Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012

1070. NGUY CƠ XUNG ĐỘT TIỀM ẨN Ở TÂY TẠNG
Posted by basamnews on 09/06/2012
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

NGUY CƠ XUNG ĐỘT TIỀM ẨN Ở TÂY TẠNG

Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ sáu, ngày 8/6/2012
TTXVN (Angiê 4/6)
Chính sách đồng hóa không khả thi
Vào thời kỳ đảo lộn xã hội và kinh tế diễn ra nhanh chóng, ngoài những mâu thuẫn trong phát triển, Trung Quốc còn phải tìm cách thích ứng với sự đa dạng sắc tộc trong chính dân tộc mình. Tại phương Tây, người ta cảm nhận được tầm quan trọng mà Bộ chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc dành cho vấn đề hội nhập của các cộng đồng ngoại lai tản mác. Nhưng chuyên gia các vấn đề quốc tế Francis Dahou của tạp chí “Tin Trung Hoa” cho rằng Bắc Kinh vẫn không ý thức được vấn đề sắc tộc có tầm quan trọng như thế nào đối với họ về phương diện chính trị.

Tây Tạng và Tân Cương hiện đang là chủ đề thời sự với các vụ tự thiêu liên tiếp xảy ra do không thấu hiểu về văn hóa và tôn giáo, trong bối cảnh người Hán tự cho mình là người kế tục lịch sử xuyên suốt. Cội rễ văn hóa đó có từ thời các triều đại Hạ, Thương và Chu cổ xưa – từ năm 2200 đến năm 481 trước Công nguyên – đến Khổng Tử, rồi Đế chế Tần đầu tiên đã đặt tên cho nước Trung Quốc ngày nay, sau đó là nhà Hán – đế chế đầu tiên tiến hành bành trướng ở châu Á.
Nhưng cũng có nhiều sắc tộc thiểu số khác nói các thứ tiếng khác nhau và lấy chuẩn mực từ các truyền thống lịch sử và văn hóa khác. Các thiểu số người này chỉ chiếm khoảng 7% dân số Trung Quốc, một tỷ lệ không lớn nhưng có số người cũng gần bằng dân số Pháp và Tây Ban Nha cộng lại. Hơn nữa, các thiểu số người đó chiếm tới gần 50% số dân sống trên một số vùng lãnh thổ rộng hơn 1/2 diện tích Trung Quốc.
Các không gian sinh sống của các sắc tộc thiểu số khác nhau chạy từ tỉnh Tân Cương, giáp với vùng Trung Á và giàu nguồn năng lượng và khoáng sản, đến vùng cao nguyên rộng lớn Tây Tạng bao gồm không chỉ tỉnh tự trị mà cả vùng Thanh Hải và các vùng có đa số dân là người Tây Tạng sinh sống hiện đã bị thôn tính thuộc các tỉnh Cam Túc và Tứ Xuyên, ở phía Tây-Nam, những thiểu số người này sống rải rác tới tận vùng giáp với Vân Nam và Quảng Tây liền kề với tỉnh Quảng Đông. Ba tỉnh này có tới hơn 40 triệu người không phải người Hán mà thuộc các thiểu số người còn ít được biết đến ở ngoài Trung Quốc, là Naxi, Di và Thái.
Vào thời kỳ lộn xộn, cũng không phải xa lắm, do kình địch giữa các thủ lĩnh chiến tranh, từng mảng lãnh thổ của Trung Quốc bị kiểm soát bởi các thủ lĩnh phe phái có khi không thuộc dân tộc Hán chiếm đa số. Trong bối cảnh chính trị và văn hóa trong đó khả năng bảo đảm có được sự thống nhất tập trung của cả nước vẫn là một trong những yếu tố đánh dấu tính hợp pháp của chính quyền, thực tế sắc tộc – vấn đề mà Đảng cộng sản Trung Quốc luôn ghi nhớ – là lý do khiến các nhà lãnh đạo nước này lo ngại trước nguy cơ làn sóng ly khai lan rộng, đồng thời thúc đẩy họ quyết tâm đè bẹp làn sóng đó mà không chùn tay.
