Xuất bản
lần đầu năm 1992 trên “Văn học & dư luận”, mục Bút
Mới
Truyện ngắn ĐỖ PHƯỚC TIẾN
Sau
một thời gian dài lang thang khắp miền duyên hải, cái đầu nhọn của tôi dài thượt
ra, sạm đi, quắt queo như một trái đậu bắp khô. Cùng một gã Triều Châu mắt lác,
tôi săn lùng những cái đồng hồ cổ lỗ sĩ, gọng kính cũ, vỏ đài bán dẫn, bình xăng
máy đuôi tôm, bảng đèn hiệu của xác trực thăng. Tóm lại, tôi kiếm sống bằng cách
tìm mua những phế phẩm đã thổ tả đến lục phủ ngũ tạng. Những chiếc móc sắt kềnh
càng trong kho trạm khai thác nông sản chẳng hạn, dây xích lòng thòng có thể
gông trọn một chiếc máy cày. Doanh nghiệp giang hồ gần năm năm không lúc nào
trôi chảy một phần cũng tại cái xứ sở nhiệt đới đỏng đảnh này, hết mưa rồi nắng.
Khi đã mòn nhẵn tất cả các túi, chúng tôi mới sáng mắt trước một trục trặc khó
mà bù đắp nổi: cả hai đứa đều chậm chạp và kiết xác. Rồi vận hội nữa, nếu ai đó
tin rằng đi buôn lạc xoong cũng cần có vận hội.
Gã
Triều Châu mảnh dẻ như một cọng rơm, tính khí thất thường và keo cú khủng khiếp.
Bùa hộ mạng của gã là một cái chuông lắc to đùng như cái loa phóng thanh. Những
vố thua đau đớn khiến hai đứa thường xuyên cay cú, hục hặc và hắc ám như những
lão phù thuỷ. Bạn đồng hành của tôi cứ cười sằng sặc suốt ngày. Cái chuông dị
hợm của gã rung thảm thiết khắp nơi, dội lên những thôn xóm quạnh hiu trong gió
chướng âm thanh sùng sục của đói khát. Khi gia sản đã tiêu tán hoàn toàn, chúng
tôi nằm liệt hai ngày cạnh một hầm cá tra, thở đến tọp người đi và mơ màng một
nồi canh chua với rất nhiều trái giác, một nồi canh khổng lồ. Bụng hai đứa sôi
lên vì mặc cảm bất tài, vì ân hận và vì những ám ảnh bất trắc. Khi bình minh êm
ái lướt qua những đọt rau đắng non, rau đồng tiền và rau kinh giới, gã Triều
Châu gượng dậy trước tiên. Cố vận dụng sức tàn, gã trình bày với tôi về một lối
thoát cho cả hai. Gã giảng giải rằng dù có ra sao, tôi với gã vẫn cứ là những
trang nam tử. Một nồi canh mơ mộng làm sao đủ nuôi được chí lớn? Rằng cơn ác
mộng tha hương này phải kết thúc thôi, ngay tại đây, cạnh cái hầm cá tra này.
Rằng vận hội của hai đứa sẽ không như những cơn mưa nhiệt đới, trời già chẳng
tuôn xuống bao giờ. Cần phải đi mà tìm, như đàn bà vậy, chộp lấy và nuốt chửng,
dù có ở trong túi người khác cũng mặc. Và còn một trăm cái rằng khác nữa, đặc
sệt mùi cá kèo khô với bánh dừa không nhân. Tôi nghe gã, mệt mỏi rã rời, và nhụt
chí nữa.
Rồi
có một ngày xuân rất xanh, hai đứa chúng tôi chia tay nhau giữa cơn cùng quẫn.
Tôi đi lên phía Bắc, cố bứt thật xa những cánh đồng nước mặn với hoàng hôn tím
ngắt trong giấc mơ tha hương. Gã Triều Châu trở lại miền cực Nam, lo phần hậu
sự. Kế hoạch của chúng tôi mở đầu như vậy.
Nhà
chệt Liếm rất dễ tìm bởi cổng gỗ sơn đỏ chói, hàng rào cây mắm có dây nhãn lồng
và những chùm trái giác tròn trĩnh cuốn quanh. Lúc tôi đến, quán ăn đã cũ kỹ lắm
rồi, tường vôi có mái lợp ngói âm dương đã hở móng. Khu nhà phía sau như cái bẫy
chuột, gác gỗ xấu xí, ống thông khói như cái bàn chải răng dựng đứng. Toàn bộ
cấu trúc u ám, mờ nhạt và rối rắm. Thị xã lúc nào cũng mịt mù bụi. Trên những
con phố chật chội, những quần thể kiến thiết đơn điệu như vậy còn lại rất nhiều,
âm thầm bạc thếch dưới nắng xuân.
Theo kế hoạch, tôi sẽ ở phụ việc trong nhà chệt Liếm
khoảng hai năm, vừa đủ để tỉnh hồn. Trong thời gian này tôi sẽ tập làm đủ thứ:
nếm rượu, cuốn chả hấp lạp xưởng, ướp kim tiền kê và muối những quả trứng bắc
thảo. Có thời cơ sẽ nghiền ngẫm món xào chua thập cẩm hay lẩu cá chẽm. Sành sỏi
được món hầm nhừ sa tế thì coi như bá chủ căn bếp. Xin nhớ cho: căn bếp của một
thương nhân gốc Hạ Môn. Đó chính là lối thoát mà tôi và gã Triều Châu đã thoả
thuận.
