Bài phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Khắc
Nhẫn
Đài RFA (Radio
Free Asia) Washington 31/10/2007
RFA: Theo kế hoạch của cơ quan chức năng Việt Nam
thì đến 2020 nhà máy Điện Hạt Nhân (ĐHN) đầu tiên của Việt Nam được xây dựng ở
Ninh Thuận có thể đưa vào vận hành.
Lâu nay
có một chuyên gia trong lĩnh vực ĐHN, gốc Việt Nam, có ý kiến không đồng thuận
với kế hoạch Việt Nam. Vị chuyên gia này cho rằng chưa nên triển khai một nhà
máy ĐHN như thế. Đó là TS Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên Cố vấn nha kinh tế, dự báo
chiến lược EDF Paris, Giáo sư viện kinh tế chính sách năng lượng và trường Đại
học Bách khoa Grenoble ở Pháp.
Trong
chương mục khoa học và môi trường kỳ này TS Nguyễn Khắc Nhẫn nêu ra những ý kiến
của ông về vấn đề liên quan.
Có thể
nói bản thân ông Nguyễn Khắc Nhẫn là người lên tiếng mạnh mẽ nhất trong thời
gian qua, cho rằng chưa nên triển khai ĐHN ở Việt Nam. Ông đã có nhiều bài viết
phổ biến lập luận cho ý kiến đó.
Sau đây
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn lặp lại một số nguyên nhân chính vì sao chưa thể xây
dựng nhà máy ĐHN tại Việt Nam.
NKN: Từ mấy năm nay, tôi đã lên tiếng khá nhiều
không ủng hộ việc xây cất nhà máy ĐHN ở Việt Nam. Có rất nhiều lý do chính đáng,
xin phép tóm tắt như sau:
1- ĐHN không kinh tế như người ta hiểu lầm
vì trong giá thành kWh phải tính các chi phí về xử lý nhiên liệu, lưu giữ chất
thải phóng xạ, tháo gỡ nhà máy sau này, an toàn, bảo hiểm…
2- ĐHN không tăng trưởng tiềm lực khoa học
công nghiệp và hiện đại hoá đất nước như có người mơ tưởng. Trái lại nó hạn chế
tiến bộ vì nguồn tài chính khổng lồ bị ĐHN thu hút, không cho phép ta đầu tư vào
những lĩnh vực then chốt, có nhiều triển vọng hơn.
3- Với lò PWR thế hệ II, nước ta sẽ bị ràng
buộc với một công nghệ lỗi thời – lò thế hệ III thế giới còn thiếu kinh
nghiệm.
4- Chúng ta sẽ mất độc lập, tiếp tục lệ
thuộc lâu dài với ngoại quốc về thiết bị, nhiên liệu nhất là Uranium làm giàu
3,5% .
5- Viện cớ lý do thay đổi khí hậu,
nhiều nước muốn xây cất trở lại các nhà máy ĐHN nên giá Uranium đã tăng lên gấp
2, gấp 3 lần trong hai năm nay. Trữ lượng Uranium trên thế giới hiện nay chỉ đủ
để cung cấp cho 440 lò đang vận hành trong vòng vài chục năm mà thôi. Nếu nhiều
nước muốn làm ĐHN thì giá Uranium sẽ tăng vọt rất nhanh và cơn khủng hoảng
Uranium sẽ trầm trọng hơn các cơn khủng hoảng dầu mỏ. Như thế có nghĩa là ĐHN không kinh tế.
6- Điểm quan trọng khác là nước ta chưa có
đủ nhân tài, chưa có đủ chuyên viên có kinh nghiệm nhiều về ĐHN và cơ cấu công
nghiệp, hệ thống pháp lý của ta có thể nói là còn thô sơ.
7- Phát triển năng lượng bền vững sẽ gặp bế
tắc vì ĐHN không phải là một năng lượng sạch, không thể giải quyết vấn đề môi
trường. Đổi chất thải phóng xạ với CO2 chẳng khác gì như đổi Sida với
dịch tả hay dịch hạch.
8- Xây 1 lò ĐHN sẽ làm đất nước kẹt 1 thế
kỷ. Sau 50 năm vận hành phải đợi 25-50 năm trước khi tháo gỡ nhà
máy.