Trong lịch sử gần đây, lời giải đáp cho các mối đe dọa chia rẽ có nguồn gốc sắc tộc không còn như trước. Vào giữa những năm 1980, Hồ Diệu Bang, lúc đó là Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, nổi lên với những ý tưởng rất không phù hợp với trào lưu lúc đó về vấn đề Tây Tạng. Ông ra lệnh giảm bớt số viên chức người Hán làm việc ở tỉnh này và buộc những người ở lại công tác phải học tiếng Tây Tạng. Đối với vị cựu Tổng bí thư theo khuynh hướng tự do này, muốn cải thiện tình hình ở Tây Tạng trước hết phải tăng ngân sách dành cho tỉnh này, cải thiện điều kiện giáo dục và, đặc biệt là phải đổi mới văn hóa Tây Tạng.
Một số chiến lược được thực hiện đối với các tỉnh có đông dân từ bên ngoài đến, chủ yếu là Tây Tạng và Tân Cương, hai vùng mang đậm dấu ấn văn hóa và tôn giáo riêng, cũng là nơi liên tiếp nổ ra bạo loạn trong thời gian gần đây. Nhưng từ khi Hồ Diệu Bang bị phế truất vào năm 1987, các chính sách này chỉ dựa trên hai trụ cột chính là dùng cảnh sát để kiềm soát và đàn áp khốc liệt các nhân vật ly khai, cộng với phát triển kinh tế-xã hội. Chính sách thứ hai được hỗ trợ bằng một chính sách khác là ồ ạt đưa dân từ nơi khác đến. Tất cả đều nằm trong chiến lược phát triển miền Tây, với một trong những hệ quả là dần dần đảo ngược cán cân sắc tộc.
Khái niệm này không phải không có lôgích, vì đó là bảo đảm cho chính sách “Hán hóa” từng bước, được củng cố bằng việc ồ ạt đưa người Hán đến định cư, đồng thời được hỗ trợ bằng những tiến bộ về vật chất và xã hội, cộng với sự cộng tác của giới tinh hoa địa phương khi họ có thể được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo trong tỉnh để đổi lấy việc phải trung thành với Đảng.
Phải nói rằng ở Tây Tạng, chiến lược này cho đến nay không mang lại kết quả mong muốn. Trong khi Trần Toàn Quốc, người đứng đầu Đảng bộ Lhasa, cam kết tiến hành “cuộc chiến chống phá hoại mang tính ly khai”, ít nhất cũng có thể nói rằng lòng tin giữa một bộ phận lớn trong dân chúng ở Tây Tạng và Chính quyền trung ương Bắc Kinh, đã không còn. Từ một năm nay, ít nhất 23 người – nhà tu hành hay thành viên xã hội dân sự – đã tự thiêu và phần lớn trong số đó đã chết.
Nhiều người Tây Tạng không ủng hộ hành động tự thiêu mà họ cho là quá khích hay thiếu suy nghĩ và áp lực của chính quyền khiến nhiều nhà tu hành mất hy vọng. Một số khác không phủ nhận chính sách của Bắc Kinh mang lại điều tốt lành cho dân chúng ở vùng cao nguyên này. Nhưng không phải vì thế mà giới tu hành không bị cảnh sát và cán bộ địa phương hành hạ và hiện dường như bị dồn đến chỗ tuyệt vọng cùng cực. Sau vụ nổi loạn ở Lhasa năm 2008, Vương Lực Hùng, nhà văn li khai, cáo buộc Đảng cộng san Trung Quốc gây ra mối đe dọa chết người đối với Phật giáo dòng Đạtlai Lạtma”.
Mới đây, Chính quyền Trung Quốc do sợ bạo loạn bùng nổ đã ép buộc hàng trăm nhà tu chuyển đi nơi khác trong khi các hiệp hội ủng hộ Tây Tạng cáo buộc cảnh sát bắn chết hai người dân Tây Tạng và làm bị thương một chục người khác trong một cuộc biểu tình ở huyện tự trị Seda vào ngày 24/1. Chính quyền địa phương nói họ phản ứng trước hành động xâm phạm nhằm vào các đồn cảnh sát. Đó là điều không thể không xảy ra trong tình hình ngày càng căng thẳng và nặng nề do cảnh sát kiểm soát nghiêm ngặt và có thể lại nổ ra sự kiện như hồi tháng 3/2008 tại Lhasa khi người Tây Tạng nổi dậy tấn công người Hán.