Tôi
là đứa tồi tàn, đúng vậy. Mấy mùa qua tôi đã vận động nhiều hơn một con bò và dư
sức hiểu rằng cần phải vận động nhiều hơn nữa nếu không muốn bẹp gí như một con
gián trong khi chen lấn với cuộc đời. Tôi cũng có quyền được ăn no ngủ yên như
người khác. Hơn nữa, tôi chẳng thích sống một mình chút nào.
Ngoài gia đình chệt Liếm, trong quán còn có một người
khách Gia thanh lịch khắc khổ, một người Ấn lai Việt đứng bếp và một người Khmer
xuất phát từ miền châu thổ sông Hậu. Tất cả đều lầm lì, rình rập lẫn nhau và bao
giờ cũng chu tất phần việc của mình.
Tôi
rất thích ông Khmer, một người trầm lặng và hào hiệp, to xám như một con chuột
đồng. Tình bằng hữu của chúng tôi bắt đầu bằng cái bật lửa có nắp mở kêu tanh
tách của tôi, di vật cuối cùng của một thời lang thang. Ông Miên rất vừa lòng
mặc dù bọc cao su đựng thuốc gò của ông xếp cạnh cái bật lửa rất chướng mắt.
Trong lúc tôi chui vào một hốc tối, lặng lẽ ngốn những miếng sườn còn lại từ hôm
qua thì ông Miên, khăn rằn quấn quanh bụng, điềm nhiên quấn thuốc cạnh tấm thép
chắn lò. Ông phục vụ chệt Liếm đã lâu, có lẽ còn trước khi cái sinh mạng hèn mọn
của tôi xuất hiện dưới gầm trời này. Cách mổ bụng của ông hoàn toàn theo kiểu
cổ: từ dưới lên, hơi chếch qua trái một chút. Người Khmer không có thói quen
thay đổi chỗ ở cũng như phương thức kiếm sống, và đó cũng là đặc tính chung của
cây cỏ nhiệt đới.
Nhiệm vụ của ông Miên trong quán thật nặng nề. Mỗi tuần
ngoài phần việc cố định, ông còn phải hạ thịt từ hai đến ba con dê, có thể là
bốn nếu vào những dịp vui vẻ. Những con dê mới đến còn rất tơ, được vỗ béo kỹ
càng, lông óng mướt như vừa mới chui ra từ những nụ so đũa cuối đông. Chúng được
phục đến say khướt bằng một thứ rượu mía nồng nặc, bị đuổi chạy khắp thị xã với
cái lon rỗng cột sau đuôi cho đến mệt lử. Những con dê đó chết rất nhanh trước
mũi dao thiện nghệ của ông Miên, mình mẩy đẫm mồ hôi và đáy mắt mở to còn tràn ứ
khoái cảm.
Quán mở cửa suốt ngày, nhưng chỉ khởi sắc muộn màng khi
chiều xuống, lúc những cơn lốc bụi đã dịu đi.
Người khách Gia cột ngang bụng một tấm vải hoa sặc sỡ.
Ông phun nước lên sân gạch, xếp thêm bàn ghế với phong thái đạo mạo cố hữu. Ông
người Ấn nặng nề xoay trở quanh những tấm thớt, tráng cái chảo hai quai trên bếp
bằng động tác hờ hững khinh bỉ. Ông Miên muối những tảng thịt dê còn bốc khói,
còn tôi thì đánh vật với cái máy xay gia vị cứ lồng lên sòng sọc. Khi đèn
măng-xông được thắp lên, chệt Liếm vui vẻ xuất hiện. Ông cười hào sảng giữa
những thực khách, ly rượu pha sôđa lấm tấm hơi nước trong tay. Ông quan sát từng
dĩa thức ăn dồn dập mang ra với đôi mắt tỉnh táo cân nhắc. Chệt Liếm cũng có
phần việc riêng và ông không bao giờ cho phép bất cứ ai trong chúng tôi làm
thay. Treo những chiếc đèn lồng trước cổng, rót rượu cho thần tài, thanh toán
tiền với khách, đó là phần việc của ông.
Hoàn tất phần việc của mình sớm nhất là ông người Ấn.
Trong lúc chúng tôi cọ rửa, thu dọn thì ông ta lui vào một góc riêng, lầm rầm
những bài kinh dài lê thê trước dĩa đèn dầu. Cái xác phàm chảy xệ của ông rũ
xuống trong lúc trò chuyện cùng đấng tiên tri.
Đắp
xong một chục lò mạt cưa, tôi tìm cách trèo lên gác với chị Chu. Ở trên đó, chị
Chu luôn phải ngồi một mình và chờ đợi từ ngày này qua ngày khác với những con
gà nhựa có thể gáy được mỗi khi lên dây cót. Chệt Liếm cấm tất cả mọi người lên
gác, trừ xiếm Hoa. Tôi ra vào bằng mái thông gió và bồn chồn căng thẳng mỗi khi
ở gần chị. Tôi biết, không phải một mình tôi đến với chị. Có một buổi sáng chệt
Liếm từ trên gác bước xuống. Ông đi thẳng một mạch ra sàn nước, nơi ông Khmer
đang cặm cụi rửa những bình đất đựng rượu huyết dê. Chệt Liếm đến gần, mắt dán
chặt vào gáy ông Miên. Hai người gằm gằm nhìn nhau. Sau đó chệt Liếm rút trong
túi ra cái bật lửa có nắp mở kêu tanh tách, ngắm nghía nó một lát rồi đặt trên
nắp lu nước, sát người ông Miên. Rồi ông lẳng lặng bỏ đi.
