Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012

Trần Giao Thủy - Em không phải là hạng gái nhơ nhớp thấp hèn (I)
Trần Giao Thủy
Đây là bài viết sau khi đọc qua hai luận văn nghiên cứu điền dã về khu kinh tế mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tp HCM) của tiến sĩ Kimberly Kay Hoang, người vừa được Hội Xã hội học Hoa Kỳ (The American Sociological Association, ASA) chấm giải “Luận án hay nhất” năm 2012.
Người viết đã đọc để biết và viết để hiểu thêm cùng giới thiệu lại những kết quả và nhận định của tác giả một công trình nghiên cứu rất đáng chú ý về một góc nhỏ của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Hai báo cáo, “Economies of Emotion, Familiarity, Fantasy, and Desire: Emotional Labor in Ho Chi Minh City’s Sex Industry”(1) và “She's Not a Dirty Low Class Girl: Sex Work in Ho Chi Minh City,” (2) là những công trình đã đoạt giải luận văn sinh viên cao học tại các đại học Cornell (2008), UC Berkeley (2010) và những giải thưởng khác cuả ASA và giải Cheryl Allyn Miller, Những nhà Xã hội học cho Phụ nữ trong Xã hội (2011). Tác giả Kimberly Hoàng tốt nghiệp cử nhân về Communication & Asian American Studies tại đại học UC Santa Barbara và theo học Xã hội học tại đại học Stanford trước khi hoàn tất học trình tiến sĩ Xã hội học (chú trọng về phụ nữ, giới tính và tình dục) tại đại học UC Berkeley.





Tác giả Kimberly Kay Hoang, Ph.D.
Nguồn ảnh: sociology.rice.edu

Sau cuộc nghiên cứu điền dã kéo dài bảy tháng trong khoảng 2006 đến 2007 ở ba khu mại dâm phân tầng rõ rệt tại Tp HCM, tác giả đã đi đến những nhận định:
- Người nước ngoài da trắng không phải là khách trả tiền nhiều nhất;
- Không phải phụ nữ bán dâm nào cũng là người trong giới nghèo hèn;
- Phụ nữ bán dâm, tùy hoàn cảnh, đã biết khai thác tối đa tất cả tiềm năng có sẵn, từ trình độ văn hóa, tiền bạc, đến thể xác, để hành nghề;
- Quan hệ giữa kẻ bán-người mua (dâm) là một sự trộn lộn chuyện mây mưa với tiền và cả “tình”. Nghĩa là ngoài phần lao động thể xác (đổi sex lấy tiền) phụ nữ bán dâm ở Tp HCM còn có phần lao động tình cảm (theo thuyết của Arlie Hochschild).