Thủ lĩnh tinh thần của người Tây Tạng, Đạtlai Lạtma, nhân vật thường bị Chính quyền Bắc Kinh nghi ngờ gây ra các vụ lộn xộn ở Tây Tạng, cáo buộc Bắc Kinh tiến hành “diệt chủng văn hóa” và qua đó khẳng định chính sách đàn áp của Chính quyền Bắc Kinh là nguyên nhân gây ra tình hình trên. Ông cho rằng có tới 400 người Tây Tạng bị chết trong các cuộc đàn áp và hơn 2.000 người khác bị bắt sau các vụ bạo loạn.
Bắc Kinh bác bỏ lời cáo buộc trên và nhấn mạnh rằng những gì chính quyền thực hiện ở Tây Tạng đã nâng cao đáng kể mức sống của dân chúng. Bắc Kinh cũng nhắc lại rằng năm 1951, chính Đạtlai Lạtma đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Tạng, về phần mình, Đạtlai Lạtma thường xuyên bác bỏ việc Bắc Kinh cáo buộc ông đòi độc lập và yêu cầu Bắc Kinh tôn trọng lời hứa cho Tây Tạng tự trị ký năm 1951.
Vấn đề ở đây là rạn nứt về vãn hóa và không hiểu nhau là có thực và trở thành yếu tố rất nhạy cảm đối với Đảng cộng sản Trung Quốc. Bởi lẽ trong vấn đề Tân Cương, hình ảnh của Đảng bị xấu đi do không tin đạo Hồi, trong khi Tây Tạng, theo dư luận phương Tây, lại cho thấy hình ảnh tích cực và điềm tĩnh của một tôn giáo có một trong những đặc tính là chủ trương kiểm soát thể lực và tinh thần bằng thiền.
Có người nói rằng phương Tây ủng hộ Tây Tạng quá mức, rằng Đảng cộng sản đã đưa vùng cao nguyên này khỏi tình trạng lạc hậu như thời Trung cổ và khỏi một xã hội phong kiến bị các nhà tu hành nô dịch và bị xáo động bởi tình trạng kình địch chết người giữa các giáo phái, rằng số tiền đầu tư khổng lồ mà Bắc Kinh rót vào đây đã thúc đẩy nhanh quá trình xóa nạn mù chữ, mở rộng diện bảo hiểm y tế và đưa một bộ phận dân chúng thoát khỏi nghèo khổ. Những người này đã không lầm.
Nhưng bộ máy “Hán hóa” mà người Tây Tạng coi là cách để buộc xã hội Tây Tạng phải tuân thủ “chuẩn mực Trung Hoa”, đang bị trục trặc. Cú sốc giữa các lối sống và các nền văn hóa mạnh đến mức tuy có được tiên bộ không thể phủ nhận trong phát triển theo kiểu Trung Hoa, song tâm lý tức giận bộc lộ trong bối cảnh cơ chế phối hợp và đối thoại, đáng lẽ phải cho phép “kiểm soát” được sự khác biệt, bất đồng và hành động xâm hại, lại hoạt động rất không trơn tru.
Mặc dù Bắc Kinh nỗ lực xóa bỏ nạn mù chữ, cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe của dân chúng ở Tây Tạng và đưa họ vào tiến trình phát triển, họ vẫn coi chính sách của chính quyền trung ương là nhằm buộc họ phải tuân thủ “chuẩn mực Trung Hoa”. Đối với các tổ chức hoạt động vì Tây Tạng tự do, chuẩn mực Trung Hoa càng không thể chấp nhận được vì từ năm 2006, tuyến đường sắt cao nhất thế giới hoàn thành và chạy từ Bắc Kinh qua Tây Ninh và Golmud đến Lhasa chỉ mất 48 tiếng đồng hồ, là yếu tố gia tăng sự di cư của người Hán đến vùng này. Theo Đạtlai Lạtma, tỷ lệ người Hán ở Tây Tạng có thể lên quá 50% dân số vùng này.
Hiệu quả của cơ chế đó, trên thực tế, còn bị hủy hoại bởi sự nghi ngại từ cả hai phía, bởi những ý định không rõ ràng, bởi nỗi sợ làn sóng ly khai lan rộng, bởi lập trường cố hữu, trong đó tồi tệ nhất là quan điểm cho rằng Đạtlai Lạtma là một nhân vật ly khai nguy hiểm trong khi ông chỉ đòi tôn trọng thỏa thuận 17 điểm được ông ký với Mao Trạch Đông vào năm 1951.
