Phạm Thành: Hậu Chí Phèo và Dư luận, Phần III: Ám ảnh một dòng sông (tiếp theo
phần II).
Posted on
Chủ nhật, ngày 27 tháng năm năm 2012 by Bà Đầm xòe
Ám ảnh một dòng sông
Dòng người, dòng người, hai mắt đỏ hoe, môi mím
chặt, chân bước nhẹ nhàng, lặng lẽ đi
Cầu Hàm Rồng trên sông Vũ Đại
vòng quanh quan tài người anh hùng vừa tạ thế.
Trong dòng người dài dằng dặc đó, không ai nghĩ đến ai. Tất cả đang hướng tâm
linh đến người vừa tạ thế: thành kính, trang nghiêm. Bỗng, một người ngã sấp mặt
xuống quan tài. Công an bảo vệ nhận ra người đó trong đoàn đại biểu giới Phật
giáo, bởi bộ quần áo nâu sòng mặc trên người, và cái khăn cũng nâu sòng quấn
trên đầu rất chặt. Thấy người bị nạn, theo phản xạ tự nhiên, đoàn đại biểu Phật
giáo hình như có ngập ngừng nửa bước. Và trong khi chưa ai kịp cúi xuống nâng
người bất hạnh dậy, thì công an ra hiệu: “Cứ đi”. Ba người công an khác nhanh
nhẹn xốc nách người bị ngất dậy và dùng cáng đưa ra khỏi khu vực tang lễ.
Trông đôi lông mày rậm, nước da bờn bợt, đôi mắt
to và cái đầu cắt trọc, khó phân biệt được người bị ngất là nam hay nữ. Động tác
cấp cứu cần thiết của bác sĩ đã xác nhận cho công an, đó là một ni cô, tuổi
khoảng ba lăm.
Cô vẫn như tỉnh, như mơ. Tỉnh, với kích thích
của thuốc trợ lực, cô thấy đầu óc minh mẫn, sáng suốt tới tận chân tơ kẽ tóc.
Oan ức cuộc đời hiện lên. Sự bế tắc bất ngờ dâng ngập tâm trí cô. Sự tỉnh táo
làm cô đau đớn dữ dội. Nước mắt cô ứa ra. Cô gào lên thảm thiết:
- Bác Chí ơi! Bác chết, nỗi oan nghiệp của con,
ai giải cho con?
Thời ấy, đem bác Chí ra để khóc, hoặc ngược lại
đều là chuyện tày đình, sởn gai ốc. Thấy chuyện lạ, mang màu sắc nghi vấn, công
an bảo vệ điện báo lên cấp trên. Mười phút sau, một chiếc xe xít-đờ-ca ba bánh
phóng tới.
Họ chăm chú quan sát bộ mặt cô gái. Họ thấy mặt
cô gái có cái gì đó, ngờ ngợ, nghi ngờ. Họ nháy mắt và kéo nhau đi tới một gốc
cây liễu hội ý. Sau đó, một người nào vào phòng gọi điện thoại. Cô gái nằm trên
giường cấp cứu vẫn kêu oan thảm thiết:
- Bác Chí ơi! Bác chết, nỗi oan ai giải cho
con?
Khoảng năm phút sau, một xít-đờ-ca khác lại
phóng tới. Họ mở ảnh đối chiếu. Họ bàn tán xì xào. Kẻ lắc đầu, người gật đầu.
Tất cả cùng nhìn với cái nhìn nghiêm trang, sắc lạnh về người phụ nữ. Sau đó họ
tiến sát đến cô. Cô gái vẫn mải mê gào khóc:
- Bác Chí ơi!!!…
Một công an vỗ vỗ vào trán cô gái, hỏi:
- Cô tên gì?
Cô gái:
- Cúc.
Công an:
- Địa phương nào?
Cô gái lắp bắp:
- Xã…, huyện…, tỉnh…
Công an nghe xong, đứng bật dậy. Họ ra lệnh bắt
Cúc ngay.
Khi bị trói, Cúc không phản ứng gì. Hình như cô
không có cảm giác cái khóa số tám đang khóa chặt đôi tay yếu ớt của cô.
Một đồng chí công an giải thích:
- Đây là con Võ Thị Cúc, con ông Võ Đức Nội,
gián điệp Mỹ, đội lốt thầy tu mà ngành công an ta đã tìm kiếm mấy năm, nay mới
thấy.
Cúc bị ném lên xít-đờ-ca, có công an áp tải,
phóng đi. Từ đó, Cúc hầu như bị mất tích trên cõi đời này.
Tới nay, dân làng Vũ Đại vẫn còn kể:
Cách đây mấy năm, có thấy một người con gái,
trạc bốn lăm tuổi thường xuất hiện bên cầu Rồng, bắc qua sông Ngựa. Vào những
ngày nắng to như ngày mùng 3 mùng 4 tháng 4 năm 1964, cô gái một mình leo lên
đỉnh núi Ngọc. Quần áo cô rách bươm. Ngang bụng cô luôn có một sợi dây thừng
quấn quanh, chéo qua vai là một chiếc gậy tre, tựa như khẩu súng trường dài.
Trông cô giống cô dân quân chiến đấu thời máy bay Mỹ leo thang bắn phá cây cầu
này.
Ngày ngày, cô vẫn thường leo lên đỉnh núi Ngọc,
núi Rồng.
Tại đây, cô thường chĩa gậy lên trời, miệng thét
lớn, đến khản cổ: “Bắn… Bắn… Bắn…”. Sau đó, cô lại dùng gậy làm đạo cụ múa may,
quay cuồng. Vừa múa, cô vừa hát vang những bài ca chiến tranh với giọng khản
đặc, ồm ồm, không phân biệt là giọng nam, hay nữ.
Lại có những ngày, cô gái ôm một cây chuối trôi
xuôi dòng Vũ Đại. Khi đến chân cầu Rồng, cô buộc cây chuối vào trụ cầu. Một tay
bám vào trụ cầu, một tay giương gậy làm súng, nhằm vào cầu Rồng, miệng cô lại
thét vang: “Bắn… Bắn… Bắn”.
Hết hô bắn, cô lại nhào mình xuống nước, ôm lấy
cây chuối ngụp lặn như đang chiến đấu một sống, một chết với kẻ thù – nước.
Trông cô cứ như một con điên.
Dân vùng này cũng kể lại rằng: Thời chiến tranh
có một chiếc máy bay Mỹ, cả gan bay chui qua gầm cầu. Thế mà nó không bị bắn
rụng! Thằng cha lái mới gan dạ làm sao. Dân làng Vũ Đại đến nay, thỉnh thoảng
vẫn còn tức!.
Hiện nay, cô gái đã chết. Có người nói: Một hôm,
cô đang vùng vẫy dưới gầm cầu Rồng thì bất ngờ lũ từ thượng nguồn đổ xuống cuốn
cô về với biển cả.
Có người nói không phải vậy. Cô ta chết vào một
ngày nắng đẹp, trời trong. Chẳng phải tai nạn gì, mà do trẻ con thấy lạ đã từ
trên cầu ném đá xuống. Không may có hòn đá trúng phải cô.
Lại có người nói: Hiện nay cô vẫn sống. Đấy như
tiếng hát, tiếng gào của cô dân làng Vũ Đại vẫn thường nghe mỗi khi gặp hôm nắng
đẹp, trời trong, hay gặp hôm mưa phùn, gió bấc.
Dân làng vẫn còn xì xào: Oan hồn cô Cúc về đòi
nợ làng đấy. Nhiều người đã thắp hương giải oan cho cô. Nhưng Cúc vẫn chưa chịu
yên.
Làng nợ gì cô Cúc? Làng Vũ Đại nói: Chính hắn
còn sống đấy. Cứ đến thẳng nhà hắn mà đòi có hơn không? Hãy đến đúng nơi gieo
mầm tai họa cho cô.
Núi Ngọc, núi Rồng là một địa danh của làng Vũ
Đại. Lách mình qua hai khe núi là dòng sông Ngựa. Chéo qua hai kẽ núi là cầu
Rồng, một tuyến giao thông huyết quản, người, xe qua lại suốt ngày đêm.
Sông Ngựa chảy xiết như ngựa phi. Nếu không có
cầu, người có thể bơi qua, nhưng xe pháo thì không. Chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ tràn qua khắp làng. Cầu Rồng được Mỹ chọn là điểm đánh phá, hủy diệt đầu
tiên. Mấy trận địa pháo bảo vệ cầu đã bị hủy diệt. Và chúng đã trả giá bằng hơn
sáu mươi máy bay phản lực bị bộ đội, dân quân ta bắn hạ.
Khi chiến tranh dội quả bom đầu tiên xuống cầu,
thì Cúc đang độ xuân thì. Dù phải thử thách với máu lửa, với túi bụi công việc
đồng quê, sức vóc cô vẫn tràn ra khắp bắp chân, bắp tay và tấm thân tròn
lẳn.
Làng Vũ Đại được lệnh sơ tán người. Cúc kiên
quyết xin ở lại chiến đấu. Cúc trở thành dân quân trực chiến và tham gia chiến
đấu bên sông Ngựa.
Chiến tranh ngày một ác liệt, thử thách ngày một
quyết liệt hơn, thì gan dạ, dũng cảm của Cúc như hoa hướng dương ngày càng thêm
lộ rõ dưới ánh sáng mặt trời.
Làng Vũ Đại kính trọng cô. Bộ đội yêu quý cô.
Thế mà họ Chí làng Vũ Đại lại không bằng lòng với chuyện này. Cúc không thuộc họ
nhà Chí. Họ Chí có tiếng là vũ dũng. Ấy mà tại sao người dũng cảm, gan dạ có
tiếng lại không phải là người họ Chí nhà lão? Khi Cúc được giới thiệu đi học lớp
đối tượng Đảng thì tay Chí đã tìm lý do ngăn cản.
CujChis nói:
- Lý lịch nhà cô Cúc có vấn đề. Họ nhà cô Cúc có
người đi về phía Nam” “Dòng họ với nhau thì có liên quan. Biết đâu, có ngày,
chính người nhà cô Cúc lại dẫn quân về phá hoại cách mạng. Ai dám bảo đảm, cô
Cúc vì cách mạng mà tố cáo người nhà làm giặc?
Cũng may, bên chân cầu Rồng, núi Ngọc bộ đội bảo
vệ cầu có nhiều. Ảnh hưởng của bộ đội đối với Đảng làng Vũ Đại rất lớn. Bởi vậy,
Cúc vẫn cứ được đi học đối tượng Đảng. Sau đó, tại trận địa, cả bộ đội, cả làng
Vũ Đại kết nạp cô vào Đảng.
Tôi không thể kể đầy đủ những ngày cô dân quân
Cúc dũng cảm cùng bộ đội chiến đấu bảo vệ cầu như thế nào? Chỉ có thể ghi chép
đôi dòng sơ lược qua lời kể của những người sống cùng thời với cô rằng: Cúc là
một phụ nữ mẫu mực, giỏi việc nước, đảm việc nhà, gan dạ khó ai bì kịp. Sáng
tinh mơ đã thấy Cúc, có khi một mình, với cây nứa trên tay, thoăn thoắt dập bèo
hoa dâu. Đến trưa lại thấy Cúc trong đội quân chống hạn, hai tay quai gầu giai,
nhịp nhàng, bền bỉ. Tối, dưới ánh trăng, Cúc là người có mặt sớm ở chân núi
Rồng, núi Ngọc chuẩn bị công sự cho ngày chiến đấu tiếp theo. Trong chiến đấu,
Cúc thoăn thoắt như con thoi tải thương, vác đạn. Chính trong một ngày chiến đấu
ác liệt, Cúc đã làm nên kỳ tích.
Hôm ấy, cả trăm máy bay Mỹ quần đảo trên cầu,
thi nhau trút bom, bắn đạn xuống sông, xuống cầu. Bắn liên tục, nhiều khẩu pháo
trên trận địa hết đạn. Không thể tiếp đạn bằng tàu thuyền, Cúc, dưới mưa bom,
bão đạn một mình vác hai hòm đạn nặng gấp hai lần trọng lượng cơ thể cô, băng
qua dòng sông tiếp đạn cho pháo cao xạ trên tàu chiến. Noi gương Cúc, nhiều dân
quân khác làm theo. Nhờ được tiếp đạn kịp thời, cầu Rồng lần ấy lại trụ được.
Thành tích của Cúc đã được cả làng, cả quốc tế biết tới. Cúc trở thành điển hình
của tinh thần quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Cúc được đi báo cáo
điển hình ở trong làng và ra cả ngoài quốc tế. Bấy giờ, lẽ ra Cúc có thể sẽ trở
thành cán bộ bự, nếu như thời kỳ đó, Cúc ở lại học tập và công tác ở trung ương
làng Vũ Đại.
Nhưng Cúc đã không có số phận vậy, vì chiến đấu
và nhịp điệu chiến đấu đã “ăn” vào cô. Bom, đạn và không khí chiến đấu lúc nào
cũng ám ảnh tâm trí cô. Cô không thể chịu nổi một chiều Hồ Gươm tơ liễu, óng
ánh, nghiêng nghiêng; không chịu đựng nổi sự yên thân, thanh bình. Tuổi trẻ của
cô muốn được giải tỏa trí lực. Ở đâu trí lực được giải tỏa hơn chiến trận, phải
đối mặt với cái sống, cái chết từng giây, từng giờ? Hơn nữa, chiến trận là nơi
mà tình yêu của Cúc với một pháo thủ đang độ nở. Cúc trở lại sống và chiến đấu ở
cầu Rồng.
Tình yêu của Cúc với anh pháo thủ có mê ly
không? Dân làng Vũ Đại ít người dám kể. Họ sợ hồn tình thiêng hơn hồn đời. Bởi
thế, họ cứ kể dấn vào lịch sử làng Vũ Đại thời chiến tranh.
Kỳ Đại hội Đảng làng Vũ Đại trong chiến tranh.
Phe bộ đội muốn làng Vũ Đại trở thành một điển hình đánh Mỹ tươi trẻ, muốn đưa
cô Cúc lên làm bí thư thay một người trong dòng họ Chí đang giữ chức này. Phe Cụ
Chí và Cụ Chí không tán thành. Họ muốn giữ người của họ Cụ Chí lên thay. Chí họ
Cụ, còn Cúc lại họ Võ. Từ xưa, hai họ đã có hiềm khích với nhau. Hồi năm sáu
mươi, họ Cụ đã kéo sang phá đổ nhà thờ họ Võ. Họ Võ đến bây giờ vẫn còn ấm ức.
Cụ Chí nói:
- Con Cúc họ Võ giữ chức vụ lớn. Họ Cụ ta, phe
Cụ Chí ta hẳn sẽ bị trả thù.
Phe Cụ Chí nhất định phải tìm người thay thế
trong họ Cụ. Cụ Chí chọn Cường. Nhưng Cường đã nói với cụ Chí:
- Thưa Cụ, nếu bầu mà không có chỉ đạo chặt chẽ
thế nào cháu cũng trượt. Con Cúc được bộ đội che chở, nâng đỡ, lại được làng yêu
quý, phong trào chú ý, báo chí thỉnh thoảng lại viết bài ca ngợi. Cái lý lịch có
người đi về phía Nam của nhà nó có đáng trọng gì. Mà thực ra, nó có biết mặt
người nhà đi Nam của nhà nó là đâu.
Cụ Chí vểnh râu lên, tủm tĩn cười:
- Anh sợ đảm nhận chức vụ đó thì gian khổ, vất
vả, có thể dễ bị toi mạng vì bom đạn Mỹ, chứ gì? Hèn lắm! Mà ai đã yêu cầu anh
cứ phải lăn xả vào chiến đấu. Cụ anh đây, bom bỏ thì ở trong hầm, đánh trận bằng
ống nhòm, hết bom rơi, đạn nổ mới vọt lên, xà cột bên hông lũng lẵng, chạy lên
xóm trên một tý, xóm dưới một tẹo, vẫn được tiếng là chỉ huy dũng cảm. Có ai dám
chê Cụ Chí nhà anh hèn đâu. Họ Cụ nhà ta mới lãnh đạo cách mạng được có một mùa.
Anh không thể cắt cụt ngọn con đường cách mạng của họ Cụ nhà ta được.
- Nhưng…
- Không có nhưng gì hết. Làng đang trong chiến
tranh, phải biết lợi dụng bom đạn mà tiến thân chứ!
Đại hội làng Vũ Đại chưa kịp họp thì bom đánh
cầu, đánh làng Vũ Đại lại rộ lên.
Một bận, Cụ Chí vừa từ trong hầm tránh bom. Đạn
chui ra, đã nghe tiếng la hét ầm ĩ, tiếng bước chân chạy rầm rập dội vào tai.
Thấy Cường hớt hải chạy tới, lắp bắp:
- Báo cáo Cụ, trận địa pháo bị trúng bom.
- Có thiệt hại gì không?
- Hình như bị hủy duyệt hoàn toàn.
Cả hai vội vã choàng sắc cốt, ra khỏi hầm, hớt
hải chạy đến trận địa pháo.
Đúng. Một trận địa pháo bị trúng bom, tan tành.
Những khẩu pháo bị bật khỏi công sự, cháy đen. Pháo thủ không còn một ai. Tất cả
đều tan nát. Có chiến sĩ thân thêr chỉ còn là một búi thịt bầy nhầy. Có chiến sĩ
chỉ còn là một cục than cháy xém, bốc khói. Lẩn trong mui khét tanh nồng mùi
thịt người, máu người bị cháy, là tiếng nhiều người gào thét thảm thiết. Trong
số đó, Cụ Chí và Cường thấy Cúc. Chí, Cường nhìn nhau, thì thào:
- Người yêu của nó ở đây à?
- Có lẽ? Nó gào khóc mới ghê làm sao!
Thực ra, Cụ Chí và Cụ Cường cũng không thể cầm
lòng. Nhưng, trong đau lại có một thỏa mãn nho nhỏ trong họ:
“Chẳng lẽ con Cúc lúc nào cũng gặp may”.
Sóc lại cái sà cột, cả hai Cụ cùng tiến lại gần
Cúc.
Cúc như không biết gì, vẫn vật vã bên một cái
xác đã cháy xém.
Trong lúc Cúc đang vật vã, bất ngờ cái gương nhỏ
trong túi áo Cúc rơi ra.
Như mắt cú vọ trong đêm rình chuột, trong đầu Cụ
Chí chợt lóe lên một ý nghĩ hiểm độc.