Phương pháp nghiên cứu

Với sự chấp thuận của Đại học Stanford năm 2006 và UC Berkeley năm 2007, tác giả đã thực hiện bảy tháng nghiên cứu điền dã trong lĩnh vực dân tộc học - chia làm ba lần - từ giữa tháng 6 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007 tại thành phố Hồ Chí Minh. Để bảo vệ người hành nghề và khách mại dâm, đại học Stanford và UC Berkeley yêu cầu tác giả phải có lời đồng ý của những người nhận tham gia vào cuộc nghiên cứu.
Tại địa bàn nghiên cứu, tác giả đã quan sát, thu gặt dữ liệu như người trong cuộc (participant observation) bằng các cuộc phỏng vấn, sinh hoạt với phụ nữ hành nghề và khách mua dâm ở quán bar, cà phê, nhà riêng, tiệm ăn, trung tâm mua sắm và trên đường phố trong ba khu mại dâm phân tầng rõ rệt - hạ, trung và cao cấp.
Tất cả phụ nữ hành nghề, tham gia vào cuộc nghiên cứu này đều trên 18 tuổi, tự ý chọn làm việc độc lập trong khu vực mại dâm; họ không phải là những phụ nữ hay trẻ vị thành niên bị mua bán hay ép buộc buôn bán tình dục.
Một điểm đặc biệt, dù trá hình cơ sở hoạt động là những tiệm hớt tóc, hay quán bar, hoặc đóng vai nhân tình với khách hàng tất cả những phụ nữ hành nghề mại dâm đều gọi họ là “gái đi khách” thay vì là gái điếm hay gái mại dâm vì nghề mại dâm không được phép hoạt động tại Việt Nam.
Ba khu vực được tác giả chú trọng đến là khu mại dâm dành cho đàn ông Việt Nam ít tiền, khu mại dâm dành cho khách người da trắng nước ngoài, và khu vực mại dâm dàng riêng cho đàn ông Việt Kiều. Lý do những vùng mại dâm này được chọn làm địa bàn nghiên cứu vì quan hệ khách-gái đi khách ở những khu vực đó đều xảy ra ở nơi công cộng, dễ quan sát, và hoạt động ở đó cũng là phần lớn của kỹ nghệ mại dâm tại Tp HCM.
Tác giả cũng đã trở lại Tp HCM 15 tháng trong khoảng 2009-2010 để nghiên cứu về quan hệ khách-gái đi khách trong các không gian riêng tư và kín đáo hơn như tại các quán karaoke dành cho đại gia Việt Nam và các doanh nhân châu Á.
Trong đợt nghiên cứu đầu, tác giả đã thực hiện 13 cuộc phỏng vấn chính thức với 7 khách mua dâm cùng 6 gái đi khách và đã gặp một số khó khăn khi dùng phương pháp phỏng vấn chính thức; dễ hiểu vì phụ nữ mại dâm thường không chịu trả lời phỏng vấn; tuy nhiên họ đã đồng ý để tác giả đi theo, quan sát sinh hoạt thường ngày của họ. Hơn nữa, tác giả cho biết, cả khách và gái đi khách không phải lúc nào cũng thành thật nói tại sao họ lại chọn hành nghề mại dâm hay quan hệ thực sự giữa gái đi khách và khách mua dâm.
Thí dụ, gái đi khách cao cấp thường nói họ vào nghề vì nghèo túng nhưng sự thật, khi tác giả theo đến tận nhà, thì biết họ thuộc những gia đình khá giả ở địa phương và ngay cả khi so sánh với tiêu chuẩn thế giới.
Đối với tác giả, phương pháp “quan sát như người trong cuộc” (participant observation) là yếu tố quan trọng nhất đã giúp tác giả ghi nhận kỹ càng để nghiên cứu về quan hệ phức tạp giữa những người mua và kẻ bán dâm.
Tác giả bắt đầu bằng cách bỏ thời gian lai vãng các quán bar và hè phố địa phương để làm quen với phụ nữ hành nghề, khách mua dâm cũng như các chủ quán. Giai đoạn hai là lúc phương pháp “quan sát như người trong cuộc” được áp dụng triệt để song song với những cuộc phỏng vấn không chính thức với những phụ nữ hành nghề mại dâm đã đồng ý tham gia vào cuộc nghiên cứu.
Là phụ nữ gốc Việt sống ở nước ngoài đã giúp tác giả dễ dàng hơn để làm quen, hỏi chuyện các phụ nữ hành nghề mại dâm. Họ thường tránh đàn ông với những câu hỏi tìm tòi vì cho đó là công an chìm đang làm việc. Dù biết tác giả là người nghiên cứu sống ở nước ngoài và sẽ viết lại về mình nhưng tất cả các phụ nữ mại dâm đêu không quan tâm; ngược lại họ để ý và muốn biết về tác giả và đời sống của tác giả ở Mỹ ra sao.
Về phía khách mua dâm, dù tất cả đều biết tác giả là người làm nghiên cứu ở Hoa Kỳ nhưng ngoại kiều da trắng và Việt kiều tỏ ra cởi mở hơn đàn ông Việt Nam trong nước khi giao tiếp với tác giả.
Trong thời gian nghiên cứu điền dã tác giả đã làm bạn với hai người lái xe ôm Việt Nam là Cường và Lộc - hai người đã hướng dẫn tác giả đi vào khu mại dâm cấp thấp nhất và làm thế nào để ứng xử thích hợp với khách mua dâm và phụ nữ hành nghề trong khu vực đó.
Trong bảy tháng nghiên cứu, mỗi tuần tác giả làm việc, quan sát tại hiện trường ba ngày, và để ba ngày ghi chép lại dữ liệu và nhận định. Sinh hoạt của tác giả thường bắt đầu bằng những buổi sáng ở những tiệm hớt tóc cũng là nhà chứa cho phụ nữ mại dâm cấp thấp hành nghề; và những buổi ăn trưa hay đi mua sắm với khách mua dâm và phụ nữ mại dâm ở bậc trung và cấp cao. Tác giả trao đổi bằng tiếng Việt với khách mua dâm và phụ nữ hành nghề mại dâm cấp thấp. Trong khu vực mại dâm bậc trung và cao cấp tác giả sử dụng cả tiếng Anh và tiếng Việt với khách và gái đi khách.
Tất cả ghi chép của tác giả đều bằng Anh ngữ và không dùng tên thật để phòng khi giới chức trách địa phương muốn kiểm tra máy tính.
Dữ kiện tác giả trình bày trong luận căn dựa trên những quan sát và các phỏng vấn chính thức với 54 phụ nữ mại dâm và 26 khách hàng. Trong đó là 12 phụ nữ mại dâm và bốn khách hàng trong khu vực thấp, 31 gái đi khách và 15 khách mua dâm trong khu vực hạng trung, và 11 phụ nữ mại dâm và 7 khách hàng trong khu mại dâm cao cấp.
Sau cùng, tác giả trình bày và phân tích ba trường hợp điển hình về mối quan hệ tình dục, liên đới, và riêng tư giữa khách hàng và phụ nữ mại dâm trong ba khu vực phân tầng trong kỹ nghệ tình dục tại Tp HCM.