9- Một lý do khác mà tôi không đồng ý là vì
bên nhà đã thổi phồng nhu cầu điện lực năm 2020 (294 tỷ kWh) tức là 3 lần lớn
hơn con số đã đưa ra vào năm 2010 không thiết thực chút nào cả. Không có nước
nào có một tốc độ quá mạnh như thế. Tăng trưởng luỹ thừa 17% mỗi năm có nghĩa là
cứ 3-4 năm ta phải nhân gấp đôi tất cả các nhà máy và hệ thống điện. Ta có đủ
khả năng tài chính không? Sức người cũng có hạn. Chính sách năng lượng của ta
còn nhiều nhược điểm, thiếu khách quan, khó thuyết phục, không có độ tin cậy về
khả năng huy động vốn đầu tư trong khung cảnh toàn bộ nền kinh tế quốc
gia.
10- Lấy lý do cân bằng năng lượng một cách thô sơ
để làm ĐHN là phi lý vì tài nguyên thiên nhiên của ta còn dồi dào. Tại sao ta
không đợi các lò thế hệ IV sẽ xuất hiện vào 2030/2035 mà phải hấp
tấp.
RFA: Hẳn nhiên khi đưa ra ý
kiến chưa thể triển khai dự án ĐHN, TS Nguyễn Khắc Nhẫn cũng chỉ ra những cách
thức nhằm giải quyết bài toán năng lượng cho Việt Nam.
NKN: Trong lĩnh vực năng
lượng, tôi có cảm tưởng như chiến lược dài hạn của nước ta không hợp lý và thiếu
khách quan trước những thách đố toàn cầu. Tôi xin phép liệt kê sau đây vài biện
pháp cần thiết cho việc phát triển năng lượng bền vững của đất
nước.
1 - Quyết tâm khai thác cấp tốc và
tuyệt đối (tôi xin nhấn mạnh tuyệt đối) tất cả các nguồn năng lượng tái tạo như
thuỷ điện, sinh khối, gió, mặt trời, địa nhiệt, sóng biển…bằng cách đầu tư mạnh
mẽ vào việc nghiên cứu và ứng dụng năng lượng tái tạo. Muốn thành công, nhà nước
cần ban hành luật năng lượng tái tạo như ở Mỹ, Trung Quốc, Pháp…Ví dụ: ở Pháp
cũng như ở một số nước khác, người dân vừa có quyền sử dụng điện gió mình làm ra
vừa có thể bán điện lại cho lưới điện quốc gia với giá rất cao. Nhà nước cũng có
bổn phận khuyến khích việc chế tạo thiết bị cho nhu cầu trong nước và để xuất
khẩu. Ví dụ: nước Đức và Đan Mạch đã chiếm phần quan trọng nhất nhì trên thị
trường thế giới về tua-bin gió.
Những nguồn năng lượng tái tạo (gọi là nguồn thông lượng –
énergie de flux) tràn ngập trên vũ trụ, được tạo hoá gieo rải khắp mọi nơi cho
nhân loại sử dụng, khỏi phải tốn tiền nhiên liệu.
Thế mà trong hai thế kỷ qua, nhân loại đã đi ngược dòng,
đầu tư và tiêu thụ một cách phung phí năng lượng hoá thạch (than, dầu, khí) mà
tạo hoá đã cặm cụi gầy dựng qua hàng trăm triệu năm, tập trung và dự trữ ở một
số mỏ (énergie de stock) trên thế giới. Dầu, khí và Uranium trong vài chục năm
và than đá trong một hai thế kỷ nữa lần lượt cũng sẽ kiệt cạn.
Chỉ có năng lượng tái tạo vô tận, mới đủ điều kiện giúp
nhân loại phát triển bền vững, đồng thời chống lại hiệu ứng nhà
kính.
Năng lượng tái tạo cho phép ta sản xuất và tiêu thụ ngay
tại chỗ, ở mỗi thành phố, mỗi làng xã, mỗi căn nhà! Với chính sách năng lượng
phân cấp (énergie décentralisée) ngày nay, không nhất thiết lúc nào cũng phải
xây dựng những nhà máy đồ sộ rồi mới sản xuất, truyền tải, phân phối, qua nhiều
trạm biến thế, gây nhiều tổn thất trên hệ thống dây.