Chị
Chu kể với tôi rằng, chị đã ngồi trong cái hộp gỗ của mình từ lâu lắm rồi, từ
khi biết ngồi, và sẽ còn phải ngồi cho tới bao giờ cả căn gác tan đi, tan vào
thinh không theo khói mạt cưa hàng ngày dưới quán xông lên. Tôi không tin. Tôi
ăn những mẩu bánh nướng chị để dành từ bữa trưa cho chị yên lòng rằng tôi là một
đứa con nít, chẳng làm hại được ai. Tôi nắn bóp những bắp thịt mỏi nhừ của chị
vì ngồi lâu, nghe chị kể lại những đêm rằm vàng ngập ánh trăng, chị ngồi chờ áng
mây vẩy cá phiêu bồng qua hiên gác. Chị bảo tôi ngồi im, lắng nghe tiếng thời
gian gõ lốc cốc trên những mái ngói âm dương, len lỏi qua những hẻm phố tối tăm
lồi lõm. Cái thế giới bạo động liên tục phía dưới, và chệt Liếm nữa, hoàn toàn
không dính dáng gì đến chị. Một tay và một chân chị chỉ còn da với xương do
chứng liệt cơ bẩm sinh.
Chệt Liếm đối xử với chúng tôi rất tốt và chưa bao giờ
tôi nghi ngờ lòng nhân hậu của ông chủ. Ông xứng đáng là một người đàn ông Trung
Hoa, nỗi ô nhục do chị Chu gây ra ông đã biết từ lâu mà vẫn âm thầm chịu đựng
với một nghị lực phi thường. Ông điều khiển cơ đồ của mình chính xác đến từng
cái nút chai. Những miếng sườn tôi ăn trộm thật ra đã thiu rồi, cho nên đối với
chệt Liếm chúng không còn mang ý nghĩa vật chất nữa. Ông sẵn sàng khen ngợi
không tiếc lời một bó rau cần vàng úa hay giỏ nấm mèo nhăn nhúm thảm hại chỉ vì
chủ của chúng đã mang đến cho ông từ những thôn ấp khô cằn xa xôi. Tóm lại, chệt
Liếm có đầy đủ phẩm chất của một thương gia trung bình, và chỉ có vậy thôi. Thời
trai trẻ ông đã không biết tìm, bằng mưu lược của mình, một điểm tựa có sức đàn
hồi để vọt đi xa hơn. Còn tôi, tôi đang tìm cách bổ sung thiếu sót của ông: chị
Chu là một trong những mục tiêu của tôi, với gã Triều Châu nữa, tất nhiên.
Tôi
dành ngày càng nhiều thời gian cho chị Chu, và tâm lực nữa. Những lúc chị tuyệt
vọng nhất chính là lúc tôi cảm thấy tự tin nhất. Tôi rất ghét nước mắt, nước mắt
và sự im lặng. Những giọt nước mắt của chị Chu lăn suốt đêm chưa tới cằm. Nó
khiến tôi nhớ đến cái thân phận khốn nạn của mình. Tôi ôm chị Chu vào lòng và
bắt chước gã Triều Châu, tôi giảng giải cho chị nghe rằng mây vẩy cá chỉ là một
đám hơi nước lẩn thẩn và ngu ngốc. Thời gian và gió tha hồ rỉa rói tấm thân mỏng
mảnh bạc nhược của nó. Mà thời gian là gì, tiếng lốc cốc là do chiếc trống dây
tự va đập vào nó trong lúc cùng người nhuộm đồ rong lang thang tìm kiếm một
miếng ăn vô định. Thời gian là sự vận động hết sức nhảm nhí của cảm giác, rất
bấp bênh bởi vì nó không hề có định mức. Chẳng phải chị hay tôi, hay bất cứ một
người nào khác, chúng mình như những chiếc máy cày chỉ làm mỗi một việc là lê
lết mỏi mòn qua cánh đồng thời gian, và khát vọng hiện hữu có hơn gì một cái móc
sắt han rỉ? Ngồi một chỗ như chị hay suốt đời di động như tôi thì có gì khác
nhau. Bao giờ còn chưa quên vị trí xuất phát của mình, thì tôi với chị vẫn chưa
bước nổi một bước, dù chỉ một bước, trong cuộc đời.
Tấn
tuồng của tôi với chị Chu kéo dài hơn nửa năm. Sau đó tôi không thể tiếp tục vì
không còn đủ sức. Trong lúc soạn thảo kế hoạch với gã Triều Châu, tôi đã không
lường trước tình huống này. Trong lúc ôm ấp thân thể trần trụi của chị Chu, tự
đáy lòng tôi đã thành khẩn tin rằng mình đang làm một điều thiện, hết sức chân
thiện. Giống như những thứ thổ tả tôi săn lùng ngày trước, dù đã tồi tàn, đôi
khi chúng vẫn mang giá trị vật chất vượt ra ngoài những ước lệ của quy chế trao
đổi. Chị Chu cũng vậy, lúc vùi đầu vào bộ ngực mềm ấm của chị, tôi cay đắng nhận
ra rằng vang sâu trong cái sinh vật dị dạng đang rệu rã kia là những cơn bùng nổ
liên tục của khát vọng làm người, của những đam mê hết sức chân thành, trong
trắng. Linh hồn của mỗi người, nếu quả có nó, thật ra không ăn nhập gì với các
xác phàm mà nó ẩn náu cả. Cho nên tự do tâm linh dễ dàng trở thành một thứ nhu
cầu đồi truỵ bởi thói tắc trách vô liêm sỉ của nó. Tôi cố gắng lèo lái những
cuộc ái ân với chị Chu mềm mại hơn so với trí tưởng tượng thô thiển của mình.