Mại dâm tại Việt Nam - Bối cảnh lịch sử

Theo tác giả Kimberly Hoàng, kỹ nghệ mại dâm hiện đại tại Đông Nam châu Á đã phát triển nhanh từ thời thuộc địa Pháp và trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam với sự thiết lập các căn cứ quân sự tại nhiều nơi khác nhau trong vùng. Tình trạng này ban đầu đã giúp tạo nên hình ảnh, ở phương Tây, phụ nữ Á châu là những người đàn bà ngoan ngoãn và đẹp kỳ lạ.





Ngoan ngoãn và đẹp kỳ lạ - Việt Nam thời Pháp thuộc
Nguồn ảnh: OntheNet

Nghề mại dâm tại Việt Nam phát triển theo sự thuộc địa hóa mãnh liệt của Pháp tạo ra một khu vực mới để phục vụ đàn ông thực dân. Trước thời là thuộc địa của Pháp, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp; sự phát triển các trung tâm đô thị lớn hội tụ các cơ quan hành chính, thương mại, và tài chánh của chính phủ thực dân đã làm đảo lộn cấu trúc kinh tế, thuận lợi cho nghề mại dâm phát triển. Bị ảnh hưởng nhiều nhất trong thời thuộc địa là khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn - nơi từng được gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Dân số tại đây vụt tăng từ 13.000 người năm 1883 lên đến 250.000 người năm 1932. Tại những thành phố giống như Saigon, chính phủ thực dân cố gắng đưa ra những đạo luật nhằm kiểm soát nghề mại dâm bằng cách buộc phụ nữ hành nghề mại dâm phải ghi danh với chính phủ quận lỵ. Lý do cơ bản để chính quyền Pháp ban hành luật gắt gao để bảo vệ đàn ông thực dân không bị vướng vào các bệnh hoa liễu. Tuy nhiên, những luật lệ đó đã hoàn toàn thất bại vì những chủ nhà thổ thường là các tổ chức bí mật. Những ổ điếm thường được trá hình là những quán cà phê, nhà hút thuốc phiện, hay quán nhậu khiến việc kiểm soát nghề mại dâm trở nên rất khó khăn.