Cụ Chí tiến nhanh lại gần xác chết, nơi Cúc đang
vật vã, như tiện chân, Cụ dẫm lên cái gương của Cúc vừa rơi ra.
Sau trận bom khốc hại đó, quân báo về kiểm tra
trận địa. Làng Vũ Đại cũng vào đợt học tập: “Nâng cao cảnh giác, phát giác kẻ
thù”.
Mấy anh quân báo kể chuyện: “Bọn gián điệp Mỹ
tàng hình bằng nhiều cách. Ở bên trái làng Vũ Đại có đứa giả thành người điên;
bên phải làng Vũ Đại có đứa giả làm thợ cắt tóc; ở phía cạnh làng Vũ Đại có đứa
dùng gương, cặp tóc làm mật hiệu, chỉ điểm cho máy bay đến ném bom.
Trong một cuộc họp với dân, một anh quân báo
tiện mồm nói ra:
- Làng ta đã mất trắng mấy trận địa pháo. Có thể
có gián điệp nằm vùng, lảng vảng quanh đây.
Cụ Chí đế vào:
- Tôi nghĩ quanh ta có gián điệp. Làng ta tề
ngụy ngày xưa nhiều. Thế nào chẳng có đứa liên hệ, liên quan với nhau.
Tuy Cúc không biết mặt, nhưng lại biết trong họ
nhà mình có người đi Nam. Cụ Chí nói, “làng ta tề, ngụy ngày xưa nhiều, thế nào
chẳng có đứa liên hệ, liên quan”, hẳn là Cụ ám chỉ họ nhà mình đây. Sau phát
biểu của Cụ Chí, Cúc nhận thấy, cả làng nhìn dồn vào mình. Cúc tỏ ra lúng túng.
Sau đó, cô được bộ đội mời phát biểu về an ninh. Lời cô nói loạc choạc, khó
hiểu. Có lẽ cô sợ. Làng Vũ Đại đã bỏ tù nhiều người chỉ vì trong họ có người đi
Nam.
Sau cuộc họp, làng Vũ Đại vào kỳ phát động tố
giác. Có người tố:
- Một con trâu lạc ngơ ngác, xồng xộc từ núi
Ngọc phóng xuống. Trên trán nó dán một lá cờ đỏ sao vàng bằng giấy. Bọn gián
điệp dụng ý chê ta: Trong nhà có kẻ gian mà không biết. Ngu như bò.
Cụ Cường bổ sung:
- Đúng rồi. Hôm qua, lúc chập tối, tôi thấy có
người đóng giả đàn ông, từ thôn ta, đi vào núi Ngọc. Nó đi vội vã, nghi nghi.
Tôi đoán là người làng ta. Tại sao lại đi một mình vào rừng núi trong đêm
tối?
Làng Vũ Đại có thể có gián điệp nằm vùng. Thường
vụ Đảng ủy Vũ Đại cùng quân báo họp kín mấy tối thì dư luận làng Vũ Đại rộ lên:
Cô Cúc làm gián điệp Mỹ, ém gương trên các trận địa pháo, chỉ điểm cho máy bay
ném bom. Công an kéo về xác minh. Tang chứng Cụ Chí đưa ra rành rành. Kèm theo
cái gương, Cụ Chí còn đưa ra bức ảnh chụp Cúc đang lăn lóc bên người vừa hy
sinh. Cụ Chí giải thích:
- Nhà nó có người đi Nam. Lại có bức ảnh này
nữa. Đấy mọi người xem đi… Chẳng phải nó thương xót bộ đội ta đâu. Tóc nó rũ ra,
mặt nó tái đi, nó lo sợ chưa tìm ra ám hiệu đấy.
Làng Vũ Đại thêm một phen ngơ ngác nữa. Lo sợ về
chết chóc trùm lên. Có người tin Cúc làm gián điệp. Có người không tin. Có người
phân vân, lấp lửng:
- Cái máu địa chủ nhà nó có đánh chết cái nết
cũng không chừa.
Nghe thế, Cúc sợ run lên. Ngoài hai mươi tuổi,
cô còn non trẻ lắm.
Thế rồi, chính quyền có lệnh bắt Cúc.
Nhưng khi lệnh tới nhà Cúc, thì Cúc đã biệt
tích. Dư luận càng được dịp rộ lên: “Đúng quá. Cháy nhà mới ra mặt chuột”. Không
bắt được Cúc. Lệnh truy nã tìm bắt Cúc ban ra. Làng Vũ Đại lại hồi hộp, chờ xem
một cuộc xử án mới.
Là người chứng kiến cảnh Cúc bị bắt, nghe lời
kêu than lúc Cúc bị bắt, tôi cũng đợi một phiên tòa xử án Cúc. Nhưng đợi mãi mà
vẫn không thấy. Tôi đành đến chùa Q. ở làng Vũ Đại, nơi Cúc lẩn trốn để tìm căn
nguyên. Hỏi người trụ trì chùa về Cúc, nhà sư đưa tôi xem bảng thông báo giờ đã
nhàu bẩn: “Võ Thị Cúc, phần tử phản động, đội lốt tăng ni, đã có lệnh truy nã từ
nhiều năm nay, đến nay mới bắt được. Vậy nhà chức trách chính quyền thông báo
cho chùa được biết. Mô phật!”.
Nhà sư phân bua thêm: “Nhà sư không biết cô Cúc
ở vùng nào, nghe qua giọng thì đoán ra. Vào chùa tu với lý do không rõ ràng,
nhưng là người biết giữ phép chùa nghiêm túc. Đạo của chùa là hướng con người
thoát tục, đưa tới niềm cực lạc. Chúng tôi không có khuyết điểm. Mô phật!”.
Tôi không tin một người như cô Cúc lại có thể
làm gián điệp Mỹ. Bất giác, tôi nhớ người làng Vũ Đại nói: “Chính hắn còn sống
đấy. Cứ đến thẳng nhà hắn mà đòi có hơn không? Hãy đến nhà nó mà xem”.
Tôi đến nhà hắn. Dưới mơ màng khói hương, hắn
đang quỳ mọp dưới bàn thờ cầu khấn. Mắt hắn mở thao láo nhìn trừng trừng vào làn
khói hương. Tôi nhớ lời người Vũ Đại nói: “Mấy mươi năm nay, chưa đêm nào hắn
dám nhắm mắt. Hắn sợ”. Đuungs thật, tôi thấy miệng hắn đang phập phồng như miệng
ếch gặp nắng to. Hắn đang thành tâm. Đôi má gầy gò, đen sạm của hắn tái đi. Tấm
thân gầy còm của hắn đang vặn vẹo đau khổ như một con rắn độc sắp tới thời kỳ
lột xác. Cái mũ cát trắng đội trên đầu hắn đã thâm xì. Dân làng Vũ Đại nói: “Nó
cũng thỉnh thoảng lang thang đầu đường, xó chợ như một thằng ma xó. Gặp ai là
lạ, hay một vật gì là lạ, nó quỳ sụp xuống, bái liền, rồi có khi hắn con dùng
bùn làm mức vẽ lên tâm bia nọ, chùa kia.
Dân làng Vũ Đại có người thương nó, than: Sao
hắn không chết đi cho hết chuyện? Cho hết tức mắt người làng Vũ Đại. Cho lịch sử
làng Vũ Đại chuyển sang trang khác? Nhưng người già và các vị chân nhaancuar
lang lại nói khác: Hắn cần phải sống để trả hết cái nợ đời mà hắn đã gây ra. Chỉ
sợ hắn bỗng dưng lăn đùng ra mà chết, lôi thôi to cho làng Vũ Đại chứ lại.
Tôi hỏi hắn:
- Cô Cúc đâu?
Cánh tay đen đủi, loằng ngoằng của hắn yếu ớt
chỉ lên bàn thờ đang tỏa khói hương. Bàn thờ cổ nhà hắn ngập mấy tầng tàn hương.
Theo tay hắn chỉ, tôi chợt thấy một cái gương tròn. Tang chứng chăng? Lòng tôi
chộn rộn. Tôi hỏi hắn mà như quát:
- Cô Cúc đâu?
Hắn lại chỉ tay lên bàn thờ.
Cái gương. Tôi thấy cái gương. Tôi trịnh trọng
đưa tay cầm chiếc gương xuống.
Hắn không dám nhìn vào tay tôi, ú ớ mấy tiếng gì
đó, rồi mở rộng miệng ra đớp đớp. Những làn khói hương đen kéo lại, tuồn tuột
cuốn vào miệng hắn. Hắn nuốt khói say sưa. Khói hương đen bao vây, quấn quýt bên
cằm râu bạc ám khói của hắn.
Tôi chăm chú quan sát gương. Một cái gương tròn
ngoại, mang hiệu Phơ-rang-xe. Phía sau gương có khắc năm chữ cái: C.Y.A-K.N.
Không thấy có gì đặc biệt.
C.Y.A. Từ khi có quốc ngữ chữ, C.Y.A lúc nào
cũng có thể dịch là: Cúc yêu anh. Còn K.N là kỷ niệm. Năm chữ cái C.Y.A-K.N, là:
Cúc yêu anh, kỷ niệm. Nhưng thời phải cảnh giác, C.Y.A, lại bị dân Vũ Đại dịch
thành: Cơ quan gián điệp Mỹ; còn K.N, thì dịch thành kùng nhau. C.Y.A-K.N là
cùng nhau làm gián điệp Mỹ.
Ối trời!
Chuyện dài dòng hóa ra chỉ có thế. Thế mà…
Tôi đưa mắt nhìn hắn. Thấy hắn vẫn mê muội. Tôi
lẳng lặng đi ra. Tôi mới bước một chân qua bậu cửa, hắn đứng phắt dậy, chồm lên
theo như một thằng điên. Tôi quay người lại. Hắn chụp ngay xuống chân tôi, cầu
xin:
- Hãy giết tôi đi. Hãy đem gương xuống dòng sông
Ngựa trả em.
Hắn bám chặt vào đùi tôi. Tôi đặt tay lên đỉnh
đầu hắn. Đầu hắn lạnh như đồng. Có thể hồn hắn đã lìa khỏi xác hắn. Lời cầu xin
của hắn nghe như mộ lời thành tâm. Có thể hắn không phải là kẻ có dã tâm ác độc.
Nhưng thời đó, con người còn mông muội. Cái gì không cùng ta, khác ta đều là kẻ
thù. Bởi vậy mới đẻ ra nhiều oan trái. Tôi cũng thầm mong cho hắn được chết
đi…
Lại chợt nhớ câu dân làng Vũ Đại nói: “Khi nào
gương của hắn soi lên dòng sông Vũ Đại không thấy cô Cúc hiện về thì hắn mới
nhắm mắt được. Còn không, hắn cứ phải sống.
Bởi vậy, vào những ngày nắng đẹp, trời trong
hoặc mưa phùn gió bấc, đem gương ấy ra soi trên dòng sông Vũ Đại cuộn xiết, vẫn
thấy người con gái ấy hiện về. Và từ dòng sông, tiếng kêu cứu vẫn vang lên:
- Bác Chí ơi! Bác chết, nỗi oan của con ai giải
cho?
Người kể chuyện sử làng Vũ Đại than thở:
-Thương cô Cúc quá, ông nhỉ? Đến tận bây giờ mà
vẫn còn tấm tức kêu oan. Kiếp nạn. Đúng, kiếp nạn, chứ không thì là cái gì?
(Hết phần III).
(còn nữa)
Phạm Thành: Hậu Chí Phèo và Dư luận, phần IV: Mộ tổ làng
Vũ Đại ( tiếp theo phần III)
Posted on
Chủ nhật, ngày 27 tháng năm năm 2012 by Bà Đầm xòe
Mộ tổ
làng Vũ Đại
Cứ khói hương từ bàn thờ
tỏa lan ngào ngạt trong nhà là Chí Lê Cường muốn điên lên, muốn đập phá…, muốn
hết thảy mọi chuyện đều tung lên, phơi ra dưới ánh sáng mặt trời, dù là ẩm ướt.
Da anh vốn đen đúa, lại được hun khói ở chiến trường đánh Mỹ, cơn tức từ ruột
gan theo máu chạy lên mặt, biến ra tái tím. Mắt Chí Lê Cường vốn to, cơn tức kéo
lên làm mí mắt anh căng ra, đôi con người đồng thau được dịp chồi ra như hai con
ốc bươu vàng. Tóc Lê Chí Cường đen nhánh, cơn tức dội lên óc, dựng ngược cả lên,
có cảm giác như nghìn mũi kim tủa lên, sắc nhọn…
Hương khói thực tình chỉ
ngào ngạt, thơm lựng. Vào ngày giỗ, có mùi của đĩa xôi gạo mới, quyện với mùi
thơm của hương, ngửi mà thấy thanh khiết, thanh tao. Mũi Chí Lê Cường chưa bao
giờ bị bệnh, và dứt khoát không có triệu chứng viêm xoang, hẳn Chí Lê Cường cũng
nhận rõ cái hương vị quyến rũ lòng người này. Nhưng đã trót có đớn đau trong
lòng, ăn ớt không biết rằng cay, ăn muối không biết rằng mặn nên lẫn trong mùi
hương, Chí Lê Cường còn nhận ra cái mùi tanh tưởi nào đấy, đại để như mùi của
chú chuột đồng chết đang độ rữa ra, chẳng hạn.
Không hận thù sao đặng?
Đồng Cồn là nơi cụ tổ họ Cụ Chí, người đầu tiên khai phá. Giữa đồng Cồn có gò
Cồn, là nơi vùi thịt da, xương cốt của cụ tổ Cụ Chí nhà anh. Qua biết bao sự
thay đổi của lòng người và đất đai, gò Cồn vẫn là nơi thiêng liêng, chưa ai dám
san bằng để cấy trồng. Thời nào thì thời, con người không thể sống thiếu tổ tông
được. Ấy mà họ Võ Đức ngang nhiên đến xây mộ tổ của nhà hắn lên đó. Sao họ Võ
Đức biết tôn trọng tổ tông, còn cái họ Chí nhà mình lại không? Thiếu gì đất mà
họ Võ Đức lại xây mộ cụ tổ nhà nó đè lên phần xương thịt của cụ tổ nhà mình? Tổ
tông đã bị đè, con cháu không ngóc đầu lên được là điều hiển nhiên.
Đúng quá! Óc Chí Lê
Cường chợt lóe lên một thực cảnh: Cha ông dạy: "Có thờ có thiêng, có kiêng có
lành". Cụ tổ họ Chí Lê Cường chết, theo gia phả để lại, do bị ngập ở đồng Cồn
vào một ngày giá rét khi vua đi kinh lý qua làng. Đám tang cụ tổ nhà họ Chí
không kèn, không trống, không hòm ván và không ai được khóc. Đã thế, nắm xương
tàn nằm lại đồng Cồn cũng không được yên linh. Thế thì lấy đâu ra thiêng, ra
lành? Họ Chí từ xưa vẫn lấy ngạch võ làm đường tiến thân, nên trong hai cuộc
kháng chiến của dân tộc, có bao nhiêu đàn ông trai tráng, họ Chí đều động viên
ra mặt trận hết. Bao nhiêu người hy sinh, bao nhiêu bảng vàng danh dự mà tiến
thân của con em trong họ, chỉ đến cấp đại úy rồi lục tục về vườn. Họ Võ Đức xưa
nay theo dòng văn. Hai cuộc kháng chiến, con em của họ lẩn như trạch, có kẻ còn
theo giặc, chỉ lèo tèo dăm ba đứa vào quân ngũ, ấy mà có đứa leo lên đến đại tá.
Sao lại đảo ngược quy tắc truyền thống như vậy? Phải chăng, do họ Võ Đức xây mộ
đè lên xương thịt họ Chí? Họ thờ mấy chục năm trên đó, biết đâu cái khí thiêng
thượng võ của họ Chí, cái lộc để lại của họ Chí, do họ Võ Đức vừa đè lên, vừa
thờ phụng cầu xin đã đi vào họ Võ Đức? Có thể lắm! Mà có thể gì nữa? Cứ nhìn cái
thực cảnh cũng đã thấy quá đúng .
Không ngủ được, Chí Lê
Cường tung chăn, rút bàn tay ra khỏi bàn tay vợ, vùng dậy, anh lần tay xuống gầm
giường, với cái điếu cày lên, nhồi thuốc lào vào nõ điếu, bật lửa, rít. Hút một
lúc ba điếu liền, anh mới hạ chân xuống đất, nhẹ nhàng đi tới bàn thờ, đốt đèn
lên, thành kính thắp nén nhang.
Đêm mùa xuân tĩnh lặng.
Chỉ nghe gió đông đầu mùa xuân thổi vù vù. Ngọn đèn dầu, sau mấy cái nổ "lép
bép" cũng sung sức nhồi ngọn lên đỏ lét. Không ai thấy, theo khói hương bay, mặt
Chí Lê Cường đang tái tím dần, đôi con mắt đồng thau ốc bươu vàng cố mở ra, và
tóc đen cứng như nghìn kim dài dựng ngược.
- Phải giết thêm một con
lợn nữa. - Chí Lê Cường đập tay xuống bàn thờ quả quyết.
Vợ Chí Lê Cường lúc này
cũng không ngủ. Nàng cũng đang thao thức nghe gió đông đầu mùa xuân thổi vù vù,
rít qua phên vách. Quen với tính chồng, đã quyết thì làm, nàng không mấy khi to
tiếng. Nhưng con lợn đã gần một tạ, công sức chắt bóp bao ngày vất vả bỗng dưng
đem cúng cho cả họ, nàng không thể không xót. Nàng thủ thỉ, thuyết phục
chồng:
- Em tính, ta cứ đem bán
quách nó đi. Con lợn này bụng to, bán thì dôi cân, làm thịt hao lắm. Bán quách
nó đi, lên chợ mua cái thủ với vài cân mỡ, vài bó măng, vài nải chuối xanh, làm
vài mâm cúng các cụ là được. Năm ngoái đã làm lớn, năm nay làm thế là vừa. Mình
còn khó khăn, các cụ thông cảm.