Tôi luôn bị ám ảnh bởi nỗi hờn ghen trẻ con rằng trên cái giường của chị Chu,
trước tôi đã có những trận luyến ái bão táp kinh hồn. Và tôi chỉ là một thứ hình
nộm để lấp đầy khoảng trống giữa hai cơn bão. Với những cơ bắp rắn chắc và lì
lợm, ông Miên dồn ép quần quật chị Chu bằng những động tác quyết liệt và chi li,
giống như đang đối xử với những con dê tử tội vậy. Biết làm sao được, có thể đó
cũng là một dạng phân tâm bệnh lý. Trong tay tôi, chị Chu cũng ngất đi rất
nhanh, mình đẫm mồ hôi và lớp lông tơ trên ngực chị đỏ rực khoái cảm.
Dù
rất yêu chị Chu và luôn luôn tâm niệm với mưu đồ dựng nghiệp, tôi vẫn không sao
quen được với lối sống đơn điệu và tệ hại của mình trong nhà chệt Liếm. Thời
gian qua, cùng chui rúc trong cái hộp gỗ lưu cữu mùi củ cải muối với chị Chu,
tôi đã hiểu ra được nhiều điều. Nhiều khi bắt chước chệt Liếm, tôi cố đánh tan
những dự cảm đen tối bằng cách nốc thật nhiều rượu vào. Những ly rượu cay xé
lưỡi dĩ nhiên cũng là của ăn trộm. Và càng uống nhiều, tôi càng tin tưởng rằng
mình đã khôn ra thật. Mặc cảm về sự hèn mọn của mình là động lực thúc đẩy con
người vượt lên trên, nhưng đồng thời cũng vì nó mà con người đã tự vùi dập không
thương tiếc chính cuộc đời mình.
Rồi
một ngày, một ngày mà xuân cũng rất xanh, tôi từ bến đò trở về, ì ạch kéo theo
một xe đầy mạt cưa. Cơn lốc tháng ba lồng lộn qua những hẻm phố, nhét đầy miệng
tôi những hạt cát vừa khô vừa mặn. Cổng gỗ trước quán mở toang, sân gạch vắng
ngắt. Dưới hiên, ông già người Ấn ngồi thờ thẫn ngắm những con ruồi đang phơi
nắng, dĩa đèn đặt bên cạnh. Phía sau, lơ lửng trên cái bẫy chuột có tiếng đàn bà
khóc rấm rứt. Tôi đi vào, ê ẩm choáng váng vì những dự cảm chẳng lành, vì mệt và
nắng. Nhà sau cũng vắng vẻ. Tiếng khóc nỉ non trên gác. Lạy trời, lẽ nào những
dự cảm đen tối của tôi đã thành sự thật? Tôi không tin. Nhưng rõ ràng đêm qua
tôi đã chứng kiến cuộc đụng độ giữa chệt Liếm với ông Miên ngay dưới chân thang
gác. Chệt Liếm là một người đàn ông phi thường, tôi tin chắc như
vậy.
Thấy có bóng người nhốn nháo trên gác, tôi phóng lên.
Trên cái giường mà tôi với chị Chu vẫn lét lút với nhau hằng đêm, giờ cũng có hai người. Chỗ của tôi, cũng là chỗ của ông Miên, được thay bằng xiếm Hoa. Chị Chu nằm ngửa, cằm trễ xuống, mắt trợn trừng trông thật kinh khủng. Xiếm Hoa cong người như một con tép sắt, nức nở trên người chị. Trên cái bàn thấp kê sát đầu giường, bữa ăn đang dở dang, cơm văng tung toé, một chiếc đũa gãy cắm trên chiếu. Tiếng khóc không thoát ra từ đôi vai rung rẩy của xiếm Hoa mà dội trừ trên mái ngói đầy bồ hóng xuống.
Trên cái giường mà tôi với chị Chu vẫn lét lút với nhau hằng đêm, giờ cũng có hai người. Chỗ của tôi, cũng là chỗ của ông Miên, được thay bằng xiếm Hoa. Chị Chu nằm ngửa, cằm trễ xuống, mắt trợn trừng trông thật kinh khủng. Xiếm Hoa cong người như một con tép sắt, nức nở trên người chị. Trên cái bàn thấp kê sát đầu giường, bữa ăn đang dở dang, cơm văng tung toé, một chiếc đũa gãy cắm trên chiếu. Tiếng khóc không thoát ra từ đôi vai rung rẩy của xiếm Hoa mà dội trừ trên mái ngói đầy bồ hóng xuống.