2 - Biện pháp thứ hai, theo tôi, là
tiết kiệm năng lượng mà nước ta cũng ít quan tâm đến. Đó là điều rất đáng tiếc.
Năng lượng quý báu nhất là năng lượng mà chúng ta không sử dụng. Tiết kiệm năng
lượng phải được nhà nước xem như là một nguồn năng lượng dồi dào, hết sức quan
trọng. Nếu chúng ta có một chính sách tiết kiệm dài hạn, sử dụng tối ưu năng
lượng, nâng cao hiệu suất sản xuất và tiêu thụ trên toàn lãnh thổ thì mức tổn
thất theo tôi có thể nhẹ bớt khoảng 20% - 35% là ít.
Lấy ví dụ: năm 2006, một khách sạn lớn ở thành phố Hồ Chí
Minh, sau khi áp dụng chương trình tiết kiệm điện, đã nhìn nhận có sự thất thoát
lên đến 30%. Muốn đạt kết quả tốt, nhà nước phải quyết tâm khuyến khích dân
chúng ở các thành phố lớn thay đổi thái độ trong việc tiêu thụ hàng hoá, nước và
nhất là năng lượng. Tất cả những cơ sở quốc gia và xí nghiệp công hay tư phải
xung phong làm gương cho toàn dân. Đó là một thử thách rất lớn, cần ý thức giáo
dục và tinh thần kỷ luật. Tôi được biết bộ Công nghiệp cuối năm 2006 đã ban hành
thông tư hướng dẫn thủ tục dán nhãn tiết kiệm năng lượng đối với một số sản
phẩm. Điều này đáng mừng cũng như việc thành lập những cơ quan địa phương để
quản ly chương trình tiết kiệm năng lượng.
Như thế mới có thể hạ thấp hệ số đàn hồi của Việt Nam quá
cao. Hệ số này hiện nay là 2 vì tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện lực của ta mỗi
năm lên đến 16% - 17% và tốc độ GDP là 8%-8,5%. Ở đây, cho phép tôi nhấn mạnh
một điều. Với tốc độ tăng trưởng luỹ thừa như trên, nếu chúng ta quá chú trọng
về số lượng hơn là chất lượng thì rất tai hại cho môi trường và nền kinh tế quốc
gia. Ví dụ: trường hợp Trung Quốc đang gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại lớn
cũng vì tốc độ tăng trưởng luỹ thừa quá nhanh.
Trước những thách đố của sự thay đổi khí hậu, những nước
giàu mạnh phải thay đổi lối sống. Cần có sự giản dị và tiết độ
(sobriété).
Những nước đang phát triển như ta không thể nhắm mắt chạy
theo những con đường bế tắc của các cường quốc.
Trong lúc nước ta mở rộng đường và xây cất xa lộ cho xe hơi
thì các nước giàu mạnh như Pháp thu hẹp đường sá cho xe đạp và người đi bộ. Sự
kiện này và sự bất lực của ta để giảm ùn tắc kẹt xe ở trung tâm Hà Nội hay thành
phố Hồ Chí Minh là một cơ hội để ta phân tích kỹ và đặt câu hỏi: đâu là tiến bộ
đâu là bước lùi. Rác thải trong nhà chồng chất ra ngoài đường chúng ta chưa có
đủ điều kiện, chưa có đủ tài chính để giải quyết vấn đề ô nhiễm, tại sao phải ôm
thêm chất thải phóng xạ hạt nhân nguy hiểm cho đất nước.
3 - Biện pháp thứ ba mà tôi muốn nêu
lên đã được các đồng nghiệp bên nhà nghiên cứu từ mấy năm nay. Đó là kế hoạch
nhập khẩu điện qua lưới điện liên kết các nước trong vùng, nhất là đối với Lào
có tiềm năng thuỷ điện rất lớn.
Ngoài ba biện pháp trên, nếu muốn tránh làm ĐHN, chúng ta
có thể tiếp tục xây cất những nhà máy thuỷ điện lớn nhỏ, những nhà máy điện chạy
than và khí. Chúng ta đừng quên rằng tỷ lệ điện than ở Mỹ và Trung quốc vẫn rất
cao!