Về tương lai của Tây Tạng, người ta không thể không nhận thấy sự khác biệt sâu sắc giữa quan điểm của Bắc Kinh và chính phủ Tây Tạng lưu vong. Đồ Thanh Lâm, Chủ tịch ủy ban Mặt trận thống nhất thuộc Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, từng nhắc lại sự khác biệt này khi nói rằng vấn đề ở đây “không phải là làm cho Luật cơ bản đi trệch hướng”. Theo ông, “ý tưởng về một vùng ‘Đại Tây Tạng’ và ‘quyền tự trị rộng rãi’ là trái ngược với Hiến pháp và chỉ có thể mở lại thương lượng nếu Đạtlai Lạtma bỏ hoàn toàn các ý tưởng đó”.
Thực tế là không dễ hàn gắn được rạn nứt sâu sắc giữa một bên là người Hán, vốn là những nông dân kém hiểu biết sống ở vùng đồng bằng, và bên kia là người Tây Tạng, Vốn là người du mục sống ở vùng núi cao và, ở các vùng nông thôn, dành tới 60% thời gian cho mối quan hệ với tu viện. Cuộc sống nặng về tâm linh như vậy, theo một số nhà quan sát có thể là tàn dư của quá khứ, không có chỗ đứng ở Trung Quốc, nơi chủ nghĩa thực dụng của người Hán bó chặt trong đạo Khổng cứng nhắc, thắng thế và ca ngợi ban lãnh đạo chính trị trung ương cũng như chính sách hiện đại hóa về phương diện vật chất. Lòng sùng đạo Phật và đạo Thiên chúa hồi sinh ở Trung Quốc, nhưng bị chính quyền kiểm soát chặt chẽ và theo dõi các tín đồ.
Làn sóng tự thiêu đòi tự trị
Hai nhà sư Tây Tạng vừa tự thiêu trước đền Jokhang tại Lhasa thuộc vùng Tây Tạng. Lực lượng an ninh Trung Quốc đã nhanh chóng đưa hai nhà sư đi nơi khác và dọn sạch địa điểm này. Đây là vụ tự thiêu đầu tiên xảy ra ngay trên vùng đất Tây Tạng, các vụ trước đây đều xảy ra ở các tỉnh khác, chẳng hạn như Tứ Xuyên. Theo ông Pierre Haski, nhà phân tích của tạp chí “Tin Trung Hoa”, làn sóng tự thiêu để phản kháng chính quyền từ Thiên An Môn đã lan đến Tây Tạng và các vụ tự thiêu nối tiếp nhau và hình ảnh về các sự kiện này để lại những dấu ấn mà Chính quyền Bắc Kinh không thể xóa được.
Ngày 21/10/2011, một người Trung Quốc tự thiêu tại quảng trường Thiên An Môn, trước bức chân dung Mao Trạch Đông khổng lồ. Một du khách Anh chụp được ảnh và bức ảnh này được đăng trên tờ “Daily Telegraph of London”. Wang, tên người đàn ông tự thiêu, muốn bằng hành động tuyệt vọng của mình phản đối bản án dân sự mà ông phải là “nạn nhân”. Nhưng đối với Bắc Kinh, vụ này “không có gì là chính trị”. Vụ việc xảy ra ở ngay giữa Bắc Kinh, nhưng phải 26 ngày sau mới được công bố. Từ 10 năm nay, đây là vụ tự thiêu đầu tiên tại nơi được coi là biểu tượng của Trung Quốc và cũng là nơi diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng của nước này. Cách đây 10 năm, hai thành viên Pháp luân công đã chết sau khi tự thiêu tại đây để phản đối đàn áp đối với giáo phái này. Từ đó đến nay, quảng trường Thiên An Môn được canh gác cẩn mật hơn.
Cũng vào cuối năm 2011, một phụ nữ 81 tuổi đã chết vì tự thiêu tại tỉnh Hà Nam, miền Trung Trung Quốc, để phản đối chính quyền dỡ nhà mình. Một số khác cũng hành động tương tự để phản đối chính quyền. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến người dân bất bình ở trong nước.
Nhưng ở Tây Tạng, làn sóng tự thiêu để phản kháng diễn ra ở quy mô lớn hơn. Trong năm 2011, xảy ra 11 vụ, chủ yếu là các nhà tu hành, để phản đối sự chiếm đóng của Chính quyền Bắc Kinh. Theo các hãng tin phương Tây, từ tháng 3/2011 đến nay, ít nhất 34 nhà tu hành Tây Tạng tự thiêu. Phần lớn trong số họ chỉ dưới 20 tuổi và 13 người trong số đó đã chết.