Người khách Gia đứng dưới mái thông gió, cần cổ duỗi ra
chống đỡ cái đầu đang gục xuống vì xúc cảm. Ông Miên tựa vào tường cạnh cái bàn
thấp, bộ mặt lầm lì của ông phồng lên, đỏ lửng. Chệt Liếm ngồi cứng đơ trong
chiếc ghế duy nhất có trên gác, mặt nhợt nhạt, những con gà nhựa lăn lóc dưới
chân ông. Không có khói mạt cưa, nhưng căn gác như sắp tan ra thật, tan ra vì
những ánh mắt thù địch, vì hơi thở căm giận ngấm ngầm của những đàn ông, dồn dập
và sôi sục.
Tôi
ngồi bệt xuống dưới sàn gác. Tiếng trống dây của người nhuộm đồ rong lảng vảng
đâu đây, rồi bất ngờ nổi lên ầm ầm như tiếng trống trận trong đầu tôi. Rất mơ
hồ, tôi thấy ông Miên nâng tô canh trong mâm cơm lên, múc ít nước canh đổ vào
lòng bàn tay, chà xát rồi ngửi. Điệu bộ của ông lúc đó rất giống dáng dấp băn
khoăn của con chuột đồng trước miếng mồi đã bị đánh bã. Ông đăm đăm nhìn ra hiên
gác, nơi những thanh gỗ mỏng lắp chéo nhau tạo nên một góc trang trí mờ tối. Có
lẽ đó là nơi hẹn hò của chị Chu với đám mây vẩy cá hoang tưởng. Rất lâu, tôi cảm
nhận sự vận động chậm rãi ấy bởi hàng trăm tiếng lốc cốc đều đặn xuyên qua đầu
mình, tôi thấy ông Miên bưng tô canh đến gần cái ghế duy nhất trên gác. Rất bình
tĩnh, ông chụp tô canh lên đầu chệt Liếm, nhẹ nhàng và từ tốn. Lá cải trôi từ
đầu chệt Liếm xuống chân mày, xuống gò má, xuống cằm rồi rơi nhanh xuống đùi.
Chệt Liếm vẫn ngồi cứng đờ, hai tay bóp chặt thành ghế. Sắc vàng đùng đục của
nước canh loang chầm chậm trên mặt ông. Phủi tay với vẻ hả hê, ông Miên chệnh
choạng đi xuống. Rồi ông đi mãi không bao giờ trở lại nữa.
Vài
ngày sau đám tang chị Chu, đến lượt ông người Ấn ra đi. Ngày xuân chưa kịp tàn,
những con ruồi trơ tráo sau khi tắm nắng thoả thuê đã nhảy vào dĩa đèn của ông,
vùng vẫy rồi chết luôn trong đó. Ông người Ấn rũ người đi khi chứng kiến đức tin
tận tuỵ của mình đã bị đấng tiên tri phỉ báng. Ông bỏ đi không nói với ai một
lời, chẳng buồn thanh toán số tiền dầu lâu nay chệt Liếm vẫn cung cấp cho ông.
Ông
khách Gia rồi cũng ra đi, chệt Liếm không thể giữ ông ở lại. Ông đã già yếu đến
mức không còn giữ được phong thái đạo mạo cố hữu nữa. Liên minh của chệt Liếm đã
tan rã. Trong liên minh hỗn hợp của ông, những phần hồn tha hồ lang thang trong
khi mỗi phần xác chỉ biết chu tất phần việc của riêng mình. Nhưng sai lầm vẫn có
thể cứu vãn nếu chệt Liếm không để cho khái niệm cân bằng tồn tại trong căn quán
của ông. Vậy mà ông vẫn để, và hành động vũ lực chỉ khiến mọi thứ nhanh chóng
sụp đổ. Bởi vì cái sườn gia phong của ông có khác nào bức tường đã hở móng.
Cuối cùng người ta cũng tống cổ tôi ra khỏi cánh cổng
gỗ sơn đỏ sau khi đã giải quyết xong những mẩu xương dê còn lại. Nằm bên vệ
đường, trong lúc chờ đợi một thời kỳ cùng quẫn nữa lại đến, tôi nghiền ngẫm đủ
điều. Tôi không tiếc những tháng năm đã mất trong cái bẫy chuột của chệt Liếm.
Làm sao tôi có thể san sẻ với họ, những người tồn tại phía sau hàng rào dây nhãn
lồng kia, một cuộc sống lâu bền được. Tôi nghĩ đến gã Triều Châu. Trong cuộc
chia tay ngày ấy, giữa tôi với gã nào biết ai đã may mắn hơn ai. Là người Trung
Hoa nên gã hiểu người Trung Hoa hơn tôi. Gã hiểu chệt Liếm nên thay vì dấn thân
vào, gã đẩy tôi phiêu lưu trong cái bẫy chuột của ông. Cứ để gã ôm ấp căn quán
tương lai trong giấc mơ êm đềm ở miền cực Nam, tôi sẽ tìm cho mình một con đường
khác. Tôi không phải là đứa phụ bạc, với cặp mắt lác gã có thể cùng lúc nhìn
thấy hai phía của cuộc đời. Còn tôi, sẽ không bao giờ, suốt cuộc đời còn lại,
không bao giờ tôi còn có được hạnh phúc nữa, không bao giờ.
Tháng 2-1992
ĐPT
NHÀ VĂN NHẬT TIẾN :
Thông điệp bên
ngoài thảm kịch .