Bar - Saigon, Việt Nam trước 1975
Nguồn ảnh: OntheNet

Trong chiến tranh Việt Nam, chính sách của Bộ Quốc Phòng Mỹ lúc bấy giờ là ngăn chận mại dâm bất cứ khi nào có thể làm được. Tuy nhiên, tập tục xã hội Mỹ trong những năm 1960 đã trở nên bớt căng về vấn đề sinh dục. Đến năm 1966, tại Saigon có hơn 1000 quán bar, hơn 100 hộp đêm và có ít nhất 30 vũ trường. Khi số binh sĩ Mỹ tham chiến tại Việt Nam tăng thì nhu cầu mại dâm cũng tăng theo. Có khoảng 1/2 triệu lính Mỹ và binh sĩ Việt Nam trong năm 1967, cùng lúc có độ vài trăm ngàn phụ nữ làm việc trong kỹ nghệ mại dâm. Đường phố Saigon, cạnh các căn cứ và cư xá quân sự, dày đặc những quán bar để phục vụ khách hàng gần như toàn là đàn ông Mỹ.
Sài Gòn sụp đổ vào 30 tháng Tư 1975 và sau đó đổi tên là Tp HCM. Dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, chính quyền cộng sản đề ra những chương trình “phục hồi nhân phẩm” nhằm loại trừ nghề mại dâm. Sau hơn 10 năm suy sụp về mặt sản xuất, lạm phát gia tăng, nhà nước CHXHCN Việt Nam đã đề ra một chính sách cải cách gọi là Đổi Mới - chuyển đổi Việt Nam XHCN thành một quốc gia theo nền kinh tế thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa); có nghĩa là Việt Nam vẫn giữ lại chế độ chính trị một đảng cầm quyền. Từ đó, Tp HCM trở thành một địa điểm có lưu lượng cao về tư bản và người nước ngoài. Nổi tiếng là “Vùng kinh tế Miền Nam”, kinh tế Tp HCM chiếm 35% tổng sản lượng quốc gia. Năm 2006, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Tác giả Kimberly Hoàng xếp Tp HCM vào hạng một thành phố quốc tế đang lên thay vì là một thành phố toàn cầu vì vẫn chưa có một hệ thống giao thông cao cấp, một sàn giao dịch chứng khoán tầm cỡ quốc tế, và có ảnh hưởng trên thế giới.
Đây chính là luận điểm của tác giả cho rằng Tp HCM là thành phần ven biên của thị trường tư bản toàn cầu; ở đó cấu trúc xã hội và kinh tế ngày càng bị ảnh hưởng do sự toàn cầu hóa từ ngọn - do lưu lượng người và vốn nước ngoài vào Việt Nam - và sự áp dụng chủ nghĩa vượt phạm vi quốc gia từ gốc. Người Việt Nam trong nước nắm bắt những quan hệ, mốc nối từ ngoài để sinh tồn hoặc nâng cao mực sống là những người đang áp dụng chủ nghĩa vượt phạm vi quốc gia từ gốc.
Suốt 20 năm qua ít ai để ý đến độ phát triển của nghề mại dâm tại Việt Nam. Trên thực tế, nghề mại dâm đã lập tức tăng cao ngay sau khi chính sách Đổi Mới đước áp dụng. Hiện nay có khoảng 200.000 phụ nữ Việt Nam đang hành nghề trong kỹ nghệ mại dâm.
Còn tiếp
© DCVOnline
______________________
(1) Kimberly Kay, Hoang, Economies of Emotion, Familiarity, Fantasy, and Desire: Emotional Labor in Ho Chi Minh City’s Sex Industry, Sexualities 13(2): 255-272. 2010.
(2) Kimberly Kay, Hoang, She's Not a Dirty Low Class Girl: Sex Work in Ho Chi Minh City, Journal of Contemporary Ethnography 40(4): 367-396. 2011.
DCVOnline minh họa.
Hồ Gươm gửi hôm Chủ Nhật, 20/05/2012
Trần Giao Thủy - Em không phải là hạng gái nhơ nhớp thấp hèn (II)

Trần Giao Thủy

Theo DCVOnline

Khu mại dâm bậc thấp: “Đụng chạm họ làm chị muốn ói!”