Từ tháng Giêng đến nay, tình hình ở Tây Tạng ngày càng xấu đi giữa dân chúng và chính phủ. Ngày 3/2, tại huyện sắc Đạt, phía Tây tỉnh Tứ Xuyên, vụ tự thiêu của 3 mục đồng tạo thêm áp lực đối với bắc Kinh. Một trong số đó chết, còn hai người bị thương nặng, sắc Đạt nằm ở vùng núi giáp với Tây Tạng, từ tháng Giêng nổ ra cuộc đối đầu giữa người biểu tình Tây Tạng và cảnh sát. Theo các tổ chức ủng hộ Tây Tạng, 7 người biểu tình chết và hàng chục người khác bị thương. Nhưng hãng thông tấn Nhà nước Tân Hoa Xã khẳng định chỉ có một người chết khi cảnh sát có hành động phòng vệ chính đáng trước những người biểu tình.
Bắc Kinh định phong tỏa thông tin tù; Tây Tạng và các vùng có người Tây Tạng sinh sống. Internet và điện thoại gần như bị cắt. Mọi con đường dẫn đến các vùng có biểu tỉnh ở Tứ Xuyên, Tây Tạng và các vùng khác có người Tây Tạng sinh sống, đều bị cảnh sát lập trạm kiểm soát chặn lại. Báo chí cũng không được phép đến đây. Tuy nhiên, cũng có lúc Bắc Kinh buộc phải nhượng bộ và đưa ra một số lời giải thích. Tuy chậm hai hoặc ba ngày, song những điều được Bắc Kinh nói ra khẳng định biểu tình là có thật và chính thức thừa nhận có người chết.
Điều quan trọng, theo bà Prancoise Pommeret, nhà Tây Tạng học và Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), là xác định bối cảnh diễn ra các sự kiện đó mới hiểu được những gì thực sự đang diễn ra hiện nay. Các cuộc biểu tình tuyệt vọng này chủ yếu nổ ra ở các tỉnh có người Tây Tạng sinh sống. Phần đông dân chúng Tây Tạng coi vùng đất của họ thuộc “Đại Tây Tạng” chiếm tới 25% diện tích của Trung Quốc. Các vùng thuộc huyện Aba và tu viện Kitri ở Tứ Xuyên, nơi xảy ra 8 trong tổng số 11 vụ tự thiêu, bị canh sát kiểm soát ngặt nghèo khiến giới tu sĩ trở lại phản kháng từ ba năm nay.
Đối với Bắc Kinh, các vụ tự thiêu và các cuộc biểu tình là sự lăng nhục đối với chính quyền và đàn áp khốc liệt. Theo nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế, 300 nhà tu thuộc tu viện Kitri hiện không có tin tức gì, có thể đã bị chính quyền cầm tù. Để người phản kháng không có cơ hội tập họp nhau lại, Chính quyền Bắc Kinh ra lệnh thật hạn chế đi lại giữa các vùng khác nhau của Tây Tạng, khiến nhiều vùng bị cô lập như ở Thạch Cừ hay Lhasa. Ngoài vấn đề thiếu quyền tự do văn hóa và tôn giáo, những người biểu tình còn tố cáo các ‘”chiến dịch cải huấn” do chính quyền tiến hành. Các nhà tu hành buộc phải tuyên bố công khai từ bỏ Đạtlai Lạtma và khẳng định trung thành với Trung Quốc do bị uy hiếp và đe dọa. Các “nhóm công tác” của chính quyền thường xuyên đến các tu viện để tìm kiếm và phát hiện dấu hiệu của tâm lý bất bình. Khu nhà ngủ của các tu sĩ thường xuyên bị lục soát. Những người phản đối có thể bị hành hung, thậm chí bị giết. Từ năm 2007, người Tây Tạng không được phép làm hướng dẫn viên cho du khách nước ngoài. Chính phủ Trung Quốc thậm chí còn quyết định không cho phép du khách nước ngoài đến vùng tự trị Tây Tạng cho đến cuối tháng Ba vừa rồi. Các biện pháp này cho thấy Chính quyền Bắc Kinh phần nào nóng vội.