Lại biết vợ đang tính
toán thiệt hơn đồng tiền, lợi thêm vài cân hơi, cũng được chục ngàn đồng, cũng
có thể sắm cho con cái một vài bộ quần áo. Nhưng làm thế, e mất tiếng, mất thể
diện. Giỗ chạp mà không có lợn réo, gà kêu, không có dao thớt chạm vào nhau kêu
chan chát, bát nồi va chạm vào nhau loảng xoảng, thì còn ra cái thể thống gì? Họ
Chí to, vài cân mỡ với cái thủ thì ai ăn, ai mời? Hơn nữa, giỗ họ thỉnh thoảng
mới làm. Chiều phụ nữ mà để mất tổ tông, họ hàng à? Hơn nữa, từ thời khoán mười
đến nay, có đứt bữa nào đâu mà lo. Chí Lê Cường dỗ dành vợ:
- Biết là tốn. Mình là
trưởng họ, làm khác đi, ai người ta còn phục, còn nể! Họ nhà mình mấy chục năm
nay theo văn hóa mới, bỏ giỗ chạp, vài năm nay mới làm lại, có đâu mà nhiều, mà
tốn. Nhân giỗ chạp, tập trung con em lại để giáo dục tinh thần đoàn kết, kể cũng
còn ít. Thời buổi khác rồi, anh em không đoàn kết, dễ lép với thiên hạ
lắm.
Không thấy vợ nói gì.
Chí Lê Cường chỉ nghe tiếng vạc giường chạm nhau đôm đốp. Nàng đang cựa mình.
Chí Lê Cường đưa tay với cái điếu cày, lại nhồi thuốc, châm lửa,
rít.
- Thì tôi cũng tính vậy
- Nàng nói - Chứ nhà này có cái gì mà ông chả quyết.
- Thì đã - Chí Lê Cường
dứt khoát - Tôi quyết, nhưng lợn, công khó nhọc là của mình. Phải thuận vợ,
thuận chồng, ngày mai còn lo.
Cả hai cùng im lặng. Chỉ
có gió đông đầu mùa xuân vẫn đập thình thịch ngoài phên vách. Một lúc sau, vợ
Chí Lê Cường lại lên tiếng:
- Thầy nó
ạ.
- Hử?
- Họ nhà người ta cũng
không phải tay vừa đâu. Tôi chỉ sợ lợn mất, rồi tật mang, khổ con, khổ vợ suốt
đời.
Chí Lê Cường đắng mồm,
cứng lưỡi, vì những lời của vợ gợi những khó khăn triền miên trong gia đình anh.
Anh chợt rùng mình. Trời đã nhá nhem sáng.
Họ Chí đến giỗ tổ đông
đủ hơn lúc nào hết. Họ ngồi trật tự, phát biểu có tổ chức, có nội dung hơn bất
kỳ cuộc họp xã viên nào. Nhờ các cụ kể lại, Chí Lê Cường biết rằng, cụ tổ họ Võ
Đức không phải là người bản địa. Họ mới đến ngụ cư ở đây từ thời Lê Lợi dựng cờ
khởi nghĩa. Và nghe đâu, cụ tổ họ Võ Đức theo Lê Lợi, giữ chức quan coi phần
giáo huấn trong quân ngũ và chết mất xác ở tận đẩu tận đâu. Thế thì nhất định họ
Võ Đức không có mộ tổ thật. Mộ tổ họ Võ Đức xây ở gò Cồn chỉ là xây hờ, thờ
phụng hờ mà thôi. Trong mộ nhất định không có hài cốt.
Lê Chí Cường mừng rơn.
Để giấu niềm vui và chứng tỏ tư cách một tay trưởng họ, Chí Lê Cường cứ thong
thả hút hết điếu thuốc lào này đến điếu thuốc lào khác. Khói thuốc lào từ miệng
Chí Lê Cường thả ra, tỏa kín cả gian nhà rộng. Cả gian nhà đầy một mùi khen
khét, khê khê, nồng nồng. Chí Lê Cường "phản biện" lại các cụ:
- Lấy gì làm bằng chứng,
các cụ?
Một cụ già đứng lên
nói:
- Anh cũng là người từng
đi chiến trận. Anh biết xác người trong cuộc chiến thất bại như thế nào rồi. Cụ
Lê Lợi nhà ta, thuở còn khởi nghĩa, có biết bao nhiêu phen lâm cảnh khốn cùng:
"Khi Lương (Linh) Sơn lương hết mấy tuần. Lúc Khôi Huyện quân không một đội".
Lại còn, “máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm”. Xác chết nhiều đến nỗi, nước
sông Ngựa sông Trâu tắc nghẽn, còn bị quạ tha, diều rỉa, như thế còn phân biệt
được nổi ai là xác ai? Lại, người chết trận, kẻ cụt đầu, người cụt chân, tay,
lại toàn mặc một kiểu quần áo, mặt lại còn hóa trang, thì rất khó mà xác định?
Do thế, họ Võ Đức tài thánh cũng không tìm được cụ tổ chết trận nằm ở đâu. Ấy là
chưa nói thời ấy, còn có tin đồn, cụ tổ họ Võ Đức thấy nguy, định phản bội
nữa.
Mấy cụ nữa cũng phát
biểu với nội dung tương tự và đều khăng khăng rằng, cụ tổ họ Võ Đức mất xác,
biệt vô âm tín. Cái gò Cồn, từ khi cụ tổ họ Chí vùi xác ở đó mới thành thiêng.
Họ Võ Đức chơi cái trò láu cá. Biết thời buổi đang chiến tranh, tiến thân bằng
văn nghiệp sẽ khó khăn, nên đã lừa lúc con em họ Chí đi vắng, xây đè mộ tổ nhà
họ lên mộ tổ nhà họ Chí, nhằm ăn cái lộc thượng võ của họ nhà Chí ta. Và cũng
như uất hận của Chí Lê Cường, họ Chí lại đem cái không tiến thân được bằng binh
nghiệp của họ nhà mình so sánh với họ Võ Đức. Đến thế thì niềm đắng cay không
chỉ có ở những gia đình họ Chí có con em đi bộ đội mà lan ra sôi sục ở mọi gia
đình họ Chí. Không khí cuối buổi giỗ tổ, mỗi người một niềm căm tức đã hợp thành
ý chí của cả trăm người. Họ Chí nhất quyết, lập tức phải san bằng cái mộ hờ trái
phép của họ Võ Đức đi.
Một cụ khác
nói:
- Họ ta xưa nay vẫn quen
giải quyết công việc bằng vũ lực. Sinh nghệ, tử nghệ, ta không ngán. Nhưng đó là
cách của thời trước, của bọn già tôi, cái bọn không có chữ nghĩa gì. Bây giờ,
anh Cường, các anh, các chú đều là những người có học, lại đang có dân chủ, đổi
mới, ta cứ làm đơn kiện gửi cho các cấp thử xem. Án tại hồ sơ. Gia phả họ ta
còn, Đảng và chính quyền cũng phải chấp nhận.
Cả họ Chí xôn
xao:
- Được thế thì tốt quá!
Họ Võ Đức cũng là họ to, xưa nay có nhiều mưu kế hiểm, có Đảng, chính quyền hỗ
trợ, cũng không thừa.
Viết đơn kiện, cả họ Chí
đồng tình.
Thắp thêm tuần nhang
nữa, cả họ Chí cụm đầu vào thảo đơn kiện. Loay hoay một lúc mới viết được mỗi
câu: "Kính gửi Uỷ ban các cấp, từ trung ương đến địa phương!". Đi vào nội dung,
có người muốn phải bắt đầu từ việc kể lịch sử gò Cồn; có người lại kiên quyết
phải bắt đầu từ việc kể tội họ Võ Đức; có người lại sụt sùi khấn vái mà rằng:
phải bắt đầu từ nỗi oan ức bị trù dập của họ Chí… Mỗi người một ý. Chẳng ai chịu
ai. Qua mấy tiếng đồng hồ mà đơn kiện vẫn chưa hạ được chữ nào cho đúng ý mọi
người. Lại còn cãi nhau om sòm.
Họ Chí xưa nay chưa từng
thảo đơn kiện bao giờ. Chí Lê Cường là người chấp bút cũng lúng túng. Tuy là đại
úy về vườn, nhưng suốt mười năm trong quân ngũ và giữ chức đại đội trưởng, anh
cũng chưa hề qua một lớp học tập, huấn luyện sơ cấp nào. Lên tới cấp đại úy là
do thành tích trận mạc. Bực với lời đi tiếng lại nhức cả óc, lại trong đầu không
bật lên một chữ nghĩa nào khả dĩ có thể làm hài lòng cả họ, Chí Lê Cường bỏ bút,
đứng lên:
- Tôi cũng không quen
cái nghề cạo giấy, thưa các cụ.
Một cụ nói:
- Anh là người có cấp
bậc cao nhất trong họ, lại cũng có học cao nhất, anh không viết thì còn ai viết
được.
Chí Lê Cường trồi đôi
con mắt đồng thau ốc bươu vàng, nhìn chằm chằm vào anh em, dòng họ. Những khi
giáp trận, cái chết kề cái sống, Chí Lê Cường thường có biểu hiện như vậy. Tuy
lúc này không phải là chiến trận, cái sống kề cái chết, nhưng lại là biểu hiện
của sự bức bối cao độ. Chợt, Chí Lê Cường nhớ tới cái mũi lê nhọn hoắt và đôi
tay rắn chắc của anh xỉa vào ngực kẻ thù. Đồng đội có nhiều người bảo anh liều,
nhưng anh đã không chết. Khối thằng có tiếng là khôn ngoan, ấy mà lại bỏ xác ở
chiến trường. Cứ phải liều, phải tới…
Chí Lê Cường đứng phắt
dậy, tay vỗ "bồm bộp" mấy cái có ý ra lệnh cho mọi người trong họ im lặng, rồi
nói dứt khoát:
- Dứt khoát không có
kiện. Ta tìm lại xương cốt của cụ tổ nhà ta, nếu các cụ có thiêng, sẽ không chấp
nhận cách giải quyết theo cái dấu đỏ của chính quyền đâu. Khí chất của cụ tổ nhà
ta không đến mức mềm yếu như vậy. Họ Võ Đức, ngày trước xây mộ trên mộ tổ nhà
ta, chúng nó có bàn bạc với ai đâu? Bất ngờ, một đêm chúng nó xây xong. Cách làm
của chúng nó nhất định được cụ tổ nhà ta chấp nhận. Bởi thế, họ Võ Đức mới giành
được lộc của nhà ta. Tôi tính, xưa cụ thế nào thì con cháu ngày nay cứ theo tính
của cụ mà làm. Vấn đề cũng phải xong trong một đêm.
Có lý quá! Họ Chí lại
một lần nữa tán thành. Và để cho ý kiến của Chí Lê Cường thêm sức nặng, một cụ
bổ sung thêm:
- Ấy. Tôi nhớ các cụ kể
lại: Cụ tổ nhà ta theo Lê Lợi làm quan tới chức… tóm lại là rất to. To hơn cụ tổ
họ Võ Đức nhiều và được Lê Lợi sủng ái hơn. Thế mà, khi thái bình hưởng lạc, Lê
Lợi chỉ tuyên dương công trạng có một lần, cụ nhà ta bỏ phẩm hàm về quê liền.
Thế mà Lê Lợi không dám ghép vào tội khi quân. Lê lợi còn mò từ kinh thành về
đây để… như bây giờ gọi là xin lỗi. Cụ tổ nhà ta vẫn không thèm tiếp, đánh trâu
ra đồng Cồn, rồi uất mà chết ở đó. Cụ dặn, không được kèn trống, hòm ván gì cả,
cứ để xương cốt tan vào đồng Cồn. Hồi xưa, khi chưa có cách mạng, có ai dám
trồng trọt gì ở trên đó mà có thu hoạch đâu? Anh Cường nói, chỉ có một đêm, tôi
tán thành. Như thế mới đúng ý nguyện của cụ.
Mồ mả ở quê hiện vẫn còn
thiêng lắm! Bình thường, có thể để cỏ mọc um tùm lên, trâu bò dẫm lên, thậm chí
còn "bậy" cả lên, không sao. Nhưng nếu là người, đặc biệt là khác họ, lâu nay có
hiềm thù với nhau vô tình hay cố ý như bò dẫm lên, thì xương máu dễ chảy ra lắm.
Cụ tổ hai họ chết từ thời Lê Lợi, không biết có còn tý xương vụn nào không,
nhưng để bảo vệ cần phải hy sinh xương máu của người sống cũng phải làm. Đó là
trách nhiệm đời đời của con cháu, dòng tộc. Tinh thần này có từ thời cụ Trần
Hưng Đạo truyền qua bài "Hịch tướng sĩ" mà ra.
Họ Chí giết lợn, họp họ
ồn ào có cái gì mà kín được. Sau cuộc họp của họ Chí, họ Võ Đức thấy rằng phần
mộ của nhà mình đang bị đe dọa, lập tức có kế hoạch phòng thủ. Bằng chứng, trên
mộ tổ nhà họ Võ Đứcở bốn góc có bốn thanh gươm bằng gỗ cắm ngượclên. Trên bốn
mũi gươm cắm bốn cái đầu lâu làm bằng củ chuối. Rễ chuối được họ Võ Đức cố ý để
lại và bôi mực đỏ, mực đen. Những đêm trăng, từ xa nhìn lại, thấy củ chuối và rễ
chuối như đầu lâu vừa chém xong, máu còn chảy ròng ròng.
Kèm với biểu tượng chiến
đấu, trẻ con nhà họ Võ Đức, đứa nào cũng thuộc và réo ầm ĩ khắp cả làng: "Chẳng
những mồ mả của ta bị tan, mà gia quyến nhà người cũng tan nát".
Có những ngày, không khí
cuộc sống ở làng sôi sục như hồi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.
Thấy "chiến sự" như xảy
ra đến nơi, lập tức bí thư Đảng ủy triệu tập đương sự họp ngay. Đảng ủy cho Chí
Lê Cường phát biểu trước.
Chí Lê
Cường:
- Thưa đồng chí chủ
tịch, thưa đồng chí bí thư, tôi nghĩ, đời nào con người cũng phải có tổ tông. Tổ
tông mà bị đè thì con cháu không ngóc đầu lên được...
Ông bí thư nghe thấy Chí
Lê Cường nói những điều đảng viên không được nói, vội đứng đậy cản lời Chí Lê
Cường:
- Thôi. Anh Chí
Cường im đi. Tôi nói cho anh biết, anh là đảng viên, ăn nói cho có tinh thần
Đảng. Cả hai lão cụ tổ chết, đến cái xương vụn cũng chẳng còn. Tổ với chả tông,
thiêng với chả liêng cái gì? Anh nói ngay cho Đảng ủy biết, vì sao anh lại họp
họ để tổ chức choảng nhau?
Chí Lê Cường như
bị dội nước lạnh vào đầu, da mặt đang từ đen nhẻm chuyển sang màu tái tím. Như
trong nhiều bận tức giận, con mắt ốc bươu vàng của Chí Lê Cường lại trồi ra. Anh
nhìn chằm chằm vào mặt bí thư Đảng ủy. Họng anh, những sợi gân căng to lên như
sợi dây thừng buộc trâu bò:
- Vì sao? Vì cái
họ Võ Đức mất dạy, xây mộ tổ nhà nó đè lên mộ tổ nhà tôi, nhà anh - Chí Lê Cường
hăm hằm.
Bỗng, nghe tiếng
đập bàn đánh "rầm", đại biểu họ Võ Đức không kịp xin phép bí thư Đảng ủy, đứng
bật dậy, thét lên:
- Cái thằng
Cường họ Chí kia, mày bảo ai mất dạy? Hả? Họ tôi biết đếch đâu các cụ nhà tôi
xây mộ đè lên mộ tổ nhà các anh? Mà cái họ nhà anh chưa mở miệng ra đã chửi
người, có đè lên cũng là phúc cho cả làng này.
“Bốp"! Chủ tịch
đập bàn ngăn họ Võ Đức lại:
- Các anh định
gây sự trước mặt bí thư Đảng ủy phải không? Tôi báo để các anh biết, có dân quân
thường trực ở đây, sẽ gô cổ đứa nào gây ẩu đả. Họ Võ Đức cũng vào đề ngay cho.
Tại sao các anh lại tổ chức cho bọn trẻ con đứa nào cũng phải học thuộc "Hịch
tướng sĩ"? Tại sao?
Đại biểu họ Võ
Đức trả lời:
- Tại cái họ Chí
nhà anh họp, bàn cách san mộ tổ họ nhà tôi.
- "Bốp" - Chủ
tịch đập bàn tiếp - Anh im cái mồm đi. Bằng chứng đâu?
Họ Võ Đức cà kê
kể ra nhiều bằng chứng. Nào là họ Chí, năm ngoái giết lợn liên hoan cả họ, ra
nghị quyết, thảo đơn kiện. Họ Chí còn vu khống cho họ nhà tôi đã làm cho họ Chí
không ngóc đầu lên được. Toàn là những chuyện bịa đặt, bậy bạ.
Chí Lê Cường
nghe xong, chẳng chối điều gì. Nhưng xét trên tinh thần Đảng, thì họ Chí không
có khuyết điểm "gây chiến". Chí Lê Cường nói:
- Chúng tôi
không có vũ khí thị uy. Không có đầu lâu cắm trên mộ. Trẻ con họ Chí không có
đứa nào học thuộc "Hịch tướng sĩ".
Tiếng đi, tiếng
lại, qua mấy cuộc họp "tràn đầy" căng thẳng, Đảng ủy vẫn không dàn xếp xong. Họ
Chí cậy vào gia phả. Họ Võ Đức dựa vào phần mộ tổ đang có. Chẳng bên nào chịu
bên nào. Đảng ủy đành bất lực. Bực bõ, Đảng ủy ra nghị quyết, buộc hai họ nộp
phạt. Lý do: Hai họ gây mất trận tự an ninh thôn xóm. Cứ gây rắc rối, Đảng ủy
tiếp tục phạt. Rút cục chủ tịch cũng như bí thư Đảng ủy chẳng giải quyết được
gì.
Nhớ tới con lợn
năm ngoái, Chí Lê Cường bần thần cả người.
Quả thực, trông
cậy vào Uỷ ban giải quyết để họ Chí cầm cuốc xẻng bứng cái mộ nhà họ Võ Đức đi,
hy vọng mong manh lắm! "Mình có lý. Họ cũng có lý. Đến mình là Uỷ ban cũng phải
giải quyết theo kiểu "hoãn binh" như vậy. Họ người ta cũng không vừa. Cứ ầm ĩ
như con lợn năm ngoái, rồi họ Võ Đức lại cho trẻ con hát ầm "Hịch tướng sĩ"; lại
cho cắm đầu lâu trên mộ, Uỷ ban lại họp, lại mất thêm một ít tiền nữa, mà chẳng
đi tới đâu. Lợn mất, tiền mất, Đảng ủy lại phê bình. Chi bằng chiều theo ý vợ,
vừa tiết kiệm, vừa kín tiếng, họ Võ Đức biết đâu mà lần; còn dôi tiền mua quần
áo cho con, cũng hay. Biết đâu, chỉ hết cái thủ với bộ chân giò là
xong".