Chúng ta không thể viện lý do thay đổi khí hậu, làm ĐHN
thay vì làm điện với nhiên liệu than, trong lúc đó cứ mười ngày Trung quốc xây
dựng thêm một nhà máy vài trăm MW chạy than.
Theo cơ quan đánh giá môi trường Hà Lan, trong năm 2006,
Trung quốc đã trở thành quốc gia phát thải CO2 nhiều nhất thế giới,
hơn cả Mỹ, châu Âu, Nga, Ấn Độ và Nhật Bản.
Ô nhiễm môi trường vì CO2 trên thế giới cũng như ở nước ta do lĩnh vực vận tải
(transport) trầm trọng hơn cả chứ không phải chỉ do các nhà máy chạy than, khí
hay dầu.
RFA: Đánh giá về các nguồn
năng lượng tái tạo đang có ở Việt Nam.
NKN: Việt Nam là một trong
những nước được tạo hoá ưu đãi về những nguồn năng lượng hoá thạch (than, dầu,
khí) cũng như năng lượng tái tạo (thuỷ điện, mặt trời, gió, sinh khối, địa
nhiệt, sóng biển…)
Tài nguyên thiên nhiên của chúng ta thừa đủ để cung cấp nhu
cầu trong vài chục năm nữa. Chúng ta có đủ thì giờ chờ đợi xem xét mức an toàn
và việc xử lý chất thải phóng xạ của những lò thế hệ IV sẽ xuất hiện vào năm
2030-2035.
Về thuỷ điện, chúng ta chỉ mới khai thác được hơn 20% tiềm
năng kinh tế khá lớn 85 tỷ kWh.
Việt Nam được đánh giá có tiềm năng phát triển điện gió cao
nhờ địa lý dọc theo bờ biển dài cũng như tốc độ gió cao đáng
kể.
Vài con số sau đây để ta thấy tầm quan trọng:
Hải đảo xa bờ: 2700 - 4500 kWh/m2 .
năm
Hải đảo gần bờ: 1700 – 4200 kWh/m2 .
năm
Trong đất liền: 400 – 3000 kWh/m2 .
năm
Con số 200 – 500 MW do công ty Điện lực Việt Nam đưa ra quá
thấp so với tiềm năng điện gió thật sự của ta.
Trong lĩnh vực điện gió chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm quý
báu của các nước như Đức, Tây Ban Nha, Mỹ, Đan Mạch.
Nếu tôi không lầm thì dự án nhà máy điện gió lớn nhất của ta
được xây dựng ở gần thành phố Quy Nhơn – Bình Định. Tôi rất mừng vì đó là nơi
tôi sinh trưởng.
Về năng lượng mặt trời (cũng như năng lượng gió và địa nhiệt)
chúng ta chưa nghiên cứu kỹ tiềm năng.
Các con số bình quân sau đây do cơ quan trách nhiệm của ta
đưa ra có vẻ phủ nhận triển vọng lớn của năng lượng mặt trời trên lãnh thổ: 150
kcal/cm2. năm với 2000 – 2500 g/năm
Bài học của Nhật và Úc trong lĩnh vực này sẽ giúp ích ta rất
nhiều.
Con số đưa ra về tiềm năng địa nhiệt của ta tương đối còn
thấp, chỉ vài trăm MW, tuy nước ta có trên 300 suối nước nóng từ 30° đến
105°C.
Cũng như phần lớn các nước đang phát triển năng lượng sinh
khối (biomasse) được khai thác lâu năm ở Việt Nam, đáng tiếc là nhiều nơi khai
thác quá mức độ. Vẫn còn nạn cây củi rừng bị phá huỷ hỗn độn tai hại cho môi
trường. Nước ta có nhiều kinh nghiệm về sản xuất năng lượng từ chất thải chăn
nuôi. Theo tờ Et news của Enerteam thành phố Hồ Chí Minh, muốn có 1m3
gaz/ ngày phải cần 20 kg phân heo / ngày, ứng với thời gian ủ là 40
ngày.
Như các bạn thính giả biết, biogaz có thể phát điện hoặc cung
cấp năng lượng nhiệt. Ví dụ: mỗi m3 biogaz cho phép nấu 3 buổi cơm
cho 1 gia đình 4 người. Mỗi m3 biogaz cũng có thể sản xuất 1,7 – 2
kWh điện với một động cơ có hiệu suất 30%.