Họ
là một liên minh. Một người lai ấn Độ, một người ở Cao Mên, hai người ở Trung
Quốc. Trong hai người Trung Quốc thì chệt Liếm còn có một gia đình : chi Chu và
Xiếm Hoa. Tất cả quây quần quanh một quán ăn cũ kỹ, tường vôi , mái lở, sống đời
tha hương. Họ tồn tại như những hạt giống được vung vãi xuống , gặp đất ở đâu
thì mọc ở đó. Cũng là lẽ sinh tồn nhưng với khả năng bền bỉ , nhẫn nại, ý chí
phục hưng giống nòi cuả những con người vốn sinh ra ở những vùng đất nghèo khó
phương đông. Nhân vật xưng tôi và gã Triều Châu, tuy chia xẻ với
nhau một âm mưu nhưng thực ra chỉ là những nhân chứng trong một thảm kich. Một
kẻ đứng ngoài nhìn vào bằng đôi mắt lác (có thể cùng một lúc nhìn
thấy hai phía của cuộc đời ) và một kẻ dấn thân vào âm mưu, bỗng nhiên trở thành
kẻ vừa chứng kiến, vừa tham dự.
Tấn
thảm kịch bắt nguồn từ chị Chu, gười vợ tàn tật suốt ngày nằm trên căn gác xép
của quán ăn cũ kỹ, chờ đêm trăng ngồi đếm đám mây vẩy cá phiêu
bồng trên nền trời hoặc nghe tiếng thời gian gõ nhịp trên mái ngói.
Con
người càng tê liệt thể xác càng sôi động những khát khao. Chị đã chia xẻ những
khát khao này không chỉ với chệt Liếm mà còn với kẻ khác, những kẻ mà chệt Liếm
coi là "ngoại tộc". Ngòi nổ được khơi dậy từ chiếc bật lửa lúc mở nắp kêu tanh
táeh mà lão Cao Mên bỏ quên tại chỗ nằm của chị , cháy lan qua một cuộc đụng độ
giữa hai người đàn ông tại chân cầu thang gác và nổ bùng trong một cuộc xô xát ở
nơi chị Chu vẫn nằm. Chị đã ehết trong cuộc xô xát đó. Chệt Liếm đã giải tỏa
được mối thù hận bị bại hoại gia phong, nhưng lão đã mát mát một ý
đồ : liên minh tan vỡ vốn được tạo dựng để sống còn và gây dựng
một thế hệ kế tiếp.
Câu
chuyện đầy kịch tính được tác giả kể lại bằng giọng văn trầm tĩnh , rất văn
chương, chuyên chở nhiều ý tưởng chua cay và nhiều cách nhìn rất sâu sắc, đem
lại cho người đọc cái không khí của thảm kịch như Lôi Vũ, như Đỉnh
gió hú. . .
Nhưng thật ra câu chuyện còn có một mảng khác đứng
ngoài thảm kich. Cái mảng ấy là của riêng nhân vật xưng tôi, một kẻ tha phương,
chuyên mua đi bán lại những đồ lạc xoong , các vật liệu phế thải. Vì thua lỗ, gã
đã bỏ những loại phế thải này để ôm vào lòng một thứ phế thải khác
: con người tật nguyền của chị Chu. Gã đã tìm được gì ở cái sinh
vật phế thải đó ? Một cái gì rất nhân bản , rất con người . Dù cho
là một tấm thân tàn phế, dị dạng nhưng bên trong là những cơn bùng nổ của khát
vọng làm người , của những đam mê hết súc chân thành, trong trắng và sôi dộng.
Có lẽ theo tôi , chính phát giác này mới là một thông điệp mà tác
giả Đỗ Phước Tiến muốn gửi gấm tới người đọc.
N.T.
NHÀ VĂN DƯƠNG THU HƯƠNG :
Những chi tiết thực tế chạm vào da
thịt
Đảo
của dân ngụ cư là truyện tôi thích nhất trong số bản thảo được đọc
của Đỗ Phước Tiến. Văn phong bình dị mà mặn mòi. Một không khí huyền ảo đan xen
rất tự nhiên với hiện thực phàm trần. Người đọc bi huyến dụ bởi
đám nhân vật câm nín và âm u như những hồn ma, bởi "một chiều xuân rất
xanh" bởi một "bình minh êm ái lướt qua những đọt rau đắng non, rau đồng
tiền, và rau kinh giới" - Súc huyễn dụ ấy chỉ có được khi nó song hành với
những chi tiết thực đến chạm vào da thịt như vị mặn của mồ hôi thấm vào lưỡi ,
như ngọn khói bốc lên từ 10 cái lò mùn cưa, như màu đỏ rực đầy khoái cảm
trên lớp lông tơ của người đàn bà dị tật .