Từ con lợn năm
ngoái, ý nghĩ của Chí Lê Cường lại "kéo" về thời chiến tranh.
"Có lần cấp trên
quán triệt tư tưởng, phương án tác chiến, lại còn tổ chức tập chiến đấu giả mấy
lần, ấy mà khi đánh lại thua chổng vó. Có lần chỉ sơ sài, xem đánh trận như đi
dạo chơi, lại thắng to. “Ôi! Những trận chiến… Mìn nổ, bộc phá liên hoàn nổ…
Những bùng nhùng thép gai tung lên. Tung lên! Tung lên!".
Chí Lê Cường như
bị chiến trận thôi miên, miệng hét, người tung lên, rồi nằm sấp, dán mình xuống
đất giữa nhà tránh đạn. Đôi mắt ốc bươu vàng của Chí Lê Cường mở rộng hết cỡ,
thao láo hướng về phía bàn thờ. Chí Lê Cường chợt nhớ ra điều gì, lẩm bẩm: "Đúng
rồi! Mẹ đếch! Hai cân bộc phá mang về dự phòng cất đâu?"
Vẫn nằm dán
xuống đất, ngóc đầu hướng lên bàn thờ suy nghĩ, một lúc, chừng như nhớ ra, Chí
Lê Cường gục mặt xuống đất. Đất lạnh đêm đông đầu mùa xuân làm bộ nhớ của Chí Lê
Cường bừng tỉnh. Anh lầm bầm mà như reo lên: "Dưới gầm giường? Dưới gầm giường
chăng? Không. Dưới bàn thờ? Không. Đích là dưới gầm giường hạnh
phúc".
Chí Lê Cường bò
tới gầm giường. Vợ anh vẫn đang nằm trên giường và đang quay mặt vào bờ vách.
Chí Lê Cường đã lần đúng chỗ và đưa lòng bàn tay vỗ "bịch, bịch" xuống mặt đất.
Sau đó, anh dùng đèn pin soi, dùng dao cạo mặt đất. Một tảng đất khô hình viên
gạch lộ ra. Mìn. Hai cân mìn dự phòng.
Chí Lê Cường
tính toán: Gò Cồn chỉ rộng bằng hai mảnh chiếu đôi gộp lại. Mộ họ Võ Đức xây,
đầu nằm hướng về phía Đông, chân duỗi hướng về phía Tây. Cả phần mộ lẹm về phía
Nam. Đào từ hướng Nam vào, theo kiểu hàm ếch, rộng độ một gang tay rưỡi, sâu vào
một mét rưỡi là vừa. Quan trọng là phải không được đào sâu quá để lúc mìn nổ chỉ
tung phía trên mà thôi; xương cốt cụ tổ nhà anh ở phía dưới vẫn còn nằm lại.
Việc không cần nhiều người. Kể không giỗ tổ lớn cũng được. Trước hết cứ phải bật
cái mộ tổ họ Võ Đức đi, rồi tính bài đoàn kết sau cũng chưa muộn.
Chí Lê Cường cầm
dao, đứng lên, rồi ngồi xuống giường, nói với vợ:
- Tôi thấy mình
nói phải. Ngày mai cứ đem lợn lên chợ mà bán cho dôi cân. Tôi chỉ xin cái thủ
với bộ chân giò, nải chuối.
Ngày giỗ tổ họ
Chí năm ấy, Chí Lê Cường chỉ mời các cụ đầu ngành trong họ đến dự. Cái thủ với
chân giò, vợ anh làm khéo, cũng được năm sáu mâm thịnh soạn. Chí Lê Cường trình
bày phương án đánh mìn, các cụ đồng tình cả. Nhờ trí tuệ tập thể mà phương án
đánh mìn của Chí Lê Cường được các cụ hoàn thiện thêm. Sau cùng các cụ
khuyên:
- Phải biết xóa
dấu vết, anh Cường ạ. Tôi tính, khi có mìn nổ, thì ta lập tức phá cống nông
giang cho nước chảy xối vào đồng Cồn. Nước ngập mênh mông, họ Võ Đức nhìn trơ
mắt ếch ra, chứ làm gì được?
Phá mộ tổ nhà
người thật chẳng khó khăn gì mấy. Đêm đông đầu mùa xuân gió rét, lại lâm thâm
mưa bay, mấy ai dám ló mặt ra đường? Thế là, vào một buổi sáng khi mặt trời lên
tới cây sào, xua tan sương mù mùa xuân, dân làng Vũ Đại nhận ra nước loang trên
đồng Cồn. Một số người khó ngủ trong đêm nói: Đêm qua họ nghe thấy một tiếng nổ
lớn. Lúc ấy, họ mới để tâm tới gò Cồn. Sau một lúc chỉ chỉ chỏ chỏ, bàn tán, họ
kết luận: Gò Cồn không còn nữa.
Đến gần trưa,
người ta thấy họ Võ Đức, người đi thuyền, kẻ lội bì bõm, dò dẫm đi tới gò Cồn.
Họ Võ Đức quả
thật đã trơ mắt ếch ra nhìn. Chỗ mộ tổ hai họ, bây giờ thành chỗ ngập nước sâu
nhất. Họ Võ Đức dùng gậy chọc xuống xem nông sâu, rồi cử người lặn xuống, thả
gầu giai xuống. Lùng nhùng một lúc, khi thì căng dây lên, lúc thì chùng dây lại,
họ Võ Đức chụm tay vào dây kéo gầu lên. Chẳng thấy một viên gạch hay một mảnh
sành vỡ nào đọng trong gầu. Lặn, kéo cho đến gần trưa họ Võ Đức cũng chẳng mò,
kéo lên được gì. Cuối cùng, cả họ Võ Đức phải bỏ mộ tổ, bì bõm lội
về.
Ít hôm sau, nước
đồng Cồn cạn đi, chỗ ấy cũng chỉ là vũng nước sâu nhất. Cách chỗ nước sâu nhất
ấy độ vài mét thấy toàn là những gạch vỡ và đất vụn. Họ Võ Đức bao lần cố ra
tìm, nhưng cũng không thể nhặt được một mảnh xương con nào.
Năm ấy, lúa ở
đồng Cồn bị thối gốc, chết cả.
Họ Võ Đức biết
chắc họ Chí phá, nhưng không có bằng chứng, đành nuốt hận, chờ dịp họ Chí xây mộ
tổ trên đó để trả hận. Nhưng mấy mùa sau, họ Võ Đức chờ mãi cũng không thấy họ
Chí xây mộ. Nghe đâu họ Chí cũng không tìm được một tí hài cốt nào của cụ
tổ.
Chuyện này xảy
ra hồi tay Chí đã nghỉ hưu danh dự rồi. Biết chính quyền, Đảng ủy, chẳng giải
quyết được gì, tay Chí cho là phải lắm. Hắn còn tỏ ra đắc chí: "Tổ với chả tông,
dân Vũ Đại mới mình cụ tổ Lạc Long Quân cũng đã quá phức tạp rồi, thêm nữa làm
gì cho loạn".
Chỗ đất ấy, bây
giờ thành đất canh tác, khi thì lúa xanh, khi thì ngô xanh.
Hai nhà Chí Lê
và Võ Đức bây giờ cũng chịu chung số phận: không mộ tổ.
Họ Võ Đức, không
chỉ có tá, mới đây còn có người được phong tới cấp tướng. Họ Chí lấy thế làm tức
lắm. Và vì vậy, mỗi lần thắp hương, Chí Lê Cường bi phẩn lại uất đầy ruột: "Họ
nhà mình chưa thể ngóc đầu lên được". Hương khói thành ra có mùi…
- Hương khói có
mùi ư?
- Có thật đấy.
Chính trị làng Vũ Đại hay tráo trở lắm. Hương khói có mùi là điều tất nhiên. Đó
là truyền thống thăng trầm của dân làng Vũ Đại: chính trị thế nào, thì mùi hương
khói ấy!- người kể chuyện sử làng Vũ Đại kết luận.
Hết phần IV.
(Còn tiếp)
Phạm Thành: Hậu Chí Phèo và Dư luận, phần V: Gia phả dòng
họ làng Vũ Đại (Tiếp theo phần IV)
Posted on
Thứ sáu, ngày 01 tháng sáu năm 2012 by Bà Đầm xòe
Võ Đức Nội là cha của Võ Thị Cúc, đưa bàn tay to nắm đuôi theo cày, lắc
nó sang phải, sang trái, như một tay thợ cày đang lách cày cày ruộng, trong khi
mắt ông nheo nheo nhìn lướt theo bắp cày. Chẳng có gì sót cả. Đoạn, ông kéo hai
ống quần lá tọa lên đùi, nhẹ nhàng ngồi xổm xuống. Mắt ông lại nheo nhìn vào cái
lỗ tròn trên bắp cày. Nó cũng đúng cách: phần lõm phía trên hơi bóp lại. Theo
thói quen, ông đưa hẳn ngón tay sờ vào cái lỗ tròn ấy, như kiểm chứng thêm cho
đôi mắt của ông, giờ đã kém tinh tường. Ngón tay của ông cũng không phát hiện
được điểm sai sót gì. Lạ thật!
Ông nghiêng người hạ cái cày
nằm nghiêng xuống sân, tiếp tục kiểm tra độ chính xác trong từng bộ phận của
chiếc cày chìa vôi. Ông xòe tay đo độ dài bắp cày, đoạn từ chốt cày về phía tay
cày. Nó cũng khớp quy định. Lạ nhỉ?Ông lại tiếp tục xòe tay đo liền mấy gang
đoạn từ chốt cá cày đến vai cày. Cũng đúng quy định. Ông đã có phần bực tức ở
trong bụng. Để kỹ lưỡng hơn, ông tiếp tục hì hục kiểm tra thêm môn cày, và còn
xòe tay ra đo cái góc nhọn tạo thành giữa theo cày với bắp cày. Đúng hết. Ấy mà
tại sao thằng cháu đích tôn nhà ông là thợ cày giỏi của làng, lại bảo cày không
được. Hắn bảo, lúc thì ăn nông, lúc thì ăn sâu, lúc thì không bắt vào luống, cứ
trườn trượt trên rãnh cày…
Năm nay, Võ Đức Nội
đã ngoài bảy mươi tuổi. Có dễ đời ông đã làm tới mấy trăm cái cày. Cái thì nhà
ông dùng, cái cho họ hàng, hàng xóm dùng, chưa có một cái nào "trái khoáy" như
cái này. Nó có gì khác với cái ông đã làm đâu? Bắp cày này cũng là một đoạn gốc
của một cây tre già. Theo cày này vẫn là cây gỗ lim mà ông mua từ rừng về. Dự
định cái cày này là cái cuối cùng của đời ông, nên ông đã hết sức cẩn thận tập
trung sức lực và trí tuệ để có một món "quà" hoàn hảo "tặng" cho thằng cháu đích
tôn làm vốn. Không xong cái cày này, ông có nhắm mắt cũng khó bề thanh thản. Bởi
vậy, ông không thể không tìm cho ra nhẽ.
Ông ngước cặp mắt già nhìn lên thằng cháu đích tôn. Lúc này, nó chỉ mặc
độc một cái quần lót và đang nằm nghiêng trên bờ hè. Hắn phải bỏ lỡ một buổi cày
là tại cái cày này đây. Ông muốn hỏi thêm cháu, nhưng thấy nó đang "phì phì",
ông lại thôi. Thấy nó đang nằm ngủ hiền quá mà ông thương. "Thôi chả cày nay thì
cày mai, ruộng vẫn còn đó". Ông nở một nụ cười yếu ớt, bỏ cày đứng lên. "Ngày
xưa, mình cũng như nó mà vẫn sống đến ngoài bảy mươi chưa chết".
Bỗng ông nghe đồng hồ bàn đổ chuông, báo hiệu mười hai giờ trưa. Ông đưa
tay sờ cằm. Mấy sợi râu thưa ướt đẫm mồ hôi. Đang là tháng hè oi nồng. Một cơn
gió tây thổi qua. Ông cảm thấy cái nóng se se trên mặt. Ông bước hấp tấp vào
nhà. Ông phải lên cót cho đồng hồ cái đã. Kẻo trưa mai có thể lại sai
giờ.
Cái đồng hồ. Có người trong xóm chê cái đồng hồ có con gà mổ của ông và
bảo ông thay đi. Nhưng việc gì phải thay khi con gà vẫn còn mổ. Nó lại là cái
đồng hồ tốt nhất làng, đã gắn bó trong nhà ông mấy chục năm nay. Cái đợt mua năm
sáu mấy, có cái đồng hồ nào còn chạy được đến bây giờ đâu? Đúng là của bền tại
người thật. Cứ để nguyên nó trong tủ. Chỉ một người lên giây vào đúng mười giờ,
thì chẳng mấy khi nó hỏng. Nó có sai thì cũng một vài bữa, rồi có bữa cũng đúng
với "tít tít" của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Khi ông cầm cái đồng hồ "quạ mổ"- làng tôi ác miệng gọi thế - định lên
giây cót, ông lại nghe như có tiếng gà mái gáy từ trong đồng hồ vọng ra. Ông cứ
phân vân mãi về chuyện này. Không biết là ông "tai tưởng" hay là gà mái gáy
thật? "Hay là hồn con Cúc ẩn vào đây?". Nhưng hôm nay, sau khi nghe tiếng gà mái
gáy, thì cái đồng hồ trên tay ông kêu luôn mấy tiếng "sành sạch" rồi im bặt,
không còn nghe tiếng "tích tắc" đều đều nữa, và ông liếc mắt nhìn con gà cần mẫn
mổ thời gian cũng đứng im. Theo thói quen ông vặn giây cót. Nó cũng không tích
tắc trở lại. Ông dùng tay vỗ, rồi đặt nhẹ xuống mặt tủ như mọi khi, nhưng nó vẫn
kiên quyết không chạy. Bất lực, ông để nó vào chỗ cũ, và hy vọng, có thể ngày
mai bất ngờ nó lại "tích tắc" như nhiều lần bất ngờ trước.
Mười hai giờ trưa, cũng là giờ mà ông ăn và nghỉ trưa. Ông xuống bếp bê
một nồi lên. Chẳng cần mâm bát, ông thò tay vào nồi, đào bới trong đó một lúc,
cầm ra một cục tròn như quả ổi lai. Đó là một nắm khoai khô nấu lẫn với đậu. Ở
nông thôn, giữa ngày có một nồi khoai ăn bữa phụ như thế, cũng được xếp vào loại
gia đình khá giả. Khoai khô nấu với đậu xanh, ăn vừa ngọt vừa bùi. Võ Đức Nội
vẫn thường thích ăn món này. Nhưng do tuổi già, chất nhờn trong họng khô dần đi,
nên thỉnh thoảng ông lại nghẹn. Ăn mà hay nghẹn thì sống cũng chẳng được bao năm
nữa. Nghĩ cũng tiếc đời. Bây giờ mình còn khổ, nhưng ngày mai hẳn sẽ sung sướng
hơn. Thằng con ông, từ khi có "khoán mười", nhận được khoán mấy sào ao thả cá.
Hắn tính một năm thu lãi mấy triệu đồng. Lại còn thằng cháu đích tôn cũng ngoài
hai mươi, có sức khỏe và chịu lăn lộn với đồng ruộng, thế thì chẳng mấy chốc mà
khá lên. Nếu kinh tế mà khá lên, ngoài bảy mươi tuổi như ông, sáng có một bát
cháo trứng gà, trưa ăn xôi với thịt thủ, chiều làm một ly rượu để ngủ, thì còn
phải mong ước gì nữa. Nghĩ tới ngày mai sung sướng mà ông thấy buồn cho miếng
khoai khô nấu lẫn với đậu đang còn tắc trong cổ ông.
Chán mớ đời. Ông quay ý nghĩ về cái cày hỏng nằm ở ngoài sân. Nếu chẳng
may vì nghẹn khoai mà nằm xuống tức thì, thì thật vô lối. Mà thiên hạ người ta
lại cười cho, rằng "Dao sắc không gọt được chuôi". Nhưng mà thôi, hãy cứ đánh
một giấc cái đã.
Giấc ngủ của người già vốn không bao giờ sâu, và thường hay mộng mị.
Trưa nay, lão Võ Đức Nội cũng mộng mị. Từ cái cày hỏng, đến cái đồng hồ tự nhiên
gáy lên rồi hỏng, suy nghĩ của ông kéo về gia phả chín đời nhà ông.
Dưới thời Lê Thánh Tông, giặc giã, lụt lội xảy ra liên miên, nhiều vùng
nông thôn đói kém. Vua sắc chiếu cho phép dân đinh tự do tìm chỗ làm ăn. Họ Võ
Đức nhà ông, quê tận dưới vùng trũng làng Vũ Đại, được chiếu, đã chia người nhằm
hướng rừng phía tây đi lên. Sau mấy ngày dắt díu nhau đi, đoàn người đã đến Ba
Bông thì lại chia thành ba đoàn. Đoàn của nhà ông đi theo dòng Vũ Đại, ngược
lên. Đi thuyền tiếp bốn ngày nữa, đoàn người gặp một cái chợ bên rìa sông - chợ
Găng - thì cắm lều ở lại. Sau một thời gian khai hoang, phát rậm và cày cấy vài
vụ, thấy làm ăn được, đoàn người lang thang cầu thực nhà ông quyết định ở hẳn
đây. Ông Võ Đức Công - tổ của họ ông - đặt cho xóm mới này cái tên vừa gợi nhớ
quê cũ, vừa thể hiện một xóm mới: Đại Vũ.
Ông Võ Đức Công lập nghiệp ở đây một thời gian thì được tin họ Võ Đức ở
Vũ Đại bị họ Chí cướp đất. Ông Võ Đức Công đã phải quay lại xóm cũ, tổ chức kiện
họ Chí. Vụ kiện kéo dài tới mười năm, họ Võ mới lấy lại được đất. Ghi nhớ công
lao của ông Võ Đức Công, ở Vũ Đại hiện vẫn còn đền thờ ghi nhớ công đức của ông.
Hiện cả họ Võ Đức ở Vũ Đại và họ Võ Đức ở Đại Vũ vẫn thường kể cho nhau nghe
những chuyện này, với một lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc. Chuyện này tính
tới nay đã được năm trăm năm.