Phụ nữ mại dâm phục vụ khách hàng đàn ông Việt Nam trong nước thường hành nghề đúng công thức “bán dâm lấy tiền”. Những phụ nữ này hoạt động tại những nhà chứa trá hình là những tiệm hớt tóc tại Tp HCM ở Quận Tư, Quận Mười, Quận Bình Thạnh và khu vực quanh phi trường Tân Sơn Nhứt. Những quận hạt này cách Quận Nhất - trung tâm thương mại và là nơi có nhiều du khách - khoảng 45 phút.
Để tránh bị công an dòm ngó, và cũng để dễ ăn nói với bà con chòm xóm và bè bạn, những phụ nữ mại dâm này thường hoạt động vào ban ngày từ 10 giờ sáng đến 6 giờ chiều.
Mười hai phụ nữ mà tác giả đã tiếp xúc đều là những người mẹ độc thân, tuổi từ 29 đến 60 và cũng đều chưa học xong tiểu học. Họ là những phụ nữ nghèo ở đô thị hay là người chạy từ quê lên tỉnh và đều đã làm việc trong khu công nghệ sản xuất trước khi bước vào nghề mại dâm. Những gái đi khách trong khu vực cấp thấp này cung cấp một số dich vụ tiêu biểu; thí dụ như đưa khách mua dâm lên đỉnh khoái lạc nhanh gọn trong vòng 20 phút mây mưa.
Khách thường mua dâm bằng 3 đô-la và kẻ mua người bán cũng ít khi phải thương lượng giá cả. Trung bình những phụ nữ này kiếm được khoảng trăm đô-la mỗi tháng, như vậy thu nhập khoảng 40-50 đô-la nhiều hơn nếu đi làm tại quán ăn, tiệm hớt tóc thực sự hay làm ô-sin.
Những phụ nữ mại dâm đứng tuổi, 45 đến 60, cho biết họ phải đi làm gái vì chủ cũ chuộng nhân viên trẻ hơn. Bà Phượng, 60 tuổi, từng làm việc trong kỹ nghệ nuôi tôm với lương tháng khỏang 50 đô-la, đã vào nghề mại dâm sau khi bị đuổi việc vì quá già. Những phụ nữ mại dâm này lây lất bên lề của trung tâm Tp HCM và không có đủ khả năng kinh tế để đi vào khu có giá cao hơn. Họ không có tiền mua sắm quần áo đẹp, son phấn, hay đi sửa sắc đẹp là những phần vốn phải có để kinh doanh trong khu mại dâm bậc trung như một chiêu đãi viên, và họ cũng không đủ tiền mua nước uống tại các quán bar mà gái đi khách bậc trung thường lai vãng. Để tìm hiểu, tác giả đã hỏi Dung, 34 tuổi, độc thân có hai con, tại sao lại chọn hành nghề trong khu mại dâm cấp thấp và tại sao không qua Quận Nhất, ở đó Dung có nhiều cơ hội gặp khách mua dâm bằng đô-la nước ngoài. Dung trả lời toạc móng heo, bằng tiếng Việt:
“Chị già rồi. Chị đã có con. Chị cũng không đẹp. Chị không biết nói tiếng Mỹ và ngay cả không biết làm sao tới những chỗ đó [nơi có khách mua dâm người nước ngoài]. Chị không có tiền để diện áo quần hay vô ngồi ở những quán bar loại đó nên chị không bao giờ làm việc được ở những chỗ đó. Chị không ganh đua được với những cô đó đâu. Lấy tiền của người nước ngoài khó lắm.”
Ngoài việc thiếu tiền để vào ra những nơi “xa lạ”, những người phụ nữ này cũng không có đủ vốn văn hóa hay khả năng ngôn ngữ để giao tiếp với đàn ông nước ngoài, như Dung đã nói, vì không thể tiếp chuyện với người nước ngoài nên không thể đi khách ở khu mại dâm cao giá. Hơn nữa, dù Quận Nhất chỉ cách khu xóm họ đang làm việc cỡ 30-40 phút xe ôm nhưng nhiều phụ nữ mại dâm bậc thấp này chưa hề đặt chân đến đó. Họ không biết đường vào Quận Nhất và cũng không chịu nổi cuốc xe ôm 2 đô-la vào trung tâm Tp HCM. Ngay cả nếu có thể bỏ một ngày ở giữa thành phố họ cũng không biết sẽ đi đâu và sẽ làm gì ở đó.
Khi mới bắt đầu cuộc nghiên cứu tác giả đã vô tình mời vài phụ nữ mại dâm bậc thấp đi ăn trưa hay dùng cơn chiều ở Quận Nhất khiến họ rất khó chịu, nếu không nói là lạc lõng trong những không gian đó. Một thí dụ, Trúc đã nói:
“Chị không bao giờ đến những tiệm ăn như vậy và vì quá sợ chị cũng không dám ngồi xuống, nhìn giá cả trên tấm thực đơn rồi hoảng hốt vì chị không đủ sức trả cho món rẻ nhất trong đó nữa. Nếu chị quay lưng bỏ đi thì người ta sẽ cười vô mặt chị.”
Tóm lại, thiếu kém của những phụ nữ mại dâm về tiềm năng văn hóa và kinh tế đã đẩy họ vào hành nghề mại dâm, lệ thuộc vào những người đàn ông nghèo, người bản xứ.
Ngoài sự thiếu thốn về mặt kinh tế và vốn văn hóa, những phụ nữ mại dâm trong khu vực bậc thấp còn thiếu cả vốn liếng thể xác (sắc đẹp) để cạnh tranh trong thị trường mại dâm bậc trung hay bậc cao. Mai, một phụ nữ từ vùng đồng bằng sông Cửu Long, đang hành nghề tại một trong những tiệm hớt tóc, nói: “Chị đã ở giữa tuổi ba mươi. Chị đã có một con. Chị không đẹp... Vì vậy chị đâu còn lựa chọn nào khác hơn là đi khách ở đây.”