Thế
nhưng, vẻ đẹp của văn phong hay kỹ thuật viết vẫn chỉ là phẩm ehầt thú hai của
văn chương - Theo thiển ý của tôi, sức hấp dẫn đàu tiên của tác phẩm nghệ thuật
vẫn là cái nội dung truyền tải , cái nguồn sinh lực hay suy tư mà người viết
muốn chuyển tải cho người đọc. Ở đây, trong truyện ngắn này . tôi bị thôi miên
bởi 2 nhân vật : chị Chu không chỉ là một người đàn bà bất hạnh, mà là chính nỗi
đam mê bất hạnh , là sự khao khát bị tàn tật và thiều hụt. Ở một thành phố khác,
một dòng sông khác, một ngọn đồi khác, một phương trời khác sẽ
không thể có nhân vật chị Chu - bi kịch của con người sẽ được đặt vào một hình
dạng khác với các tồ chất khác. Nhân vật Tôi cũng không chi là một
nhân vật gọi theo ngôi thứ nhất của đại từ nhân
xưng. Nó là khả năng lương thiện bi đọa đầy. Là hạt giống của sự trong trắng
vĩnh hằng luôn luôn tiềm ấn trong nhân loại. Dù bị hành hạ, bị sỉ nhục, bi vong
thân giữa cuộc mưu sinh lỳ lợm nham hiềm nó vẫn cứ trồi lên vào một khoảnh khắc
bất chợt mà không ai kiểm soát được .
Và
giá như, giá như ...Dẫu biết rằng trên đời không có hai chữ giá như, tôi vẫn cứ
muốn viết. Giá như, tác giả bớt được một số câu loại như : "thời gian là sự vận
động sinh học hết sức nhảm nhí của cảm giác...". Hay : "Rượu chỉ là thứ thuốc an
thân vô hiệu..." thì hay biết bao nhiêu... .
D.T.H.
NHÀ VĂN NGÔ THỊ KIM CÚC
:
Khi số phận không
mỉm cười
Điều ngạc nhiên thứ nhất khi tôi được nghe rằng suốt
bốn năm qua, Tiến đã trôi dạt vào tận đồng bằng Nam Bộ, xuôi ngược trên các dòng
sông với nghề chở lúa mướn, và vào những tháng không còn mùa vụ thì sống bằng
nghề kéo xc. Một anh chàng thành thị rặt ròi bỗng lột xác để làm
một người lao động giản đơn miền lục tỉnh kể cũng là điều lạ. Nhưng đáng ngạc
nhiên cho tôi hơn khi nhận từ tay Tiến xấp bản thảo năm truyện ngắn cất kỹ trong
áo mà Tiến đã viết vào những lúc rảnh rỗi.
Tôi
đã đọc vừa háo hức. vừa tò mò, vùa thận trọng. Tôi muốn biết “cậu bé”
bốn năm trước đã có những đổi thay gì và sẽ bộc lộ mình ra sao một với
một khúc ngoặt trong đời như thế. Tôi đã không phải thầt vọng. Trong những
truyện mới của Tiến tràn ngập những sinh hoạt nông thôn dân dã vùng
Nam bộ, với cách hành văn mượt mà, chắt lọc, đầy hình ảnh. Nhân vật của
Tiến những con người bình thường với những cuộc đời bình thường , bao giờ cũng
vuơng vấn những nỗi buồn, dù lộ liễu hay tiềm ẩn. Tiến thuộc họ vì tâm hồn anh
gần gũi đế chan hòa với họ. Truyện của Tiến bao giờ cũng nồng nàn tình thương
yêu của một tấrn lòng nhân hậu, nhân hậu không phải vì quá ngây thơ trong trắng
mà bởi đã từng trải đủ để hiểu về cuộc sống và con người . Nếu
không biết rõ Tiến , hẳn tôi đã nghĩ tác giả là một người trung niên trầm lặng,
với một trái tim bi tổn thương đang tự tìm cách băng bó eho mình.
Thực ra, Tiến chưa già trong tuổi tác nhưng cũng chẳng
còn trẻ như những đồng niên lứa tuổi hai mươi của anh. Cậu con út
của gia đinh si quan cấp cao ấy đã hứng chiu tất cả những thiệt thòi, ngay từ
trong gia đinh. Suốt tuổi thơ của mình, Tiến đã bắt đầu tha thủi và không mơ
màng tới những sự yêu ehiều , nâng niu của người khác. Mẹ cậu giận dỗi bỏ nhà ra
di. Cha cậu mang cậu theo mình đến những sòng bài. Ở đấy, Tiến lang thang một
mình dưới chân những người lớn , trong những ngôi nhà xa lạ có khi
được người ta nhớ đến để eho ăn, cũng có khi bi bỏ quên với cơn đói và giấc ngủ
chập chờ vạ vật đâu đấy trong một góc nhà. Nếu cậu bé ấy có trở
nên một thiếu niên ngỗ ngược và thiếu niên ngỗ ngược ấy có thành
một thanh niên nổi loạn thì cũng chẳng phải là điều lạ lùng lắm.
Nhưng Tiến đã không chịu rơi
vào tình cảnh ấy. Năm 1975, Tiến đang là một học sinh tiểu học
thì ông đại tá cha cậu vào trại cải tạo. Tiến đã lớn lên , bên cạnh người
mẹ lúc nào cũng âu sầu với mặc cảm cay đắng và muộn phiền của một
người bị bỏ rơi. Tiến đã nghỉ học khi chưa xong bậc
trung học để ra đời, kiếm sống. Cậu công nhân cơ khí ấy đã cầm bút để viết
truyện ngắn đầu tay, gửi cho tạp chí Đất Quảng. Sau đó, cậu biến mấl khỏi Đà
Nẵng và giờ đây, cậu quay lại Đà Nẵng khi cha cậu từ
trại cải tạo trở về đầu năm 190l. Tiến có những bổn phận với người cha đã cao
tuổi cua mình.