Nếu tính thời gian bằng chiếc đồng hồ "quạ mổ" thì năm trăm năm không
biết là bao giờ? Một giờ có sáu mươi phút, không biết là bao nhiêu phút? Một
phút có sáu mươi giây, không biết là bao nhiêu giây? Nhưng nếu tính bằng việc
thì ông tổ nhà ông đã để lại hai việc: Một là lập xóm mới ở làng Đại Vũ; hai là,
lấy lại đất bị nhà họ Chí chiếm.
Ông Võ Đức Công chết đi để lại một người con trai tên là Võ Đức Minh.
Ông này có sức khỏe hơn người. Chỉ có đôi tay, cái cuốc, cái cày, cái bừa, với
một con trâu mộng, trong một thời gian ngắn đã khai hoang được mấy cánh đồng
rộng lớn. Gia phả nhà ông có ghi lại chuyện này: "Ông có rất nhiều ruộng, cho
nên lúc nào trong nhà cũng mướn thêm vài chục nhân công để làm. Bò lúc nào cũng
dư vài chục con. Thóc trong nhà lúc nào cũng đầy cót, đầy bồ". Sau, ông theo nhà
Trịnh, phù Lê diệt Mạc. Bao nhiêu của cải của ông đều hiến tất. Đến cuối đời ông
lại thành nghèo.
Qua hai đời nữa, họ Võ chẳng có gì đáng nói. Nghĩa là cũng chỉ bám đít
trâu kiếm ăn lần hồi. Nghe nói thời nhà Nguyễn, chúng nó đánh thuế nặng lắm, nên
nai lưng ra làm, đủ ăn là khá lắm rồi.
Bố ông cũng là người tiếp thu một gia sản nghèo nhất của họ ông từ trước
để lại. Rất nhiều lần ông đã nguyền rủa cái họ nhà ông không tìm lối khác mà
sống, cứ khư khư ôm mãi cái cày chìa vôi với cái đít con trâu để chịu khổ. Ông
đã bỏ làng ra đi. Trước khi đi ông tập trung cày bừa, cuốc xẻng thành một đống,
đái lên và ném rơm khô vào đốt. Gian nhà năm gian của ông cũng cháy vào dịp đó
với gia phả sáu đời. Xóm Đại Vũ hiện vẫn còn nhắc chuyện này như một chuyện xấu
đối với nghề nông. Và như vậy, họ Võ đã phạm vào điều kiêng kị của nhà nông, nên
không thể làm ăn khấm khá trên lĩnh vực nông nghiệp được.
May mà có cách mạng. Tổ đổi công, hợp tác xã, rôm chuyện
quá. Mới mấy năm có phong trào mà máy cày, máy kéo đã về làng. Đèn nhà ai nhà
nấy rạng: chạy đi. Bờ nhỏ, bờ to phá đi để con trâu sắt băng băng đường cày. Gì
nhỉ? "Ớ con trâu sắt chị em ơi!" Vui quá! Cứ tưởng đôi mắt người mấy nghìn năm
bám vào đít trâu sẽ hết. Bò nuôi chỉ cốt lấy thịt, lấy sữa, làm tái chanh. Cảnh
mấy con mẹ đàn bà chuyên "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" cũng sẽ chấm dứt.
Có máy cày rồi thì có máy cấy, máy gieo hạt… Nông thôn sắp thành thành thị. Nông
dân tất thảy thành công nhân. Ôi chao! Nghĩ mà sướng, mà tràn trề hạnh phúc
tương lai. Nhưng rồi hỏng hết cả. Máy cày to, máy cày nhỏ đều lần lượt trở thành
đống sắt vụn. Mấy tay cán bộ dòng họ Chí, phần thì chia nhau, phần thì đánh chén
sạch hết. Chẳng biết tại cái gì nhỉ? Tại cán bộ hay tại nhân dân? Đến hợp tác xã
bây giờ cũng tan. Người ta bây giờ lại lo lại từ đầu. Cái cày, cái bừa, mảnh
ruộng, con trâu chẳng khác gì trước, nó vẫn cứ là đầu cơ nghiệp. Cái cày từ tổ
tiên ông cũng là cái cày ngày nay ông cày. Còn cái đít con trâu, cũng chẳng khác
hơn.
Chẳng lẽ một đời ông để lại những điều vô lý đó. Ông đã
ngoài bảy mươi tuổi, so với tổ tiên tuổi ông không kém. Thế mà định để lại một
cái cày chìa vôi cũng không xong. Bất ngờ, ông thấy nhục với tổ tiên. Gia phả
còn ghi rất rõ ràng: Chỉ có đôi tay, cái cày chìa vôi, với con trâu mộng mà cụ
Võ Đức Minh đã khai hoang được mấy chục mẫu đất, thóc đầy bồ này, cót kia. Chẳng
lẽ con cháu ngày nay lại thua cha ông ngày trước?
Nhưng ở cái xóm Đại Vũ này, thời mà cụ tổ nhà ông đến
đây lập nghiệp, đất còn rộng mênh mông, ai có sức phát cây là có đất. Chứ nay,
xin được miếng đất làm nhà cũng đã khó, còn đâu mà khai hoang.
Có thể đòi lại ruộng đất của nhà ông đã có trước đây
được không? Như gia phả ghi thì đất của xóm này ngày xưa đều là đất của nhà ông
cả. Đến khi vào hợp tác xã thì chẳng còn là của ai nữa. Bây giờ trên lại chia,
trả lại cho mỗi nhà mấy sào. Nghe nói kiện mà lấy được đất. Giá mà lấy lại được
toàn bộ đất đai đó làm vốn cho thằng cháu đích tôn, thì cơ may thóc đầy cót, đầy
bồ của nhà ông mới có thể thực hiện được. Nhưng tiệt nỗi gia phả nhà ông lại
cháy cách đây gần một trăm năm rồi.
Võ Đức Nội choàng dậy, khi có người vỗ vỗ vào mu bàn
chân.
- Ai đấy?
- Dạ. Con đây ạ.
- Con mẹ cái Tĩn phỏng.
- Dạ con đây.
- Có chuyện gì không?
- Dạ thưa ông! Nhà con hết gạo mấy hôm nay, ông thương cho nhà con vay
mấy bát gạo cứu đói.
- Hết gạo thì ăn khoai, ăn rau, ăn cháo. Nhà ông cũng đang phải ăn khoai
đây.
- Con nói hết gạo là hết nhẵn mọi thứ. Ông làm phúc cho con vay mấy bát
khoai cũng là phúc cho con lắm ạ.
- Nhà chị khỏe lắm cơ mà, lại là chỗ thân tình với nhà tay Chí, sao lại
năm nào cũng cắp rá đi vay?
- Thì ông tính, năm nào con cũng nai lưng ra, chả biết thóc nó cứ đi
đằng nào?
- Khổ - Võ Đức Nội than thầm - Nhà mình khổ. Ấy mà có đứa còn khổ hơn.
Ông nói với chị hàng xóm.
- Đợi anh cháu dậy, chứ tôi đâu có quyền cho nhà chị vay.
- Ông ơi! Hôm trước con đã vay của anh cháu rồi. Cũng chả định tới,
nhưng con đi khắp cả làng không vay được ai. Thấy có ông ở nhà con mới dám
vào.
- Đã vay rồi hử? - Võ Đức Nội chừng như nhấn mạnh thêm - Đã vay rồi,
thôi. Có đâu mà cho chị vay mãi?
- Ông thương gia đình con. Chị hàng xóm cầm cái rá dúi vào tay Võ Đức
Nội. Võ Đức Nội gạt nhẹ ra mấy lần nhưng rồi phải miễn cưỡng cầm lấy. Nhìn đôi
gò má đen, nhăn nheo hốc hác, lời nói cầu khẩn thống thiết như sắp chết đến nơi
của chị hàng xóm, Võ Đức Nội cũng không thể ngoảnh mặt làm ngơ. Họ cũng là con
em của những người đầu tiên đến lập xóm mới này. Lời thề sống chết có nhau bất
ngờ sống dậy trong ông.
Bất ngờ thằng cháu trai của ông thức dậy. Chị hàng xóm giật vội cái rá,
luồn qua cửa sau, chuồn mất. Thằng cháu ngay lập tức oang oang hỏi
ông:
- Ông đã sửa xong cày cho cháu chưa?
Võ Đức Nội từ trong nhà nói vọng ra:
- Chưa.
- Thế là mất toi một buổi cày. Ông đã xem cẩn thận chưa?
- Đã - Ông trả lời.
- Thế ông đã xem cái diệp cày chưa?
"À, à. Có lẽ tại cái diệp cày". Thế là ông vùng ngay dậy. Chỉ đảo mắt
một cái, ông đã biết ngay tại cái diệp cày. "Nó cong quá!". Ông lẩm
bẩm:
- Chả trách, chả trách! Không ngờ, không ngờ. Đúng là cái diệp cày. Nó
cong như cái bánh đa nướng thế này thì cày làm sao được. Thôi, tháo ra, đem lên
hợp tác xã mua bán mà đổi. Hiện đại, có cái diệp cày cũng đếch ra
sao.
Nghe thế, thằng cháu ông cáu liền:
- Đổi, đổi cái đéo gì được ông. Hợp tác xã mua bán chúng nó chuyên sống
bằng cái nghề bán hàng rởm. Đời nào chúng nó cho đổi. Mất toi năm nghìn bạc. Ông
đưa cái búa đây. Triều đại của cụ Chí là thế, ông còn chưa thấy
sao?
Thế là nó cầm búa đập thật mạnh vào cái diệp cày còn đang nằm ở theo
cày. Cái diệp cày làm bằng gang non, vỡ ra từng mảnh. Thằng cháu ông
nói:
- Cần đéo gì phải có diệp cày, hả ông?
Câu nói của thằng cháu trai như đánh thức tiềm năng to lớn của nghề
nông, làm ông run bắn người lên. Nó nói quá phải, cần gì cái diệp cày cong. Cách
đây chín đời, cụ tổ nhà ông có biết cái diệp cày là cái gì đâu, thế mà có lúc
trâu bò một đàn, thóc đầy bồ nọ, kho kia.
- Phải! Cần đếch gì cái diệp cày. Cứ thế mà cày! - Võ Đức Nội cùng khẳng
định. Và như vừa giải xong một bài toán khó, ông cháu ông cùng hả
hê.
Đối với Võ Đức Nội, sự kỳ lạ lại xuất hiện. Cái đồng hồ "quạ mổ" mới nằm
yên một lúc, theo đúng dự đoán của ông lại bắt đầu chạy. Tiếng "tích tắc, tích
tắc" vẫn đều đều như mọi khi; cái con "quạ mổ" vẫn mổ, cần mẫn, vô tư như chưa
bao giờ biết mệt mỏi.
Chẳng có gì thay đổi suốt chín đời. Ngày mai, khi gà gáy giữa ban ngày,
sẽ lại là mười hai giờ trưa.
Chẳng biết mẹ Âu Cơ có biết được chuyện này không?
(Hết phần V). Còn tiếp
Phạm Thành: Hậu Chí Phèo và Dư luận, phần VI: Thuốc thần làng Vũ Đại (tiếp theo phần V).
Posted on Thứ sáu, ngày 08 tháng sáu năm 2012 by Bà Đầm xòe
Từ xưa, làng này gọi là làng Ốc. Đến thời ông Nam Cao mới đổi tên thành làng Vũ Đại. Từ hồi cách mạng thành công đến nay, làng Vũ Đại vẫn là làng Vũ Đại.
Võ Đức Bá, thường gọi là lão Bá, là người hay chữ có tiếng ở làng Vũ Đại. Nghe nói, từ thời Tây, lão đã đọc thông viết thạo Eng-Lich, Phờ-răng-xe, và cả Lăng-lủng-trẻo nữa.
Nhưng đã hơn mười năm nay, tủ sách của lão để cho lũ nhện tự ý giăng tơ. Hơn mười năm nay, lão bỗng dưng mang bệnh. Bệnh lão là bệnh gì? Thực, dân Vũ Đại không được tường tận cho lắm. Chỉ cùng nhau xác nhận: Gặp ai, lão cũng giương mục kỉnh ra nhìn, và thỉnh thoảng mở miệng cười mà không thành tiếng.
Nhưng, dân Vũ Đại thật cũng không mấy ai ngờ, một ngày kia, bệnh lão khỏi hẳn.
Dù khi lão còn điếc, tai lão đục, mắt lão mờ, dân làng Vũ Đại vẫn thừa nhận gia thế lão thuộc loại danh giá nhất. Thời cách mạng này, con lão: đứa giáo viên, đứa kỹ sư, đứa sinh viên đại học; còn thằng con trưởng của lão thì khỏi nói: đại tá, bác sĩ quân y.
Hồi lão đổ bệnh, con cái lão chạy chữa ghê lắm. Thuốc đông, thuốc tây, điện tâm đồ, ướp khô, ướp lạnh, châm cứu Đông, Tây y kết hợp, thôi thì đủ cách, đủ trò. Dân Vũ Đại nghĩ: "Con cái lão tận tâm, tận lực như thế, có tứ chứng nan y cũng phải sợ mà đi". Ấy thế mà bệnh của lão cứ không khỏi. Lạ thế, cứ như đài, báo cho biết thì cái bệnh của lão có "nan y" gì? Thế mà, từ nhà ra trạm xá, lên bệnh viện huyện, bệnh viện tỉnh, đến cả trung ương, rồi lão lại trở về nhà, bệnh tình vẫn không thuyên giảm.
Vậy, lão mắc bệnh gì? Thằng con trưởng, đại tá, bác sĩ quân y từng chữa bệnh cho hàng trăm người, đã từng moi óc, moi tim hàng trăm người, nói rằng: lão rối loạn thần kinh, lục phủ ngũ tạng bất ổn định. Nói gọn lại là lão rối loạn cơ địa. Để cho dễ hiểu, thằng con trưởng giải thích thêm: đại khái bệnh của lão như bệnh của gà bị mắc tóc. Muốn cho gà khỏi bị mắc người ta không thể gỡ từng cái tóc ra khỏi chân gà, mà thường phải dùng dao, hoặc kéo cắt nó đi. Lão Bá cũng đang bị mắc như vậy. Nhưng lão Bá là con người, dùng dao, dùng kéo cắt mổ cái mớ bòng bong ấy, rồi sau đó mới sắp xếp lại thì còn gì là người. Bởi vậy, y học đành bó tay. Với lại, lão Bá già rồi, có thấy được, nghe được, nói được cũng thế thôi. Con cái cứ chăm sóc lão cho tốt vào là trọn chữ hiếu rồi. Con hàng đàn, cháu hàng đống, lo cho cả, sợ gì!
Thế là mấy chục năm nay lão mang bệnh ở trong người. Mắt lão vẫn mở đấy, nhưng lão có thấy gì không, cũng không mấy người dám chắc. Miệng lão vẫn cười đấy, nhưng có ai nghe rõ tiếng cười của lão không, cũng không mấy người dám chắc. Một đồn mười, mười thành một trăm, một trăm thành một triệu rằng: Đã từ lâu, lão Bá bị điếc, bị mù, bị câm.
Thế rồi, một hôm, lão Bá đang ngồi trước hiên phía Đông hóng mặt trời, bất ngờ nghe có tiếng reo ầm ĩ từ ngoài đình dội vào. "Chuyện gì thế? Làng Vũ Đại vài chục năm nay có ầm ĩ như thế nữa đâu!". Tiếng reo càng gần lại và hình như đang tiến về phía ngõ nhà lão. "Đúng rồi!" - lão thầm khẳng định. Khi tiếng reo và đám đông đến gần nhà lão, theo thói quen, lão giương mục kỉnh ra nhìn. Lão thoáng thấy một con lợn bị cạo trọc đầu, đang lắc lư trên chiếc xe bò. "Hì! Hì! Lạ thế!" - Lão muốn phì cười. Lão muốn cười thật. Bọt mép trên miệng lão bắt đầu phì ra. "Hừ. Hết trò. Thật hết trò. Xe bò chở thóc, chở phân bây giờ lại chở lợn trọc đầu đi đâu thế này? Xe bò để bò kéo, bây giờ lại người kéo thay bò. Hết trò! Thật hết trò! Tức cười thật!" Và cổ họng lão lục bục, khúc khắc ho.
Vợ lão, người đàn bà nhân hậu, theo thói quen đến ghé miệng vào tai lão thì thầm:
- Cụ Chí bị đấu đấy.
- Cái... cái... gì? - Tiếng lão Bá nghèn nghẹn.
- Cụ Chí bị đấu đấy- Vợ lão nhắc lại.
- Đấu... đấu - Lão Bá nấc lên.
- Ông nghe đài, đọc báo suốt ngày mà không thấy à?
- Thấy... thấy... cái gì?
- Cái gốc, cái cành gì đó! Đài nói bấy lâu nay mà!
- Đài... đài nào?
- Đài Vũ Đại chứ còn đài nào? Ông Võ Đức Nội đánh đổ cụ Chí đấy.
Lão Bá như bị lò xo ép lâu ngày, đứng phắt dậy, tay chém chém vào không khí, miệng lầm bầm:
- Đáng kiếp cho tay Chí. Thế chứ! Thế chứ! Cái lão mọt dân ấy. Lẽ ra hắn phải bị đánh đổ từ lâu rồi mới phải. Được! Được lắm! - Thế rồi nước mắt lão Bá chảy tràn xuống hai gò má từ lúc nào. Lão cười. Những sợi râu bạc của lão bần bật rung lên.
Vợ lão cũng cười theo. Rồi tiếng cười của bà đột ngột ngừng lại. "Đúng. Ta vừa nghe lão nói". Bà ngạc nhiên tới cao độ. Bà vừa chạy ra cổng, vừa reo ầm lên:
- Ới làng Vũ Đại ơi! Ông nhà tôi nói được rồi. Nói được rồi!...
Trước sự mừng vui quá mức của bà vợ, lão Bá phải vội vàng gạt lệ, đứng dậy, quát với theo:
- Bớt, bớt cái mồm lại. Bà tưởng lâu nay, tôi mù, tôi câm, tôi điếc đấy hẳn?
Tin lão Bá nói được, nghe được lan nhanh khắp dân làng Vũ Đại. Nhiều người vui với tin này. Nhưng vui nhất vẫn là dòng họ Bá của lão Bá. Niềm vui như niềm vui chiến thắng. Bao nhiêu thuốc thang không khỏi. Thế mà tự nhiên lại nói được, nghe được, nhìn được. Thế mới gọi là người chứ. Là người, ngoài tứ khoái ra, phải nói được, nghe được, thấy được, rồi đánh giá, bình luận phải, trái, trước, sau, hơn thiệt... Ngược lại, chỉ biết ăn cho đầy bụng, nặng cân béo tốt; mặc cho lịch sự, hào nhoáng khoe "mẽ" với đời, thì chỉ như cái giá khoác áo, hoặc cái túi đựng cơm, mai sau đều chết đi cả, phí phạm công sinh thành lắm.