Nhiều vụ tự thiêu xảy ra trong khi tự vẫn về nguyên tắc bị cấm trong Phật giáo Tây Tạng. Hiện tượng đó cho thấy rõ mức độ tuyệt vọng trong các cộng đồng người Tây Tạng, đặc biệt là trong số thành viên tăng lữ Phật giáo sống ở vùng này. Các nhà hoạt động nhân quyền và Thủ tướng chính phủ Tây Tạng lưu vong, Lobsang Sangay, cho rằng chính sách thiển cận của Bắc Kinh là nguyên nhân dẫn đến hành động này. Ông nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giải quyết tận gốc thái độ thù hận của người Tây Tạng, trong đó có việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và ngôn luận.
Dù mang tính xã hội hay dân tộc chủ nghĩa, nỗi thất vọng của người tự thiêu phản bác những gì mà Chính quyền Bắc Kinh cho là “hài hòa” trong xã hội. Lobsang Sangay khẳng định tâm lý thù hận của người Tây Tạng tăng lên sau khi cuộc bạo loạn tháng 3/2008 bị chính quyền đàn áp. Những người biểu tình đòi giải phóng Tây Tạng và đưa lãnh tụ tinh thân Đạtlai Lạtma của họ trở lại. ít người dám bộc lộ suy nghĩ của mình, nhưng những ai đã nói ra đều có chung một tâm trạng: “Chúng tôi rất đau khổ trong lòng và khi không thể chịu đựng được nữa, chúng tôi sẽ thiêu cháy mọi thứ.”
Cuối tháng Giêng, Bộ Ngoại giao Trung Quốc coi những người tự thiêu là “khủng bố” và cáo buộc Đạtlai Lạtma kích động hành động gây rối với mục đích ly khai. Thủ lĩnh tinh thần Tây Tạng luôn tuyên bố muốn vùng đất này được hưởng tự trị, nhưng vẫn không muốn “cắt cầu” với Bắc Kinh. Lời kêu gọi của ông được xem như một lời cảnh báo: “Các vị sẽ không dập tắt được yêu sách chính đáng của người Tây Tạng, cũng không bao giờ thiết lập được ổn định ở Tây Tạng bằng vũ lực và ám sát. Cách duy nhất để giải quyết vấn đề Tây Tạng và thiết lập hòa bình lâu dài là tôn trọng quyền của người Tây Tạng và đối thoại với họ.
Trong khi năm 2008, nhiều trí thức Trung Quốc tỏ thái độ phê phán chính sách của Nhà nước và đàn áp ở Tây Tạng, lần này ít người trong đó lên tiếng. Nổi lên trong số họ là Vương Lực Hùng, một nhà văn ly khai, chuyên gia về sắc tộc thiểu số. Ông cũng là người gắn bó về tinh thần với Tây Tạng vì có vợ Duy Sắc là người Tây Tạng. Bản thân bà cũng là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, và có bố là sĩ quan cao cấp Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa và mẹ là người Tây Tạng.
Vương Lực Hùng đang tìm kiếm một chiến lược thích hợp hơn cho cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị của người Tây Tạng. Trong một thông điệp lúc đầu được viết bằng tiếng Trung Quốc ngày 14/1 và đăng tải trên blog của người vợ, rồi ngày 20/1 được tung lên mạng Tibetan Political Review, Vương Lực Hùng nói về ý nghĩa của các vụ tự thiêu, vai trò của Đạtlai Lạtma và chính phủ Tây Tạng lưu vong, cũng như đường lối cần theo để thực hiện mục tiêu chính trị là nền tự trị cho Tây Tạng.
Theo nhà văn ly khai này, nghịch lý là các vụ tự thiêu, vốn là hành động bạo lực đã đạt đến giới hạn cuối cùng của phi bạo lực, đòi hỏi phái có lòng dũng cảm vượt bậc, song do thiếu chiến lược nên trở thành hành động phung phí năng lượng. Do bản chất của chính quyền độc tài Trung Quốc, với cơ cấu cứng nhắc và lôgích quan liêu lạnh lùng và nhẫn tâm, rất ít khả năng các vụ tự thiêu khiến Chính quyền Bắc Kinh động lòng.