Quả
là một niềm vui thật sự mỗi lần tôi nhận một bản thảo mới của Tiến . Tôi biết
rằng Tiến có rất ít thời giờ trống. Công việc ở một tiệm ăn nhỏ và
việc đi bỏ nước đá đã lấy của Tiến từ những giờ sớm nhất trong
ngày cho đến tận đêm khuya. Và Tiến còn phải học nữa. Tiến cần phải lấy bằng
trung học dớ eó thể học tiếp lên đại học. Tiến không muốn dừng lại, dù cuộc sống
không nuông chìu, cũng chặng hề mỉm cười với Tiến. Giờ đây, ở cách
người bạn ấy gần ngàn cây số, tôi nhận được bản thảo
mới nhất của Tiến “ Đảo của dân ngụ cư “ cùng với tin tức từ một người
bạn khác cho biết, sức khỏe của 'l'iến đang sa sút trầm trọng .
Những công việc quần quật trong cái thành phố Đà Nẵng đầy khắc
khoải ấy đã khiến phổi Tiến bị đe dọa, với những cơn sốt chiều.
Tôi hình dung gương mặt lúc nào cũng tuơi tỉnh , thanh thản của
Tiến, như thể của ột người luôn sống trong niềm vui .Và tôi tin , Tlến đúng là
như thế. Tôi sẽ chuyển về cho Tiến lời chúc mừng của rất nhiều bè
bạn ở đây, Thành phố Hồ Chí Minh, cho người đồng nghiệp mới
của chúng tôi, một người ở lứa tuồi hai mươi . Tôi muốn
Tiến cứ vững tin như từ trước đến giờ, và đi tới.
NTKC
NHÀ NGHIÊN CỨU HOÀNG THIỆU KHANG :
Một không khí rất lạ…một không gian
trống
Tôi
cảm nhận nơi "Đảo của dân ngụ cư” có một đôi mắt lạ trong cái nhin
cuộc đời, con người . Những nhân vật trong truyện, tuy là người tứ xứ (1 người
Âu , 1 người Khmer, 1 vài người Hoa đều lang bang, phiêu bạt trên con đường sinh
kế. Họ dừng chân, "ngụ cư” nơi quán của chệt Liếm để trang trải
với cái "tất yếu “ của con người và tôi hiểu, tại sao mỗi con
người ấy lại đã mang súc sống, một sức sống theo kiểu riêng của
mình, dù là họ đều sản ra một sinh lực vừa đủ cho cái sống.
Nhưng, họ - những con người mang sức sống, tuy đã hội
ngộ dưới một mái nhà - quán chệt Liếm, mà vẫn không có quan hệ gì
với nhau cả. Mỗi con người cứ đứng riêng ra trên mỗi phần việc của mình và hoàn
tất chu đáo nó. Nơi đây, tuy đã có một tụ hội mà lại không có quan
hệ xã hội - một tụ hội không có hình thái xã hội. Do vậy, họ là những cá thể cô
độc. Chỉ có một lần lão chệt Liếm thực thi quan hệ với ông Khmer
khi lão bắt được chiếc bật lửa của ông ta bỏ quên trên giường chị
Chu. Nhưng cả lần ấy, chệt Liếm chỉ tỏ bầy bằng cử chỉ . Họ
không nói với nhau một lời. Nhũng con người trong truyện không nói gì với
nhau. Cả tác phẩm không có lấy một lần đối thoại nào. Như vậy
ta bắt gặp một tụ tập người không ngôn ngữ.
Không quan hệ xã hội, không ngôn ngữ, những con người
trong truyện .cứ từng người một , từng người lầm lì đi lại trong cái hư ảo của
tác phầm. Họ là những bóng mờ, không có chân dung rõ rệt.
Làm
sao mà mỗi con người chúng ta có chân dung được khi không ở trong mối quan hệ xã
hội, bởi vì, con người hiện thực là con người kết thành bởi tổng
hòa các mối quan hệ xã hội
Không khí tác phẩm rất lạ …Tác phẩm là một không gian
trống...
Tuy
vậy, mấy con người không quan hệ xã hội này đã lần lượt cùng đến một điểm chung
: chiếc giường chị Chu - một con người bán thân bất toại. Hiện
thực tác phẩm chỉ có duy nhất một quan hệ - quan hệ giữa những
người đàn ông với một người đàn bà tật nguyền . Ẩn đằng sau cái hiện
thực tội nghiệp ấy , có một dòng bản năng hồn nhiên, tinh khôi.. Chiếc
giường chị Chu - cái điểm chung này cũng rất đỗi mong manh.
Chị Chu bị giết chết được xem như là số phận tất yếu của nhân vật
. Dân ngụ cư, từng người, từng người ra đi . Tụ tập ngụ cư tan rã
. Cái tụ tập những con người dưới quán chệt Liếm – cái tụ tập không quan hệ xã
hội, không ngôn ngữ tan rã cũng được xcm như là số phận tất yếu của một hiện
thực. Thì ra, điều kiện tự nhiên người chính là điều kiện xã hội
của nó.
“Đảo của dân ngụ cư” đúng như tên gọi của nó. Đó là
"đảo" vì nó ở ngoài cõi đất liền, ngoài xã hội. Đó là "dân ngụ cư” chỉ sống tạm
bợ, họ không có quan hệ gắn bó đích thực.
Hiện thực tác phẩm, do vậy, là một hiện thực giả định.
HTK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001