Họ nhà lão điện tứ phương cho con cái lão. Thế là, những đứa con chí hiếu lục đục kéo về. Sự kiện này, chắc có liên hoan to. Đúng. Họ Bá có liên hoan to. Nội, ngoại, thân thích xa, gần, bè bạn thân sơ đều có thiếp mời đủ mặt. Đến tay Chí mà lão Bá ghét cay, ghét đắng cũng được mời nữa là...
Tay Chí lúc đầu cũng không muốn đến. Nhưng thằng trưởng, đại tá, bác sĩ quân y đến tận nhà mời, tay Chí không thể không đến. Tay Chí tức, không phải vì lão Bá xưa nay chẳng xem tay Chí ra gì, mà còn hiện nay, con cháu làng Vũ Đại cứ xì xào bàn tán, cho rằng: tay Chí bị mất chức nên lão Bá mới nói được.
Có chén, cuộc liên hoan đã vui lại càng thêm vui.
Khi người ăn đã no, uống đã say về vãn, thằng con trưởng, đại tá, bác sĩ quân y mới đi giày đinh đến trước mặt lão Bá, cung kính:
- Thưa bố! Bố có thể cho biết, vì sao bố bỗng dưng nói được không ạ?
Lão Bá cười khà khà. Đại tá vòng tay trước ngực có ý đợi câu trả lời. Thấy lão Bá lại đưa tay cầm chén rượu và nhẹ nhàng đưa lên môi, đại tá giục:
- Thưa bố! Vì sao bố lại nói được?
- Cái tay Chí. Cứ hỏi cái tay Chí...
Tay Chí cùng ngồi mâm với lão Bá, nghe thế phản ứng lại liền:
- Sao lại hỏi tôi? Bệnh ông, ông khỏi, sao lại hỏi tôi?
Lão Bá thấy thế lại càng cười mạnh, chòm râu bạc trên cằm càng rung mạnh hơn. Đại tá vẫn giục:
- Có phải cái điện châm và bài thuốc "cải bặt, quy ngôn" của con ngày trước, bây giờ mới ngấm không ạ.
- Anh cứ hỏi cái tay Chí ấy. Làng Vũ Đại ai mà không đồn ầm lên.
Tay Chí nghe thế, mắt trợn lên, dằn chén rượu xuống giữa mâm, gay gắt:
- Tôi đéo vào liên hoan nhà ông nữa. Uống chén rượu mừng ông mà cứ tức anh ách. Bệnh ông, ông khỏi. Tôi biết đếch gì. Sao lại hỏi tôi? - Nói rồi, cụ Chí quay ngoắt người về phía sau, thả chân xuống giường tìm dép. Thấy thế, râu lão Bá lại càng rung dữ hơn.
- Ấy, ấy..., chờ đó, - Lão Bá xua tay - ngồi lại, tôi nói đây. "Dẫy (Dĩ) dân vi bản". Mi làm lãnh đạo mà bấy lâu nay mi ngu. Mi cứ tưởng mi là nhất ở cái làng Vũ Đại này. Mi cậy cái thâm niên lãnh đạo của mi. Mi hãy xem dân tình...
- Này. Lão Bá - Tay Chí cướp lời - Ông định nói tôi thế nào thì ông cứ nói toạc ra đi. Đây đếch biết cái "Dẫy (Dĩ) dân vi bản. Nhất cứ vi sư, bán cứ vi sư" là cái củ khoai gì. Dù sao thì cái thằng trưởng, thằng hai, thằng ba nhà ông cũng là tay tôi phê duyệt...
- Đúng đấy, bố ạ - Đại tá đế vào - Nhà mình được như thế này công bác Chí đây lớn lắm ạ. Bố cứ nói toạc ra. Con là con nhà lính cũng thích thế.
Như bị gáo nước lạnh dội vào người, lão Bá ngồi lặng đi. Lão giương mục kỉnh lên nhìn chằm chằm vào đại tá. Lão nói với đại tá, giọng rầu rầu:
- Cả anh cũng như tay Chí này sao?
- Con cũng thích thế. Bố cứ nói toạc ra, chúng con biết, để còn...
- Toạc. Toạc - Lão Bá như gầm lên, hùng hồn. - Mấy chục năm xa tao, mày quên "Dẫy (Dĩ) dân vi bản" là cái gì à? Tàu nói à? Tây nói à? Không đâu! Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, cụ Nguyễn Trãi chẳng nói sao? Mày thích bố mày nói toạc. Tao nói toạc cho mày hiểu một lần nữa. Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân. Dân là gốc, là cái cơ sở. Khi gốc đã mục thì cành lá tươi xanh làm sao được? Phải biết cái gốc của người nó ở đâu. Nói toạc. Mày muốn tao nói toạc, tao nói toạc đây? Cái thằng Chí đây - lão Bá chỉ thẳng tay vào mặt cụ Chí - nếu không có "Dẫy (Dĩ) dân vi bản", thì hắn còn đè dầu, cưỡi cổ dân làng Vũ Đại tới bao giờ nữa?
Trong khi lão Bá nói, tay Chí cũng chỉ cười cười. Đến khi lão Bá chỉ thẳng tay vào mặt, thì tay Chí cũng lại cười mạnh hơn. Đến nỗi, chiếc dép nơi chân hắn xỏ, định đi về nhà, bị tung lên và bất ngờ rơi vào giữa mâm rượu, nơi tay Chí và lão Bá đang ngồi. Cùng lúc tay Chí ngoái cổ lại, tay cũng chỉ thẳng vào mặt lão Bá:
- Lão Bá chớ có mừng vội. Mắt lão đã nhìn được, hãy xem cái gì đây? - Nói rồi, tay Chí xòe ngay ra một tờ giấy tới sát mặt lão Bá. Thuận mắt, lão Bá giương mục kỉnh ra nhìn. Một tờ giấy đỏ có dấu của công an gọi lão Võ Đức Nội lên trụ sở. Mặt lão Bá biến sắc, giọng run run:
- Gọi lão Võ Đức Nội lên để làm gì?
- Lên để chịu tội vu cáo tôi, chứ còn làm gì nữa - Mặt tay Chí vênh lên.
- Vu cáo ai? - Giọng lão Bá tắc nghẹn.
- Vu cáo tôi, chứ ai? Tôi bị nó vu cáo là mọt dân, là cường hào mới. Huân chương tôi còn, Đảng tôi còn, thế mà dân Vũ Đại dám láo, bảo tôi là cường hào mới, là mọt dân. Đừng thấy tôi nghỉ chức rồi mà mừng. Bí thư, chủ tịch bây giờ cũng nơi bàn tay tôi đào tạo mà ra cả. Những đứa đi kiện, rồi có ngày. "Con kiến mà kiện củ khoai". Sức chi...
- Bao giờ thì Võ Đức Nội bị bắt? - Lão Bá hỏi lại tay Chí.
- Ngay ngày hôm nay - Tay Chí khẳng định.
Lão Bá chừng như vẫn chưa tin ở đôi mắt mờ đục của mình, đưa giấy cho đại tá xem, và hỏi:
- Có đúng không đại tá?
- Theo giấy này thì đúng đấy bố ạ.
- Trời ơi!... Trời đất ơi! Tôi nhầm!!! Tôi nhầm rồi!!!
Lão Bá khóc rống lên như một con trâu đang bị cắt tiết. Từ miệng lão một cục máu hồng trào ra. Đang ngồi xếp bằng tròn trên chiếu rượu, lão Bá ngã gục mặt vào giữa mâm rượu. Kính lão đập vào bát canh, vỡ tan. Một số mảnh vỡ chọc vào mi mắt lão. Lão bất tỉnh nhân sự ngay. Con cái lão vực ngay lão dậy. Tay Chí thấy thế, bỏ dép chạy thục mạng ra ngoài cổng. Đêm tối như mực, tay Chí vẫn chạy ra đúng cổng, mất hút. Lũ chó nhà lão Bá chưa kịp sủa lên một tiếng.
Cấp cứu suốt đêm thâu, lão Bá dần dần tỉnh lại. Nhưng một ngày, hai ngày, ba ngày..., mắt lão vẫn không chịu mở ra. Thỉnh thoảng thằng con trưởng đại tá, bác sĩ quân y lại phải banh mắt lão ra xem con ngươi lão còn tụ hay đã tán. Cũng từ đó, miệng lão lại im bặt trở lại.
Lại thuốc thang các kiểu, lại châm cứu các trò, nhưng mắt lão vẫn cứ nhắm, miệng lão không nói được nửa lời, một tay, một chân và một nửa người lão không cử động được. Lão bị bán thân bất toại.
- Thật khổ! - Vợ lão than thở - Chỉ tại cái tay Chí mà ra, tranh luận mà ra cả! Mười năm bỗng dưng nói được. Nói được, bỗng dưng lại im bặt - Bà nấc lên - Khổ cái thân ông - Bà mếu máo nói với thằng con trưởng:
- Con ơi, hay là nhà mình có động mồ, động mả gì? Để mẹ dọn lại cái bát hương, mời thầy cúng tới. Nói rồi, bà đưa tay lên với cái bát hương. Thằng con trưởng thấy thế, quát:
- Cúng, cúng cái gì? Mẹ chỉ độc nghĩ chuyện vớ vẩn.
Bà Bá nghe tiếng quát thì giật mình. Cái bát hương thờ tổ tông đang cầm trên tay bất ngờ rơi xuống nền nhà vỡ tan.
Đại tá, ngay lúc ấy, thoáng thấy lão Bá hình như có giật mình. "Kỳ vậy! Hay là nhà mình có động mả thật!. Mời thầy cúng đến cúng thử xem? " - Tay đại tá, bác sĩ nghĩ vậy trong tư thế bần thần, đứng lặng. Rồi bất ngờ, đại tá đưa tay lên sờ vào ve áo. Ở đó có gắn quân hàm với hai gạch bạc và bốn sao trên nền đỏ. "Nhà mình trí thức cả, cúng bái còn ra thể thống gì?". Đại tá kiên quyết không cúng bái. "Nhưng tiếng động đã làmâlõ Bá giật mình, ta thử chữa bằng tiếng động xem sao". Đại tá bảo mẹ:
- Mẹ, đưa cái nồi đất ra đây cho con.
Mẹ đại tá run run, hỏi lại:
- Nồi đất nào?
Đại tá:
- Nồi đất, cái của gia bảo của nhà ta ấy.
Mẹ đại tá chưa hiểu đại tá cần nồi đất gia bảo của bà, chồng bà, của cả dòng họ nhà bà để làm gì. Nhưng bà vẫn vào trong buồng lấy ra.
Đại tá bình tĩnh cầm chiếc nồi đất trong tay, giơ lên cao rồi dứt khoát ném mạnh xuống nền nhà. Tiếng nồi đất vỡ, vang lên độc một tiếng "bụp".
Lúc đó, chính đại tá nhìn thấy đôi tai lão Bá hình như có rung rung và đôi mắt có nhay nháy. Đại tá không hề biết mẹ đại tá lúc đó đang tan nát cõi lòng. Lòng bà cũng đang "vụn" ra như chiếc nồi đất gia bảo. Nó không phải của đời bà, vợ chồng bà, nó là của ông cụ, ông kỵ, ông tổ, ông tiên, đời đời, lớp lớp của dòng họ Bá.
Đại tá bảo mẹ:
- Mẹ ơi, cái lư hương đồng mắt cua của nhà ta đâu?
Đại tá không nghe thấy tiếng mẹ trả lời. Đại tá ngước mắt lên nhìn mẹ và thấy mẹ đang khóc. Đại tá ngạc nhiên, an ủi mẹ:
- Nhà ta chẳng động đất, động nước gì đâu. Có thể con sẽ chữa khỏi bệnh cho bố bằng cách dùng âm thanh tác động vào thính giác của bố. Mẹ thấy không, cái bát hương vỡ, tai bố rung, mắt bố nhay nháy; cái nồi đất vỡ thì tai rung và mắt nháy mạnh hơn; cái âm thanh của cái lư hương đồng phải to hơn, mắt bố không chỉ nháy và tai không thể chỉ rung rung.
Mẹ đại tá sụt sịt:
- Anh là bác sĩ, anh hơn tôi, chứ tôi thì biết gì.
Nghe mẹ nói thế, đại tá vững tin hơn, đưa tay lên bàn thờ lấy cái lư hương đồng mắt cua. Đại tá dứt khoát:
"Choang" - Tiếng lư hương đồng mắt cua va xuống nền gạch.
"Choang" - Lại một tiếng nữa.
"Choang" - Lại một tiếng nữa.
"Choang" - Lại một tiếng nữa.
"..." - Tiếng nữa
"..." - Tiếng nữa.
Đại tá đánh vật với cái lư hương đồng mắt cua cho tới khi nó chỉ còn là cục đồng mang hình thù kỳ quặc. Mồ hôi đại tá túa ra. Nhưng bệnh câm, liệt của lão Bá vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm cơ bản. Lúc lư hương đồng mắt cua "choang choang" nện xuống sàn nhà, toàn thân của lão Bá chỉ rung lên, giần giật như một người bị tai nạn xe máy, hoặc ô tô đang giẫy chết. Đại tá đứng lặng suy nghĩ. Mẹ đại tá đứng trong buồng ra nói với đại tá:
- Con ơi. Con lấy cái mâm đồng với cái dùi sắt mà gõ có hơn không?
Đại tá như tỉnh ra.
- Đúng! Mẹ mang mâm đồng ra đây cho con.
"Pheng... pheng... pheng... pheng... pheng... pheng..." - ba tiếng một, dùi sắt trên tay đại tá gõ liên hồi, mắt đại tá chăm chú nhìn vào lão Bá. Lạ chưa, như nghe được âm thanh thúc giục, toàn thân lão Bá rung lên theo nhịp gõ.
Đại tá thấy có hy vọng. Dùi trên tay đại tá gõ liên hồi. Nhưng gõ mạnh và nhanh đến mấy, thân lão Bá cũng chỉ rung rung, không ngồi bật dậy được. Đại tá mệt lử, mồ hôi chảy ròng ròng trên má. Đại tá ngồi bệt xuống đất, hai lỗ mũi thi nhau "phì phò". Đại tá suy diễn: "Nhất định lão Bá chưa thể chết được. Nhưng chẳng lẽ cứ duy trì sự sống của lão Bá bằng những âm thanh chói chang liên hồi, sức đâu? Của gia bảo lấy đâu cho đủ? Bỗng đại tá đứng phắt dậy. Đại tá có sáng kiến mới:
- Mẹ! Con bắn súng lục qua tai bố thử xem. Nếu tiếng mâm đồng làm cho bố rung toàn thân, thì nghe tiếng súng lục, nhất định bố phải ngồi dậy được.
Nói rồi, khi mẹ đại tá mới chạy ra đến bậu cửa đã nghe thấy tiếng súng lục nổ: "đoàng, đoàng, đoàng".
Đúng như đại tá, bác sĩ quân y dự đoán, lão Bá trong khi hốt hoảng đã ngồi bật dậy và mắt lão hé mở, miệng lão ú ở nói một tiếng gì đó. Nhưng khi tiếng súng đã biệt tích vào không trung, lão Bá lại ngã ngửa đánh "uỵch" xuống giường. Mắt lão lại nhắm lại. Miệng lão lại câm. Bán thân vẫn bất toại.
Đại tá thay mấy bộ quần áo, mấy đôi giày mà mồ hôi vẫn túa ra, ướt đẫm cả áo lẫn giày. Đại tá vẫn quyết tâm tăng cường độ âm thanh lên mức cao hơn nữa.
Sau một thời gian chuẩn bị, lão Bá được đặt trên chiếc võng "Trường Sơn" và khiêng tới trận địa pháo. Tại trận địa pháo, lão Bá được binh lính vực dậy và đặt nằm trên chiếc giường bạt, rồi đẩy tới tọa độ của đạn pháo rơi và nổ.
Sau khi lệnh cho pháo thủ kiểm tra các khâu an toàn cho lão Bá, đứng lên bục chỉ huy, giơ cao ngọn cờ lệnh, đại tá dõng dạc hô:
- Bắn!
- Bắn!
- Bắn!
Những viên đạn pháo véo véo vút đi rồi nổ long trời lở đất. Mọi người đến xem vội vạng bịt tai lại. Đại tá cũng phải bịt tai lại, nhưng mắt đại tá vẫn chăm chắm nhìn tới lão Bá. Đại tá thấy lão Bá ngồi bật dậy và miệng mở ra, hét thật to: "Cứu, cứu, cứu...". Mừng quá! Pháo thủ reo lên và đồng loạt rời khẩu pháo cùng đại tá xô đến bên lão Bá! Nhưng, lạ thật! Khi mọi người chạy đến nơi thì lão Bá lại bất ngờ đổ xuống. Qua một hồi khám xét, đại tá thất vọng. Đại tá quỳ xuống đất, chắp tay lạy bố:
- Đến đại bác mà bệnh bố cũng không khỏi. Thưa bố! Chỉ còn nguyên tử, may ra...
Lão Bá được đưa trở về làng Vũ Đại trong bệnh tình nguyên có từ đêm vui. Đối với đại tá, ngày về vui bao nhiêu thì ngày trở lại đơn vị lại buồn bấy nhiêu. Nhưng, biết chữa bệnh cho lão Bá bằng cách gì, và ai chữa được?
Đứa con út của lão Bá, sinh viên khoa văn năm cuối cùng, là người duy nhất
không có mặt ở nhà trong thời gian xảy ra các sự kiện trên. Lúc nhận điện về nhà liên hoan, anh đang bận học để thi môn cuối cùng. Khi mọi người đã đi hết, anh mới về tới nhà. Nghe mẹ kể lại toàn bộ sự việc, anh nửa tin nửa ngờ. Nhưng, ý chí chữa cho lão Bá khỏi bệnh của anh cũng sục sôi không kém ngài đại tá.
Khác với cách chữa bệnh của đại tá, anh sinh viên đã xâu chuỗi lại toàn bộ sự kiện. Và theo phương pháp lần tìm ( truy nguyên) của triết học Mac- Lenin anh đã lần tới cái "nút" của căn bệnh. Anh phán bệnh: "Bố anh nói trở lại được là do một đầy tớ có hạng của làng Vũ Đại bị đánh đổ. Nhưng rồi, chính hắn đã làm cho ông thất vọng. Ông không những bị mù, bị câm, bị điếc trở lại mà bệnh tình còn tăng thêm: bán thân bất toại. Anh nghĩ, bệnh của bố anh phải có thuốc đặc biệt thì mới chữa khỏi được.
