171ff.
Gröpl, Staatsrecht I, 3. Aufl., 2011, Rn. 171ff.; Vogt, Der
Parlamentarische Rat in Bonn, S. 41 – 46 in: 60 Jahre Grundgesetz, Aus Politik
und Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009.
Boldt, Verfassungsgeschichte, S.302f.; G. Brunner, Das Staatsrecht der
Deutschen Demokratischen Republik, in: Insensee/ Kirschhof, Handbuch des
Staatsrechts, Band I, S. 531 ff.
Gröpl, Staatsrecht I, 3. Aufl., 2011, Rn. 171
ff.
H.
Vorländer, Die Deutschen und ihre Verfassung, S. 33 – 40 in: 60 Jahre
Grundgesetz, Aus Politik und Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009;
K. Niclauß, Die Bundesregierung im Verfassungssystem, S.33
– 40 in: 60 Jahre Grundgesetz, Aus Politik
und Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009.
(nguồn blog nguyenminhtuan)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001