Về việc chế tạo nhiên liệu sinh khí (biocarburant) cho xe hơi
chúng ta phải cân nhắc kỹ. Một giải thưởng Nobel về hoá học vừa cho biết nhiên
liệu sinh khí không đóng góp trong việc giải quyết vấn đề thay đổi khí hậu.
RFA: Trong trường hợp Việt
Nam vẫn triển khai xây dựng nhà máy ĐHN tại Ninh Thuận thì cách gì để giảm thiểu
các hạn chế mà giáo sư nêu ra?
NKN: Câu hỏi này của anh khó
trả lời. Nếu vì vấn đề chính trị và uy tín mà nước ta phải có ĐHN thì tôi vô
cùng thất vọng và rất lo sợ cho quê hương, cho những thế hệ con cháu sau này vì
ĐHN không kinh tế và vô cùng nguy hiểm.
Trong 4 năm nay tôi đã bỏ nhiều thì giờ, tham dự các hội nghị
năng lượng, nghiên cứu kỹ hồ sơ ĐHN, viết hàng loạt bài để trình bày quan điểm
của tôi, dựa trên hiểu biết của mấy chục năm hành nghề ở EDF và Đại học
Grenoble.
Lẽ cố nhiên vì nhiệt tình đối với đất nước, tôi sẽ không từ
chối tiếp tục lưu ý các đồng nghiệp bên nhà về khâu an toàn và khâu đào tạo.
Theo tôi, tập đoàn Areva và tập đoàn EDF giàu kinh nghiệm nhất thế giới có đủ
khả năng để hợp tác chặt chẽ với ta trong hai lĩnh vực then chốt nêu
trên.
Chúng ta phải thẩn trọng trong việc thương lượng mua lò và
máy móc, ký kết hợp đồng với các công ty quốc tế, đừng để họ lợi dụng thế yếu
của chúng ta (thiếu chuyên gia) ru ngủ và tấn công vô lễ.
Trở lại vấn đề an toàn, trong nước giáo sư Phạm Duy Hiển cũng
đã nhiều lần tỏ ý lo ngại về sự thiếu kỷ luật, pháp lý, tinh thần trách nhiệm, ý
thức tổ chức quản lý của ta. Giáo sư đã nói một công trình như cầu nếu có lãng
phí tham nhũng bị sập đổ, có thể xây mới lại. Nhưng đối với nhà máy ĐHN thì vô
cùng nguy hiểm!
RFA: Đóng góp của Giáo sư lâu
nay cho đất nước và mức độ lắng nghe từ phía các cơ quan chức
năng.
NKN: Đóng góp của tôi về tâm
trí, nhiệt tình thì nhiều nhưng đó chỉ là một hạt cát trên bể rộng mênh mông của
đất nước.
Tôi đã có dịp trao tặng tận tay cái CD gồm 17 bài tôi viết
và được phỏng vấn về ĐHN từ 2003, cho các vị lãnh đạo cao cấp nhất sang thăm
viếng châu Âu hoặc Pháp. Nhưng các vị ấy có thì giờ để đọc, nghe hay suy ngẫm về
những thắc mắc khách quan của tôi hay không thì chỉ có Trời Phật biết. Tôi xin
cám ơn anh đã dùng chữ mức độ lắng nghe, quá nhã nhặn và lễ phép đối với tôi.
Xin anh hỏi thẳng các cơ quan chức năng bên nhà thì biết có ai chịu khó đọc các
bài của tôi không?
Điều quan trọng là tôi làm tròn bổn phận đối với xứ sở. Tôi
vẫn tin tưởng rằng với thời gian bên nhà sẽ cho tôi có lý.
Từ nay đến hết 2020, bao nhiêu biến chuyển có thể làm lung
lay độ tin cậy của chính phủ Việt Nam đối với công nghiệp hạt nhân, một công
nghiệp càng đồ sộ, càng hết sức mỏng manh.
Đối với tôi làm ĐHN, nước ta đi lùi 50 năm chứ không phải
đi tới như có người hiểu lầm.
Tại sao chúng ta không suy ngẫm về bài học của nước Đức.