Anh quyết chí lên rừng tìm thuốc. Bắt đầu anh đi tìm thuốc ở các loại cây phong lan. Nhưng rồi anh nhận ra, tuy phong lan là loại cây sống nhờ gió, nhưng chúng đều có gốc. Anh lần tới các loại cây tầm gửi khác. Nhiều lắm! Chúng mọc chi chít trên cả thân lẫn gốc những cây đại thụ. Nhưng cũng như phong lan, chúng cũng có gốc, tuy là gốc bám và sống nhờ ở cây khác. Thất vọng, anh khái quát: "Trên đời này không có cây nào lại không có gốc. Không có gốc, chúng sống bằng gì?". Anh đành quay về nhà mà lòng buồn rười rượi.
Một đêm trăng sáng, anh đi loanh quanh trong khu vườn, lòng man mác nhớ tới kỷ niệm tình yêu ngày nhỏ, từ một lối mở nhỏ, nơi bờ rào cúc tần. Tự nhiên lòng anh vang lên lời thơ buồn: "Người xưa đã vắng rồi, ơi bờ rào cúc tần ơi!".
Rồi, theo phản xạ không định trước, anh đưa tay bứt lấy một chiếc lá nơi bờ rào, vò nát nó trong tay. Sau đó, anh đưa lên mũi ngửi: "Ôi! Sao lá cúc tần năm nay hăng xè thế này?Anh xòe bàn tay ra nhìn. Dưới ánh trăng mờ, anh nhận ra trong lòng bàn tay anh không phải là cúc tần, mà là những sợi tơ hồng đỏ. Anh đưa mắt nhìn lướt trên bờ rào cúc tần. "Ôi chao! Sao chúng nhiều thế này". Tơ hồng kết thành từng mảnh dầy, đè nặng trĩu trên bờ rào cúc tần. Những cây cúc tần, thân xanh, lá xanh, cố cụm lại với nhau chống đỡ, nhưng cũng không chịu đựng nổi sức đè nặng của những mảnh tơ hồng. Thuận tay, anh lần tìm gốc của tơ hồng. Anh vô cùng ngạc nhiên thấy tơ hồng là loại cây không gốc. Anh giật mình nhớ ra loại tơ hồng này chuyên sống nhờ trên thân thể của loài cây xanh. Chúng hút tinh chất của cây xanh mà ra nhành ra thân. Lòng anh như reo lên: "Thuốc đây rồi!" Anh vội lao vào nhà tìm sách. Dưới ánh trăng, anh mở sách thuốc ra tìm. Mừng quá! Tơ hồng không những là loài cây không gốc mà còn có tác dụng chữa bệnh thần kinh cho người. "Bố mình bị liệt thần kinh chứ còn gì? "
Lặng lẽ suốt thâu đêm, anh cắt toàn bộ tơ hồng trên bờ rào và kéo hết chúng vào trong sân. Sáng đến, anh dùng dao thật sắc băm chúng vụn ra thành từng đoạn. Sau đó anh đem chúng phơi héo, rồi rang vàng hạ thổ, sắc cho lão Bá uống. Lạ kỳ chưa! Chỉ trong vòng mười ngày uống thuốc, bệnh câm, mù, điếc của lão Bá biến mất hẳn. Lão Bá ngồi dậy, đứng lên, đi lại, ăn nói như người bình thường.
Đấy là một ngày tháng nóng. Mặt trời ban mai mới ló ra đã rực rỡ, gay gắt. Nắm tay người con út, rưng rưng, lão Bá gào lên:
- Hỡi mặt trời! Muốn "Dĩ dân vi bản" thì tơ hồng trời cho phải băm nhỏ cho bàn dân thiên hạ uống cái đã. Kẻo không... Kẻo không... Rồi hai bố con lão Bá ôm ghì nhau mà cười, mà hát, mà rằng:
Cây tơ hồng không trồng mà mọc
Vòi tơ hồng vòi dọc vòi ngang
Ngó sang hàng xóm mách rằng
Tơ hồng không gốc thuốc trời đã ban.
Nghe tin lão Bá khỏi bệnh, cả làng Vũ Đại ngạc nhiên lắm! Cả làng kéo đến xem lão Bá chữa bệnh bằng thuốc gì mà "thánh" thế? Lão Bá quen tính nửa đùa, nửa thật nói với mọi người rằng: "Chữa bằng thuốc đè bờ rào". Hỏi thêm lão: "Thuốc đè bờ rào là thuốc gì? Lão Bá chỉ cười không nói. Có người làng Vũ Đại suy ra cây không gốc là cây tơ hồng. Nhưng phán đoán này bị cả làng vặn lại: "Cây tơ hồng không thể là vị thuốc thánh như vậy!". "Vậy, cây đè bờ rào là cây gì?". Lão Bá cho biết thêm: "Cây đè bờ rào thuộc loại cây không có gốc". Cả làng Vũ Đại ồ lên: "Đích thị là cây tơ hồng rồi". Nhưng rồi vẫn có người vặn lại: "Cây không gốc ở trên đời này thiếu gì, đâu phải chỉ mình cây tơ hồng. Cây tơ hồng không thể "thánh" như vậy được".
Một người nữa nói: "Nếu lão Bá chỉ uống độc mỗi cây tơ hồng mà khỏi bệnh, thì tôi cam đoan rằng, cây tơ hồng nhất định là cây thuốc thần, thuốc thánh".
Cả làng Vũ Đại lại ồ lên! Họ không thể tin như thế được. Lão Bá cậy mình nhiều chữ, hay đùa thiên hạ, chắc hắn ám chỉ tơ hồng với con người chi đây? Tơ hồng nhất định không thể thánh như vậy được.
Tay Chí thấy dân đem tơ hồng đùa vui với lão Bá trong lòng không khỏi lo buồn. Đối với hắn tơ hồng là một vị thuốc độc.
(nguồn_blog_badamxoe)http://badamxoe.blogspot.com/2012/06/pham-thanh-hau-chi-pheo-va-du-luan-phan_08.html#more
---------------------------------------------------------------------------------
Phạm Thành: Hậu Chí Phèo và Dư luận, phần VII: Người hay
quỷ làng Vũ Đại? ( Tiếp thep phần VI).
Posted on
Thứ bảy, ngày 16 tháng sáu năm 2012 by Bà Đầm xòe
Người kể
chuyện sử làng Vũ Đại nhấn giọng:
- Thưa
đồng chí nhà báo, câu chuyện này kể ra có pha hương vị máu. Nhưng, phải thành
thật mà nói, cho đến tận bây giờ, mẹ Âu Cơ vẫn chưa hết sợ khi nhớ về hắn. Chí
là ai? Người hay quỷ? Người lỗi lạc, hay quỷ thần cô đơn, hay một danh nhân độc
ác, hoặc thậm tệ hơn thế.
Hắn, khi
mới lên lãnh đạo, luôn mồm báo cáo với thiên hạ rằng: Hắn có công trình khoa học
thế kỷ. Tinh thần của công trình đó khi chui vào đầu, vào bụng thiên hạ sẽ trở
thành sức mạnh ghê gớm, làm rung chuyển đất nước. Ai đi theo, làm theo nhất định
sẽ được sung sướng đời đời. Đó là công trình tiêu diệt cường hào, ác bá, chia
ruộng đất về cho nông dân. Hắn nói hay quá! Thích quá! Người theo hắn ầm ầm và
quả hắn đã làm nên chuyện rung trời, chuyển đất.
Mẹ Âu Cơ -
Người của thời đẻ ra người còn nằm trong bọc, chỉ hiểu cái công trình khoa học
của hắn một cách lờ mờ. Nhưng nghe mục đích của hắn sẽ làm cho dân làng Vũ Đại
bao đời lầm than sẽ được sung sướng thì khó khăn gì, chịu đựng gì Mẹ cũng giúp
hắn. Mẹ đã giúp hắn và hắn đã thành công. Rồi mẹ trao toàn quyền cho hắn thiết
kế xây dựng làng Vũ Đại mới cho đến bến bờ hạnh phúc.
Nhưng rồi,
thời gian trôi đi, Mẹ cứ cảm thấy thế nào. Nghe hắn nói thì hay lắm, nhưng việc
hắn làm, ngẫm ra chỉ được có ba mà mất tới bảy. Lấy của nhà giàu, chia cho người
nghèo thì tuyệt quá rồi. Nhưng mà chia ruộng cho dân, chỉ nhoàng một cái lại thu
về, thì thật khó hiểu. Nhưng, chuyện đất đai sông núi cứ luẩn quẩn từ người dân
Vũ Đại này sang người dân Vũ Đại khác, thì sao mà chẳng được. Nhưng có việc hắn
làm cho đến nay, mẹ vẫn chưa hiểu được. Thứ nhất: Hắn phát động toàn dân phá
chùa chiền, miếu mạo, cấm cúng bái, giỗ chạp, cưới xin linh đình, cấm hội họp
bàn chuyện tự do; Thứ hai: Giết hoặc bỏ tù người có học; Thứ ba: Bắt toàn dân
tập trung cày cấy gặt hái trong một thửa ruộng; Thứ tư: Mọi của cải làm ra tập
trung về một kho; Thứ năm: Ai làm gì, đi đâu, ăn gì, ăn bao nhiêu đều không được
tùy ý; Thứ sáu: Cấm người giầu, người có chữ nghĩa làm lãnh đạo; Thứ bảy: Phàm
là thằng Chí, họ hàng, anh em đồng chí với thằng Chí đã làm là không sai, đã nói
là phải đúng, nếu không chảy máu tươi ngay.
Hắn nói
với mẹ Âu Cơ rằng phải làm như vậy thì dân Vũ Đại mới chóng đổi đời. Chỉ vài ba
chục năm nữa thôi, làng Vũ Đại sẽ thành thiên đường hạnh phúc ở chốn trần
gian.
- Rồi mẹ
xem, cả làng sẽ hát đồng ca: Ta đứng đây là những ngày đẹp hơn tất cả, dù mai
sau có vạn lần hơn. Ta hát vang bài ca hạnh phúc. Đường chúng ta đi: Sữa để em
thơ, lụa tặng già; sỏi đá cũng thành sắn, gạo; hóa cát thành vàng; hóa sông,
suối thành sông đường, suối rượu…
Nghe hắt
hát thế, Mẹ Âu Cơ thích quá, cười như ngàn năm chưa được cười! Hắn đã muốn thế,
quyết tâm thế, mẹ còn lo gì nữa. Mẹ thỏa mãn, chìm vào giấc ngủ
dài.
Cho đến
một ngày, núi sông chao đảo, tiếng kêu ngẹn tắc dậy bên tai làm Mẹ thức giấc.
Đảo mắt nhìn quanh, thấy hàng nghìn người từng tốp, từng tốp đang quỳ mọp xung
quanh Mẹ. Trông họ, người không ra người, ma không ra ma. Mặt người nào cũng gầy
guộc, tím tái. Họ chẳng khác những con ma đói. Tất cả đều giương đôi con ngươi
long sòng sọc nhìn Mẹ trừng trừng. Trong con mắt họ ánh lên lời van xin, cứu
rỗi. Nhưng dường như họ bị mù cả. Tiến về phía Mẹ mà hai tay cứ xua xua, giống
một đám ăn mày đang hành khất. Lại thấy trong đó có tốp người chân tay đều bị
trói chặt, mồm miệng luôn ú ớ, chừng như họ không có lưỡi. Tất cả họ đang xô đẩy
một người, mặt mày cũng tím tái, trên cổ còn lủng lẳng sợi dây thừng buộc trâu.
Thoáng qua, Mẹ cũng nhận ra người đó chính là anh cu Tĩn - tay chân đắc lực của
thằng Chí. Mẹ đưa tay vẫy họ lại. "Mẹ là Mẹ của các con cả đây". Tĩn tiến lại
gần Mẹ, rồi vội vàng quỳ xuống, vái Mẹ lia lịa, miệng lắp
bắp:
- Thưa Mẹ
Âu Cơ đáng kính. Con làm gì để đến nông nỗi này? Con là kẻ ngoan ngoãn, trung
thành nhất của sự thay đổi vĩ đại. Nhà con lương thiện đã quá bốn đời, thế mà
khổ vẫn hoàn khổ. Con chẳng hề chống đối Cụ Chí một cái gì. Cụ Chí bảo con cầm
búa phá chùa, con đi liền. Cụ Chí bảo con cầm súng bắn Bà Ba, con cũng vác súng
đi liền. Cụ Chí bảo con nộp trâu bò, cày bừa để cày bừa, cấy hái chung trên một
thửa ruộng, con cũng đầu tầu. Cụ Chí bảo gì, con làm nấy. Thế mà đời con vẫn
nghèo, vẫn khổ, đến mức không lần ra cái ăn phải thắt cổ tự tử cho xong
chuyện.
- Con bị
đói ăn, đến nỗi phải thắt cổ chết ư? Mẹ Âu Cơ chừng như còn ngái ngủ,
hỏi.
- Thưa
vâng. Ruộng đất Cụ Chí tập trung lại. Ai làm gì do cụ ấy phân công. Đến mùa thu
hoạch, sản phẩm chất vào kho. Ai được phần bao nhiêu đều do Cụ Chí quyết cả. Con
năm nào cũng nai lưng ra làm mà phần chia bao giờ cũng được ít hơn. Cụ Chí và
người anh em của Cụ Chí, chẳng làm gì, lãnh đạo lăng nhăng thì mặc sức thu vén.
Làng Vũ Đại từ hồi làm ăn chung, người thì đông dần lên mà của cải làm ra thì ít
dần đi. Đấy Mẹ xem, người nghèo đói như con cả làng đông lắm. - Tĩn đưa tay chỉ.
Mẹ Âu Cơ nhìn theo và nhoáng nhoàng nhắm nghiền mắt lại, rùng mình. "Dân Vũ Đại
đến nông nỗi này rồi ư?". Chợt Mẹ nhớ đến lời hắn hứa với
Mẹ:
- Sao con
không ra đồi, rừng? Ngoài đó có sỏi, đá, hẳn nay đã thành sắn,
gạo?
Cu Tĩn đưa
tay quờ quạng rồi ôm chầm lấy đôi chân của Mẹ, rên rĩ:
- Mẹ ơi!
Mẹ ngủ li bì mấy chục năm nay, Mẹ không còn biết gì nữa. Cái đồi của mẹ, trước
đây còn có cây, có cảnh, nay chỉ còn là những quả đồi trơ trụi, sỏi đá, đến chó
dại cũng không buồn đến để "bậy" nữa là!
- Sao con
không chịu khó ra sông, ra suối? Ở đó có đường, có rượu cho con đỡ
lòng?
Cu Tĩn
nghe Mẹ nói thế gào lên, thảm thiết:
- Ối, Mẹ
ơi! Sông đường, suối rượu nào? Mẹ bị Cụ Chí lừa rồi! Cụ lừa người ta cứ làm
chung, ăn chung, của cải nộp chung vào kho. Nhưng chìa khóa thì bè lũ Cụ Chí cầm
cả. Cho nên anh em của cụ, nay có cụ nào không giầu nứt đố đổ vách ra đâu? Mà từ
nghèo, bỗng dưng được vận làm giầu, các cụ ấy tham lam lắm. Mẹ ơi! Mẹ không tỉnh
dậy, thì dân Vũ Đại tắt thở hết đến nơi rồi!
Mẹ Âu Cơ
đưa con mắt "hạt na" đen lay láy đảo qua lượt nữa đám nhân dân kỳ dị kia. Mẹ thở
dài. Nước mắt Mẹ ứa ra. "Đến nông nỗi này rồi ư?". Đưa tay tung tấm long bào
đang đắp trên người, Mẹ ngồi dậy. Theo tấm vải, gió bỗng nổi lên thổi vù vù, bụi
bay mù mịt. Cùng lúc ấy, vầng dương phía Đông chợt hừng
sáng.
"Hắn nói
láo thật ư? Hắn lừa Mẹ thật ư?". - Mẹ tiến tới bàn thờ tổ tiên, thắp hương khấn
trời đất linh thiêng đưa hắn về để Mẹ tra hỏi hắn.
Tay Chí
xuống. Mẹ nhìn hắn thoáng rùng mình. Sao hồi này hắn khác thế. Hai má hắn hồng
hồng, phinh phính. Bụng hắn giờ đã to như bụng ông Hộ Pháp. Trông hắn khác hẳn
đám đông người kia. Mẹ hỏi hắn:
- Làng Vũ
Đại bây giờ đang làm gì?
- Thưa mẹ!
Làng đang hát đồng ca.
- Sỏi đá,
bây giờ thế nào?
- Thưa mẹ!
Sỏi đá đang làm nhà, làm đường, xây cầu, xây cống.
- Sông
đường, suối rượu đâu?
- Sông
nước bây giờ để làm thủy điện, lợi hơn. Lấy nước làm ra ánh sáng, thay mặt trời
chiếu sáng cho dân ạ.
- Sao lại
để dân đói, dân lầm than?
- Ai đói,
ai lầm than? - Tay Chí hỏi lại.
- Còn chối
ư? - Mẹ Âu Cơ nghiêm mặt.
- Đói gì
chúng nó. Chúng nó làm không chịu làm, ăn không chịu ăn, suốt ngày cờ bạc, trai
gái, chích choác. Chúng thế, làm gì mà không đói, không khổ, không lầm
than?
- Thế anh
cu Tĩn ra sao? Tay chân đắc lực của anh kia mà?
- Ôi! Mẹ
ơi! Nói gì cái thằng ấy. Nó là loại ngu lâu khó đào tạo. Con bố trí cho nó làm
thủ kho giữ của cải của cả làng, có thiếu thứ gì đâu. Thế mà nó vẫn kêu đói.
Chuột sa chĩnh gạo rồi mà nó không biết tìm ăn, con cũng đành chịu. Con đưa nó
lên làm lãnh đạo, nó kêu khổ hơn. Nó bảo, không có chữ, có nghĩa, không thể làm
lãnh đạo được. Con có cần cái chữ nghĩa của nó đâu. Đưa nó lên là giải quyết đời
sống khó khăn cho nó đấy chứ. Nó bảo, nó chỉ phù hợp với nghề gác cổng thôi. Đã
thích thì con chiều. Đến khi thấy con, thấy lãnh đạo nào cũng giầu có thì không
chịu được hắn mới thắt cổ mà chết đấy chứ!