Đối với Vương Lực Hùng, điều cấp thiết là hướng năng lượng đó vào một mục tiêu thực tế hơn chứ không thể chỉ trông chờ hoàn toàn vào hành động cua Đạtlai Lạtma. Chính phủ Tây Tạng lưu vong cũng không thể chỉ đưa ra tuyên bố suông. Ông nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tính đến một chiến lược và công bố cho người dân Tây Tạng biết. Theo Vương Lực Hùng, cần phải nói với họ những gì họ cần làm. Nếu biết được mình có thể làm hay không thể làm cái gì, họ sẽ tiếp tục sống hơn là hy sinh cuộc sống của mình với hy vọng được báo chí quan tâm, dù chỉ là nhất thời.
Đề xuất của Vương Lực Hùng nhằm mục đích truyền bá quyền tự trị trong toàn tỉnh và xuất phát từ ví dụ gần đây ở làng Ô Khảm thuộc tỉnh Quảng Đông. Mỗi gia đình ở đây đều có đại diện trong hội đồng ủy quyền để bầu ra Hội đồng làng. Hội đồng này giữ gìn trật tự và bảo đảm hoạt động của cộng đồng kể cả sau khi chính quyền rút đi và đồn cảnh sát đóng cửa. Một tờ báo Hồng Công gọi Hội đồng làng Ô Khảm là tổ chức dân cử đầu tiên được chính phủ thừa nhận.
Tuy nhiên, Vương Lực Hùng băn khoăn về tính thực tế của loại hội đồng này ở Tây Tạng, nơi mọi ý đồ tự trị của làng sẽ bị coi là mưu đồ ly khai và bị bóp chết từ trong trứng bằng đàn áp. Ông cho rằng những gì người Trung Quốc được phép làm đều bị cấm ở Tây Tạng. Nhưng người Tây Tạng đã không sợ tự thiêu thì họ không còn sợ cái gì khác nữa.
Mọi lập luận của nhà văn ly khai Vương Lực Hùng và những người Tây Tạng thuộc phái ôn hòa đều căn cứ vào quyền tự trị của tỉnh này được ghi trong Hiến pháp, về vấn đề này, có thể nói đến sự trái ngược giữa tình trạng căng thẳng; và bế tắc hiện nay với thời khi Chính phủ Trung Quốc ý thức được tình hình và đưa ra những biện pháp thực thụ để thực hiện. Chuẩn mực được đưa ra bởi cựu Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, Hồ Diệu Bang, là một chính sách đáng lưu ý, nhưng chỉ là nhất thời.
Nội dung kế hoạch của Hồ Diệu Bang được nêu trong báo cáo năm 1994 do Vương Nghiêu, lúc đó là trợ lý của Hồ Diệu Bang, soạn thảo. Báo cáo này nói về sứ mệnh tại Tây Tạng của một nhóm công tác do Hồ Diệu Bang dẫn đầu và được Robert Bamett và Shirin Akiner đăng tải trong cuốn sách “phản kháng và cải cách ở Tây Tạng”.
Trong tài liệu đó, Vương Nghiêu nhấn mạnh ngoài lời hứa hẹn phát triển giáo dục, y tế và nông nghiệp mà ông cho là quá lạc hậu, Hồ Diệu Bang đưa vào danh sách các nhiệm vụ cần được ưu tiên đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Tây Tạng là “để cho người Tây Tạng được toàn quyền thực hiện quyền tự chủ của mình ở toàn vùng”. Đồng thời, Hồ Diệu Bang còn quyết định triệu hồi phần lớn cán bộ người Hán đang công tác tại vùng đất này.
Hai biện pháp này hoàn toàn ngược lại với mọi chính sách hiện nay của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiều chuyên gia về vấn đề này cho rằng những bước thụt lùi này cộng với chiến lược đưa dân ồ ạt đến, tăng cường bộ máy đàn áp và mở rộng kiểm soát vùng đất này cũng như một số vùng có đông người Tây Tạng sinh sống, là nguyên nhân dẫn đến tình hình rối loạn hiện nay.
Liệu tình hình có dịu đi không? Theo chuyên gia Francoise Pommeret, việc Bắc Kinh chấm dứt các biện pháp hà khắc chống người Tây Tạng lúc này là điều không thể. Tình hình thậm chí có nguy cơ xấu đi và đó thực sự là ngõ cụt đối với cả hai phía./.
(nguồnbasamnew)http://anhbasam.wordpress.com/2012/06/09/1070-nguy-co-xung-dot-tiem-an-o-tay-tang/#more-64212
---------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
           Sẽ xóa những comment nói tục
           Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001