Với một nền khoa học và công nghệ hàng đầu thế giới, lý do gì mà nước Đức đột
ngột hy sinh hàng trăm tỷ đôla mạnh dạn chuyển hướng, sẽ chấm dứt sản xuất ĐHN
năm 2020?
Chiến lược khai thác triệt để năng lượng tái tạo của Đức đã
thành công mỹ mãn. Chỉ trong vòng 10 năm, Đức đã có 20 000 MW điện gió (tương
đương với công suất 20 lò ĐHN, tuy không chạy liên tục được) và rồi đây Đức cũng
sẽ dẫn đầu trong lĩnh vực năng lượng mặt trời.
Tôi rất tiếc là sau cuộc thăm viếng ở nước ta của TS
Hermann Scheer, nghị sĩ quốc hội Đức và Chủ tịch uỷ ban quốc tế về năng lượng
tái tạo, và sau buổi giao lưu trực tuyến ngày 15/06/2006 của TS với GS Phạm Duy
Hiển, chủ tịch Hội đồng Khoa học cục kiểm soát và an toàn bức xạ hạt nhân, các
cơ quan chức năng của ta vẫn không thay đổi lập trường đối với khả năng và sự
ích lợi của năng lượng tái tạo mà tiếp tục đề cao vai trò của
ĐHN.
Một giải Nobel mở rộng về năng lượng, có nhiều uy tín như
TS Hermann Scheer, mà không thuyết phục được chính phủ Việt Nam thì tôi cũng
không biết làm gì hơn?
Giáo
sư Nguyễn Khắc Nhẫn trả lời những câu hỏi của thính giả
Grenoble,
7-11-2007
1 - Giải thưởng Nobel về Hoá học
năm 1995 là giáo sư Paul Crutzen thuộc viện Hoá học Max-Planck của Đức. Trong
tạp chí Atmospheric Chemistry and Physics Discussions, GS Crutzen và các cộng
tác viên vừa cho biết là việc sản xuất từ nông nghiệp 1 lít nhiên liệu có thể
phát thải 2 lần nhiều hơn khí hiệu ứng nhà kính so với sự đốt cháy 1 lít nhiên
liệu hoá thạch. N2O do nông nghiệp cấp tốc có tác
động 296 lần lớn hơn CO2 về khí nhà kính. Riêng
cây mía thì có ích cho việc de phòng chống thay đổi khí hậu. GS cho rằng vấn đề
thiếu lương thực có thể làm cản trở các chương trình phát triển sinh
khí.
2 – Tôi được biết Công ty Petro
Setco có lập dự án xây cất một nhà máy sản xuất Ethanol quy mô lớn tại Bình
Định. Petro Setco hy vọng rằng với lợi thế vị trí, nơi đây sẽ là trung tâm nhiên
liệu xanh Việt Nam . Trong gian
đoạn đầu, hình như tập đoàn nước Anh Bronzeoak có ý định đầu tư 100 triệu đôla
để xây dựng một nhà máy có thể sản xuất mỗi năm 100 triệu lít
Ethanol.
3 – TS Nguyễn Thanh Sơn, Giám đốc
dự án khí sinh học vừa qua đã nhận giải Oscar về môi trường cho Việt Nam. Với sự
hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Hà Lan, dự án bắt đầu triển khai tại 12 tỉnh từ
2003 do Cục chăn nuôi thực hiện. Chương trình cung cấp năng lượng cho 27000 hộ
nông dân đã làm giảm lượng phân hoá học và ô nhiễm môi trường. Đó là một thành
tích cần được khuyến khích.
4 – Sau đây là cơ cấu tiêu thụ
điện năng ở nước ta trong năm 2005:
Công nghiệp và xây
dựng: 45,8%
Hộ tiêu dùng:
44,2%
Thương mại:
4,4%
Nông lâm ngư nghiệp:
1,4%
Trung bình mỗi người
dân Việt Nam tiêu thụ trong năm 2005: 550 kWh.
Trong tương lai, tỷ lệ
công nghiệp sẽ vút cao (tăng trưởng kinh tế) và tỷ lệ hộ tiêu dùng sẽ hạ thấp
(hiện tượng bão hoà). Cần có chương trình tiết kiệm năng lượng dài hạn cho 2
lĩnh vực này.