- Cây tơ
hồng hồi này phát triển thế nào?
- Cũng tốt
ạ. Nó là loại cây thuốc độc đấy ạ. Nó chỉ chữa được bệnh liệt Bá ở làng thôi ạ.
Từ hồi khỏi bệnh, lão Bá vênh vang lắm ạ! Cầu mẹ cho lão Bá câm, mù, điếc trở
lại đi. Lão Bá có chữ, mắt sáng, tai tinh thông, kiểu gì rồi nó cũng quấy phá sự
nghiệp vĩ đại của con thôi.
- Hử. Anh
thù địch với người có chữ hử?
- Vâng!
Cái bọn ấy là bất trị nhất ạ. Chuyện nhỏ, nó xé thành to. Chuyện to, nó làm cho
nhỏ lại. Linh tinh lắm ạ!
- Cái
gương soi ở dưới cầu Rồng thế nào?
- Ngày một
chói sáng hơn ạ. Cái con Cúc hồn nó thiêng lắm! Nó còn hận con, oán làng Vũ Đại,
chưa chịu về tiên cảnh. Cầu mẹ, gọi nó về ngục phủ đi. Nó còn ở trên trần, thì
nó còn lang thang, biến thành cô Thơ, cô Văn, lừa đám trai tráng ở làng mãi thì
cũng khốn. Hồn tình của nó thiêng lắm ạ.
- Cái đồng
hồ "quạ mổ" có còn chạy không?
- Vẫn tốt
ạ.
- Sao để
cho Võ Đức Nội, ngoài bảy mươi tuổi rồi, còn phải ăn khoai khô nấu khô, làm ông
ta suýt chết vì tắc nghẹn? Sữa để em thơ, lụa tặng già đâu? Sao không san sẻ cho
nhau một ít? Cái nền công nghiệp vĩ đại của con đâu, mà lại để ông ta đẽo cày
chìa vôi kế thừa cho con cháu? Mà đã để cho ông ta làm cày chìa vôi thì phải
biến đổi cái đít con trâu đen xì đi chứ. Để mãi vậy, khó coi
lắm!
- Sao lại
có thể đổi được? - Hắn cãi lại. - Trời sinh ra thế. Xưa thế, thì nay sao có thể
đổi khác đi được? Con đưa máy cày, máy kéo về biến cả làng thành công nhân, họ
không chịu. Họ thích con trâu đi trước, cái cày đi sau, thì cái đít con trâu
phải đen chứ. Mà đã thích đít trâu đen, thì bảy mươi, tám mươi tuổi ăn khoai khô
nấu khô, tắc ở cổ họng cũng là điều tất nhiên. Sao Mẹ lại có thể trách con
được?
- Mồ mả cụ
tổ thế nào? Sao anh lại san bằng đi?
- Tại hai
cái thằng Võ Đức và Lê Cường ấy. Nó cậy, nó kinh qua chiến tranh, giỏi nghề
giết, phá. Đụng cái gì mắc mớ, khó khăn là nó đòi đem vũ khí ra để giải quyết.
Hắn mới phá cái mộ tổ, con còn đang lo sau này nó điên lên còn muốn phá cả làng.
Nó là anh em với con, nói đ. được. Cầu Mẹ trị tội nó.
Mẹ Âu Cơ
còn đối thoại với hắn nhiều nữa. Nhưng chuyện trên trời, dưới biển, chuyện ở
giữa làng Vũ Đại hắn cũng không chịu nhận có sai lầm gì. Làng Vũ Đại vẫn cứ phải
quyết tâm theo hắn xây dựng xã hội mới. Mẹ Âu Cơ biết thế, lòng thổn thức không
yên. Bây giờ Mẹ đã nhận ra, làng Vũ Đại, từ khi Mẹ đưa tay Chí lên làm lãnh đạo,
toàn xẩy ra chuyện tai ương, nghịch lý. Anh em, đồng chí dù chức này, chức nọ,
đụng đến việc cũng đều giải quyết na ná như tay Chí cả. Làng mà nhân cốt toàn
những người như vậy, làm sao bình yên, no ấm được!
Cái vị trí
kiến trúc sư Mẹ trao cho hắn, đến hồi hỏng to rồi. Phải "rút phép thông công"
lúc nào cũng đòi trị tội người khác của hắn lại. Mẹ Âu Cơ đã quyết. Mẹ gọi tay
Chí lại, dụ dỗ:
- Con giỏi
lắm! Dưới sự dẫn dắt của con, làng Vũ Đại vẫn nguyên làng Vũ Đại; sông nước, núi
non làng Vũ Đại vẫn nguyên sông nước núi non làng Vũ Đại. Chẳng có ai tài năng
bằng con đâu. Mẹ thưởng cho con một chuyến du lịch về cội nguồn thăm tổ
tiên.
Hắn ngoan
ngoãn đồng ý. Mẹ biết, đưa hắn về cội nguồn, lòng mẹ lại thêm đau đớn một lần
nữa.
Đó là một
đêm bão giông dữ dội. Mẹ Âu Cơ đứng trước bàn thờ thành kính khấn vái trời, đất.
Mẹ Âu Cơ lầm bầm cầu khấn cho gió to đừng quật đổ những ngôi nhà của làng Vũ
Đại. Còn hắn loanh quanh, nhăng nhít trước bàn thờ như một con chó điên. Mẹ bảo
hắn cởi quần áo ra, và thổi hắn lên bàn thờ. Hắn cười khanh khách trên bàn thờ,
ra điều đắc ý lắm. Từ trên cao nhìn xuống, hắn quát:
- Mẹ là
gì?
Mẹ Âu Cơ
âu yếm trả lời:
-
Con ơi! Mẹ là Mẹ của con.
-
Đúng có một nửa. Mẹ còn là đàn bà, con gái.
Mẹ
Âu Cơ vẫn nhẹ nhàng:
-
Đúng, Mẹ là đàn bà, con gái. Nhưng Mẹ là Mẹ của con. Từ xưa, con chỉ là một đứa
trẻ sinh nằm trên cỏ…
Hắn cướp lời:
-
Đàn bà cũng có lúc làm vua đấy, thống trị cả xã hội đấy.
Dưới ánh đèn lù mù, nhìn lên hắn, Mẹ Âu Cơ thấy hắn vẫn còn to béo lắm.
Mẹ trả lời hắn:
-
Đàn bà cũng có nhiều người giỏi, con ạ.
-
Không! Không! Không! - Hắn trợn mắt lên quát:
-
Con nghe Mẹ đưa cái Tèo lên làm lãnh đạo, ai cũng chê, ai cũng chửi. Cái thời
mẫu hệ qua rồi - Vừa nói, hắn vừa khua khua cây đèn thờ. Mẹ Âu Cơ dù biết hắn
đang trở về đâu, cũng có phần lo sợ. Thực Mẹ cũng không hiểu hắn định ám chỉ gì,
chỉ gật đầu cho qua chuyện. Được thể, hắn lại hỏi tiếp:
-
Con là gì?
-
Con là do Mẹ đẻ ra, nuôi nấng nên người, cho sự nghiệp.
Nghe thế, tự nhiên hắn rống họng lên, cắt lời Mẹ:
-
Đúng chỉ có một nửa. Con là đàn ông.
-
Đúng. Con là đàn
ông, là con trai của Mẹ. Ngày trước, con đã cầu xin Mẹ cho con được làm kiến
trúc sư xây dựng xã hội mới, được độc quyền tính toán, chỉ huy con dân Đại
Việt...
-
Không phải thế. Là đàn ông, con là cái gì trong nhà này kia?
Nghe hắn hỏi thế, mẹ Âu Cơ tăng thêm phần lo lắng. Cặp mắt đen láy đã
trở nên mờ đục tự khi nào, ngước lên, nhìn trân trân vào hắn mà như mắt Mẹ không
còn nhìn thấy gì nữa. Lưỡi Mẹ cũng chừng như cứng lại. Mẹ như mơ, thoảng trong
gió bão nghe những lời vô luân mênh mông từ miệng hắn:
-
Thời làm vua của đàn bà các ngươi đã qua từ lâu rồi. Nó chỉ tồn tại lúc loài
người chưa văn minh. Còn bây giờ, xã hội do bọn đàn ông chúng tao đảm nhận. Âu
Cơ, người hãy nghe đây:
-
Trong xã hội nhà ta, con là đàn ông, con là vua. Mẹ là đàn bà, Mẹ là bầy
tôi.
Mưa gió vẫn đầy trời. Càng về sáng, gió như càng mạnh hơn. Cột nhà nhà
Mẹ thỉnh thoảng lại rung lên răng rắc. Không biết trong cơn phong ba, làng Vũ
Đại còn bao nhiêu ngôi nhà không bị đổ? Mẹ Âu Cơ lo buồn. Âm ức từ hắn ngày càng
dâng lên trong lòng mẹ. Khó nhọc lắm Mẹ mới đưa được yết hầu lên nuốt sự ấm ức
ấy xuôi xuống cổ họng. Mẹ Âu Cơ nghĩ: Đã từ lâu các bà mẹ làng Vũ Đại đã như bầy
tôi của nó rồi còn gì! Từ lâu, các bà mẹ đã hy sinh vì nó rồi còn gì! "Trời ơi!
Sự hy sinh, nhẫn nhục mấy chục năm của các bà mẹ để giờ đến nông nỗi này ư? Mẹ
là người có lỗi chăng? Hắn thích quyền, thích tàn bạo với người khác, Mẹ đã cho
nó được quyền. Hắn thích cách mạng, Mẹ đã cho hắn làm cách mạng. Hắn thích độc
quyền như vua chúa ngày xưa, Mẹ cũng chiều hắn. Mẹ đã vì nó mà hủy hoại cả đời
thằng nhì, thằng ba. Hắn làm không nổi là do chính hắn không làm nổi. Các mẹ ở
làng Vũ Đại không thể chịu trách nhiệm".
Mẹ
Âu Cơ khóc. Những giọt nước mắt của Mẹ trong đêm bão giông chảy thành dòng tuôn
xuống mặt đất, nghe rùng rùng như tiếng nước chảy qua đê vỡ. "Ôi! Lạc Long Quân!
Ôi! Lạc Long Quân!". Mẹ gào lên câu cứu lang quân Lạc Long Quân. Đêm bão giông
đã "nuốt chửng" những tiếng gào cầu cứu của Mẹ. Hy vọng của Mẹ về một xã hội có
sỏi đá biến thành sắn, gạo; sông suối thành sông đường, suối rượu đã hoàn toàn
tiêu tan. Lần đầu tiên trong hành trình lịch sử ngàn năm, Mẹ Âu Cơ phải cầu cứu
đến Lạc Long Quân.
Trong một tâm thế bấn loạn, Mẹ ngước mắt lên nhìn hắn. Toàn thân hắn
đang bốc khói mù mịt. Tóc hắn từ màu đen đang ngả dần sang màu bạc. Đôi mắt đen
có ánh lửa từ từ chuyển sang màu hạt dẻ. Da hắn bợt bạc dần. Những cái sương
sườn lộ dần ra. Xương ngực hắn cũng dần nhô lên. Bây giờ, trông hắn giống một
tượng Phật khổ hạnh. Thương hắn quá! Sự minh mẫn của mẹ mờ dần đi:
"Biết đâu, sự thành công trong chế độ hắn xây dựng sắp đến lúc hoàn
thành? Thánh đã nhập vào người hắn. Nếu như vậy thật thì có thể thông cảm cho
hắn được. Ở xã hội có đạo, coi thế là hỗn, nhưng xã hội tự do coi thế là chuyện
bình thường. Người trần coi các mẹ như bầy tôi, thế là hỗn. Biết đâu hắn là vĩ
nhân thật sự?". Nghĩ thế, mắt mẹ như mở rộng hơn ra, nhìn hắn một cách chăm chú,
xét nét. Thấy thế, hắn mở miệng nở nụ cười mãn nguyện. Hắn lại khua khua hai cây
đèn thờ. "Linh thiêng quá!". Mẹ Âu Cơ hét lên:
-
Lạc Long Quân. Đúng thật rồi! Xin ông! Xin ông phù hộ độ trì cho dân làng Vũ
Đại.
Bỗng mẹ lại nghe tiếng hắn quát:
-
Này! Bầy tôi là Mẹ kia, vợ là gì?
-
Thưa vĩ nhân! Vợ là người đàn bà có chồng.
-
Hoan hô Mẹ. Đúng lắm. Tiếp đi. Chồng là gì?
-
Thưa vĩ nhân! Chồng là người đàn ông khi có vợ.
-
Hoan hô Mẹ! Đúng tuyệt đối. Trong nhà này, ta là đàn ông, Mẹ là đàn bà. Vậy, con
là gì? Mẹ là gì?
-
"Trời ơi! Con ơi! Chí ơi! Phạm điều loạn luân đấy. Khổ thân tôi quá! Hắn không
còn biết Mẹ hắn với người đàn bà khác là khác nhau". Mẹ Âu Cơ lại gào
lên:
-
Trời đất, quỷ thần ơi, làng Vũ Đại ơi, cứu..cứu... tôi với!
Sau lời kêu cứu của Mẹ, trời đất bỗng lóe sáng. Gió chợt ngừng thổi một
tích tắc, rồi lại bùng lên dữ dội hơn. Sau này, làng Vũ Đại nhiều người chứng
giám: vào cái giờ phút đồi bại nhất ấy, nhiều người bị mất cảm giác thăng bằng.
Trong gió rít ầm ào, họ thấy mọi vật đều chổng ngược lên. Mẹ Âu Cơ cũng bị hoảng
loạn. Trong lúc hoảng loạn đó, Mẹ cũng hầu như không còn biết gì nữa, đầu cũng
chúi xuống đất, bổ nhào. Rất may mắn ở giờ phút chổng ngược đó, khi đầu Mẹ sắp
chạm đất đã được đổi chiều, quay ngược trở lại. Bởi thế mà Mẹ không biết gì, vẫn
tưởng mình đang chấp tay thành kính trước tổ tiên cho đến hôm nay.
Tay Chí lúc đó đang ngồi chễm chệ trên bàn thờ, bị bàn thờ hất chổng
ngược xuống đất. Hai cây đèn thờ cổ hắn đang cầm bật khỏi tay hắn văng ra ngoài,
bị gió cuốn đi, mất tích. Bởi lúc ấy cái gì cũng bị chổng ngược, nên đầu hắn
đang hướng lên trời bị đảo lại, lao chúi xuống đất. May mà nền đất trong đêm bão
giông còn ướt, nên khi đầu hắn giáp đất, chỉ nghe "bụp" một tiếng nhỏ; thấy
miệng hắn chỉ méo xệch đi vài giây, rồi trở lại trạng thái bình
thường.
Khác với lúc trên bệ thánh, không biết ngượng là gì, nói năng lung tung,
gàn dở, hắn nhận ra toàn thân hắn đang trần như nhộng, vội đưa tay che bộ hạ và
lủi ngay vào nhà trong. Chỉ ít phút sau, hắn đi ra với bộ quần áo mới tinh tươm,
bộ dạng hớn hở như trẻ nhỏ. Cái vết sẹo còn đỏ hoẻn trên má hắn lại giật giật
lên. Bão cũng bắt đầu lặng dần. Như một đứa trẻ ngoan, hắn khúm núm đến với Mẹ
Âu Cơ, giọng líu ra, líu ríu:
-
Con xin lỗi mẹ. Tại cái làng Vũ Đại còn nhiều đứa không nghe lời con nên công
trình vĩ đại của con mới kết cục không có hậu như vậy. Nhưng mà Mẹ ơi, sao Mẹ
lại để cho con có phía trước mà lại không có phía sau, có cách mạng mà không có
bảo tồn. Mẹ có biết không, từ khi Mẹ cho con được độc quyền, bỏ tù thằng nhì,
thằng ba thì thân con chỉ còn có một nửa. Con thành người cô đơn, không còn biết
lấy ai để soát xét lại mình. Đến ba đứa vợ của con Mẹ cũng bắt phải chia tay
sớm. Lỗi đó cũng là do Mẹ gây ra; do làng Vũ Đại ngu si không chịu đấu tranh nên
mới ra nông nỗi ấy. Phép biện chứng của cụ tổ Mác-Lê Nin đã chỉ ra rằng: Một sự
vật phải có các mặt đối lập. Các mặt đó, vừa thống nhất, vừa đấu tranh chuyển
hóa cho nhau nhằm phát triển tới sự vật có sự sống cao hơn, hoàn thiện hơn. Đằng
này, ngoài Mẹ ra, mà Mẹ thì ngủ li bì, con chẳng còn ai để mà cạnh tranh sự
đúng, sai của cái công trình khoa học vĩ đại đó. Cho nên, con nhăng cuội thế nào
cũng được. Cái sự vật không hoàn thiện đó đã biến người thành ngợm, đã đến ngày
phải bỏ đi. Cảm ơn Mẹ đã hóa thân trở lại cho con.
Tay Chí thành tâm thế. Mẹ Âu Cơ nghe chỉ thở dài thườn thượt. Mẹ cũng
thấy thương hắn. Hắn cũng chỉ là một con người, có cái tốt, cái xấu. Nó cũng chỉ
là một mặt của sự vật. Đáng lẽ, mẹ phải để cho thằng nhì, thằng ba cùng lãnh đạo
với hắn, đấu tranh với hắn thì rồi kiểu gì hắn cũng vẫn là con người. Nhưng điều
đó, bây giờ khó làm quá rồi. Hắn một nửa đã hóa thành quỷ, một nửa đang thối
rữa. Mẹ phải chữa bệnh cho hắn đã. Phải mất nhiều năm nữa hắn mới hoàn hồn trở
lại người bình thường.
Trong lúc Mẹ Âu cơ và thở than vừa tính kế chữa bệnh cho hắn thì bão
cũng lặng dần, lặng dần. Khi trời sáng
thật rõ, người dân Vũ Đại không còn thấy đền thờ giáo chủ ở giữa làng nữa. Cùng
với đền thờ, đêm qua Mẹ Âu Cơ đã đem tay Chí về trời. Tay Chí đã hóa thánh thật.
Làng Vũ Đại, con cháu tay Chí chôn tay Chí chỉ là chôn cái phần xác mà thôi...
Hồn hắn vẫn còn quẩn quanh trên dương thế.
Đám đất dựng đền thờ đó, không biết có ai dũng cảm khai phá đi để trồng
ngô xanh, lúa xanh?
nguồn_badamxoe:http://badamxoe.blogspot.com.es/2012/06/pham-thanh-hau-chi-pheo-va-du-luan-phan_16.html
---------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001