Tiệm hớt tóc (Tp HCM)
Nguồn ảnh: darrenmelrose.com

Trong khi những gái đi khách ở bậc trung thường dùng một phần lớn của thu nhập đầu tư vào để sửa sắc đẹp, mua quần áo, đồ trang sức, và son phấn thì phụ nữ mại dâm ở bậc thấp phải lấy thu nhập trả tiền nhà, tiền chợ, tiền học cho con cái. Vì vậy áo quần mặc trong nhà hay ở nơi làm việc của những phụ nữ mại dâm bậc thấp không khác gì nhau. Họ không trưng diện khi hành nghề và cũng chằng có áo quần sexy, gợi tình; trên thực tế, nhìn những phụ nữ này không khác gì những bà nội trợ, những bà chị hay những bà mẹ nghèo nàn. Họ là những người nghèo cùng giai cấp với những người khách bản xứ nghèo khó.
Dù không bị ép buộc mại dâm, nhiều phụ nữ đã tiếp tục hành nghề để thoát cảnh đói nghèo. Những phụ nữ trong khu mại dâm bậc thấp nằm trong số những người bị tổn thương và bị bóc lột nhiều nhất.
Họ không có lựa chọn nhiều lắm về mặt khách hàng. Nhiều khi khách nào họ cũng đi, vì họ cần tiền. Mai nói:
“Những điều tụi chị làm rất nhơ nhớp. Những ông già dơ dáy tới đây và mấy ổng rất thô lỗ trên thân thể của chị. Họ đâu cần biết gì tới chị vì với họ chị chỉ là một gái đi khách. Khi mới vô nghề, sau mỗi lần đi khách là chị ói, nhưng bây giờ quen rồi.”
Khách của số lớn trong nhóm phụ nữ này là những đàn ông Việt Nam nghèo với thể xác làm họ buồn nôn. Nếu thủ dâm và khẩu dâm không làm khách đạt thỏa mãn, thì giao cấu là biện pháp cuối cùng những người đàn bà này sẽ làm. Chín trong số mười hai phụ nữ mại dâm đã cho tác giả biết họ đều nôn mửa khi mới vào nghề sau khi cảm thấy tinh dịch của khách hàng trên tay hay trong miệng vì họ tởm lợm thể xác của những khách mua dâm. Trâm giải thích: “[Khi] mấy ổng già, mình phài làm cực hơn để mấy ổng ‘ra’ ... hay mấy ổng [những ông tài xe tải] lái xe lâu mà không tắm nên hôi rình à.”
Nôn mửa, theo tác giả, là một phản ứng tự nhiên của cơ thể khi cảm thấy tởm lợm vì thể xác đàn ông nói chung, và đặc biệt với thân hình của những người đàn ông lớn tuổi không sạch sẽ. Tất cả những phụ này đều nói là họ đã từng ôm nhau khóc vì họ phải làm những việc, như Trâm nói, “mà chỉ có những người đàn bà ở dưới đáy của xã hội mới làm.”
Mỗi bao cao su giá khoảng 40 xu, một giá quá đắt đối với những phụ nữ mại dâm bậc thấp. Vì thế, họ thường cố gắng làm cho khách xuất tinh bằng những cách khác hơn là giao cấu. Đôi khi khách mua dâm dùng bao cao su. Tuy nhiên, nếu không có bao cao su, những phụ nữ này vẫn giao cấu với khách không có phòng ngừa. Gái đi khách trong khu mại dâm thấp thường không mang theo bao cao su, tại sao? Nguyệt giải thích với tác giả:
“Chị không đem bao cao su theo vì nếu công an vô đây khám xét tiệm của chị và tìm thấy bao cao su thì họ có thể bắt chị về tội làm gái. Chị sẽ ráng làm khách hàng ‘ra’ bằng tay hay bằng miệng trước. Nếu không làm mấy ổng ‘ra’ nổi thì chị sẽ làm tình ... rồi ra tiệm thuốc tây mua viên thuốc uống liền để khỏi bị có bầu.”
Khi tác giả hỏi khách mua dâm về việc dùng bao cao su, một số cho biết họ luôn luôn cung cấp bao cao su vì sợ mang bệnh.
Khách hàng trong khu mại dâm thấp là những người tác giả khó bắt chuyện nhất. Tác giả đã thường nhờ những tài xế xe ôm giúp, qua ly cà phê, điếu thuốc trong khi khách hàng đang ngồi chờ tới phiên được phục vụ. Câu chuyện với khách hàng và gái đi khách ở khu mại dâm bậc thấp thường xoay quanh lý do gì khiến họ đến những địa điểm đó để thỏa mãn xác thịt.