5 - Số tấn (tonne) CO2
gây ra hằng năm qua sự tiêu thụ năng lượng:
Pháp:
6,3
Âu châu:
8,5
Đức:
10
Mỹ:
19,7
6 - Tỷ lệ trách nhiệm về khí nhà
kính ở Pháp:
Nông nghiệp - rừng:
28%
Vận tải:
21%
Nhà cửa:
20%
Công nghiệp:
19%
Năng lượng:
10%
Các ngành khác:
2%
7 - Tỷ lệ nhiên liệu đốt sưởi
(chauffage) ở Pháp:
Khí:
38%
Điện:
28%
Dầu:
20%
Phần còn lại là than
và các nhiên liệu khác.
8 – Nhà máy Điện hạt nhân lớn nhất
của Nhật và cả thế giới (7 lò với công suất tổng cộng là 8212 MW)
Kashiwazaki-Kariwa của tập đoàn Tepco bị chính phủ cấm vận hành trong vòng 1 năm
trời sau cuộc động đất lớn (6,8 thang độ Richter) ngày 16 tháng 7 vừa qua. Hình
như tâm động đất (epicentre) ở khá gần nhà máy! Nhà máy này ở cách Tokyo 250 km
về phía nam, cũng đã bị đóng cửa trong 40 ngày năm 2003 để được kiểm tra về kỹ
thuật. Có 438 thùng có chất nguy hiểm bị đổ trục và 1200 lít nước có phóng xạ bị
thải ra. Theo chuyên gia Katsuhiko Ishibashi của đại học Kobe, một nhà máy ĐHN
phải có khả năng chống lại một cuộc động đất (7,3 thang độ Richter) với mức tăng
tốc độ (acceleration) là 1000 gal (1gal = 1cm/s2). Mức tăng tốc độ trong biến cố vừa qua lên đến 993 gal. Sau khi các lò
tự động ngưng vận hành, lẽ cố nhiên nhà máy vẫn còn cần hệ thống nước làm lạnh
(circuit de refroidissement) vì công suất sót lại (puissance résiduelle). Ví dụ
nhà máy ĐHN Civaux của Pháp với công suất nhiệt 4250 MW nếu bị ngưng vận hành
cấp tốc (arrêt d’urgence) vẫn còn công suất sót lại là 116 MW trong vòng 5 phút
và 24 MW qua ngày sau!
9 – Nhà máy mà Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng vừa thăm viếng ở Pháp cuối tháng 9 vừa qua là nhà máy Nogent sur Seine
cách Paris 80 km về phía Nam. Trong thời gian phục vụ ở EDF tôi có dịp làm bài
toán kinh tế tính giá thành kWh của nhà máy này gồm 2 lò 1300 MW. Giá đầu tư mỗi
kW lúc bấy giờ tương đối còn rẻ: 8225 MF (F 1989) trong đó chỉ 1% dành cho chi
phí tháo gỡ, con số quá lạc quan!
10 – Vâng, trong một bài viết tôi
nhìn nhận có nói là rồi đây Việt Nam sẽ thừa điện lúc nào mà không biết! Điều ấy
có thể xảy ra vì chúng ta hấp tấp xây cất nhà máy điện để các xí nghiệp ngoại
quốc đầu tư, lợi dụng nhân công giỏi và rẻ tiền của đất nước. Nếu có cuộc khủng
hoảng kinh tế hay xí nghiệp bị phá sản họ bỏ ra đi thì nhà máy điện sẽ nằm nghỉ
dưỡng lão! Tại sao chúng ta phải làm ĐHN cho họ? Việt Nam đâu có phải là một
thùng rác (poubelle) thải phóng xạ quốc tế?
Nếu cứ chạy theo nhu
cầu điện lực để thoả mãn xí nghiệp ngoại quốc với tốc độ tăng trưởng luỹ thừa
17% hay 20% mỗi năm thì chỉ trong vòng 20 năm nữa (2027) tổng sản lượng điện của
nước ta sẽ vượt qua con số của Pháp hiện nay (500 tỷ kWh) .
Về những câu hỏi khác,
tôi xin mời các bạn thính giả chịu khó xem trên mạng: http://tailieu.tapchithoidai. org
hay www.caodangdienhoc. org
(nguồn www.viet-studies.info)
Nhất định VN không cần điện nguyên tử.
Trả lờiXóa