Họa tiết sau đây mô tả rõ lô gíc “trách nhiệm” hướng dẫn ứng xử giữa khách và gái đi khách trong khu mại dâm bậc thấp.
Vào một buổi chiều, ngồi trò chuyện với các cô gái đi khách tại một quán cà phê-nhà chứa ở Quận Bình Thạnh, tác giả gặp một khách hàng tên Khoa, tuổi độ giữa 40. Sau khoảng một giờ trao đổi, tác giả biết Khoa làm việc với một công ty xây cất trong vùng, lương chừng trăm đô-la một tháng. Khoa có vợ và con mới một tuổi; con Khoa ở với mẹ và bà con tại một làng quê ở Cà Mau. Trả lời câu hỏi cớ gì khiến Khoa đến những nhà chứa này, Khoa nói:
“Nè, chắc cô nghĩ tất cả đàn ông đều làm chuyện tồi bại cả, nhưng tự cô đến đây, vậy nếu cô muốn biết, tôi sẽ nói cho cô biết và nếu cô khó chịu thì đó là lỗi cô đã làm phí thì giờ của mình ở đây. Vợ tôi đang ở dưới quê với con nhỏ, và tôi đang ở thành phố một mình. Tôi phải giải quyết một số vấn đề, và tôi có thể bỏ vợ theo một người đàn bà khác hay tôi có thể tới đây [giải quyết một số vấn đề] đợi ngày vợ tôi trở lại.”
“Vợ anh có biết anh tới đây không?” Khoa trả lời, “Cô ấy ngây thơ lắm, không biết gì đến những nơi này.” Hai người ngồi trong yên lặng một lúc, tác giả quay qua hỏi Lộc, người lái xe ôm, những người đàn ông như Khoa có khi nào mua dâm với gái đi khách ở Quận Nhất hay không. Lộc nói, “Họ không mua nổi mấy cô đó.” Quay lại, Khoa nói, “Tôi không có nhiều tiền. Những cô đó không khi nào mất thời giờ với đàn ông như tôi. Tại sao phải mất thì giờ khi người ngoại quốc trả họ nhiều tiền hơn.”
Gái đi khách nghèo phục vụ khách mua dâm nghèo. Những phụ nữ như Dung và Mai, và đàn ông như Khoa sống xa trung tâm thành phố đến nỗi họ không có đủ tiền đi xe vào Quận Nhất, đó là khu kinh tế mại dâm bậc trung và cao cấp.
Hơn nữa, giữa người bản xứ, chuyện mua bán tình dục thường diễn tra trong phạm vi của những tiệm hớt tóc hay các quán cà phê. Rất hiếm khi khách và gái đi khách mua bán ở những nơi khác.
Gái đi khách ở bậc thấp không đủ khả năng trả tiền xe hay tiền ăn uống tại các quán bar ở Quận Nhất. Đó là vùng hoạt động của gái mại dâm bậc trung và gái đi khách cao cấp. Chỉ có thể phục vụ và lệ thuộc vào khách hàng như Khoa, với phụ nữ mại dâm như Hà, là việc làm khiến họ phải nôn mửa. Những phụ nữ hành nghề ở khu mại dâm bậc thấp là những người có ít kiểm soát nhất về việc làm của họ. Vì không có nhiều khách mỗi ngày, phụ nữ mại dâm trong khu vực này hiếm khi từ chối đi khách. Thay vào đó họ dùng chiến thuật “làm sớm nghỉ sớm” và tránh được chuyện giao cấu càng nhiều càng tốt. Cũng vậy, khách mua dâm cũng tránh không có qua lại nhiều với gái mại dâm bậc thấp; họ đến, họ ‘ra’, rồi họ đi. Đôi khi cũng có khách ngồi lại uống ly cà phê, hút điếu thuốc nhưng rất hiếm khi chuyện vãn với phụ nữ mại dâm. Dù một một số phụ nữ mại dâm có những khách thường xuyên, nhưng những khách hàng đến những nơi này chi để mua một thứ - khoái lạc - không mua gì hơn. Khách và gái đi khách giao tiếp qua những trao đổi rạch ròi: bán khoái lạc lấy tiền. Quan hệ kinh tế và quan hệ riêng tư không tròng chéo trong khu vực mại dâm bậc thấp.
(Còn tiếp)
© DCVOnline
DCVOnline minh họa.
Hồ Gươm gửi hôm Thứ Hai, 21/05/2012

Trần Giao Thủy - Em không phải là hạng gái nhơ nhớp thấp hèn (III)

Trần Giao Thủy

Khu mại dâm bậc trung: “Cô ấy là một phụ nữ duyên dáng bị kẹt trong một đất nước nghèo nàn”

Khu “Tây ba lô” ở Tp HCM nổi tiếng trong giới du lịch tiết kiệm. Dọc đường phố trong khu này là các tiệm bán đồ kỷ niệm, khác sạn mini, văn phòng du lịch, nhà hàng, quán cà phê và bar dành cho người nước ngoài. Đa số các chủ tiệm ở khu này đều biết nói chút tiếng Anh.
Tại đây tác giả đã quan sát, thu gặt dữ liệu như người trong cuộc tại bẩy trong số hai mươi lăm quán bar trong khu vực này. Khách mua dâm, mà tác giả đã gặp, tại đây tuổi từ hai mươi hai đến sáu mươi lăm, tất cả là người Mỹ da trắng, người châu Âu, hay người Úc. Những du khách da trắng trong khu mại dâm bậc trung coi họ là những người du lịch sành sõi biết tận dụng khu mại dâm ở các nước Thế giới Thứ ba. Họ có khuynh hướng ở trong các khách sạn nhỏ, nếm mùi Việt Nam “thực”. Adam, môt du khách Mỹ từ Houston, Texas - nói:
“Tôi muốn thấy một Việt Nam thực, không phải Việt Nam dành cho du khách. Tôi muốn thưởng thức thức ăn địa phương, nói chuyện với người Việt Nam, và nhìn xem người Việt Nam sống thực sự ra sao. Đa số những gia đình ở đây sống bằng một hay hai trăm đô-la mỗi tháng. Tôi không đến đây để lui tới các khách sạn chỉ dọn thức ăn phương Tây, và để nhìn người da trắng.”
Gái đi khách bậc trung phục vụ cho những đàn ông như Adam; họ cống hiến cho khách nhiều hơn là chỉ giao hoan. Họ là những người hướng dẫn du lịch, người môi giới văn hóa, hiến cho đàn ông những kinh nghiệm “thực” của các nước Thế giới Thứ ba.
Tác giả cho rằng các phụ nữ mại dâm bậc trung khai thác thị trường tình dục bằng cách phát triển quan hệ với đàn ông hải ngoại và thực hành “chủ nghĩa vượt phạm vi quốc gia từ gốc” như Smith và Guarnizo đã đề cập đến.
Dĩ nhiên những phụ nữ đi khách bậc trung này chắc chắn có đổi sex lấy tiền, nhưng họ còn biết dùng vốn văn hóa để vờ yêu nhằm cống hiến cho khách làng chơi một số những dịch vụ khác. Câu chuyện sau đây minh họa những cô gái mại dâm vượt phạm vi quốc gia sành sõi làm thế nào để thiết lập và giữ bền quan hệ tình dục bằng khả năng Anh ngữ cũng như thân hình của họ.
Tác giả và Linh gặp và biết nhau từ tháng Sáu 2006 và giữ liên lạc đến tháng Tám 2007. Linh làm việc ở quán bar Pink Star, trong khu “Tây ba lô” ở Quận Nhất. Gần 1m68, Linh cao hơn đa số phụ nữ Việt Nam và còn có thân mình thon với đôi chân dài. Linh luôn mặc áo đầm bó sát màu hồng hay đen làm nổi bật đôi chân mình. Cũng như nhiều phụ nữ mại dâm trong khu vực bậc trung này, Linh đầu tư hơn ngàn đô-la để sửa đổi một số bộ phận trên cơ thể như nâng vú, xâm lông mày, bơm botox trên trán, hút mỡ bụng cho thêm eo.





Váy bó sát, chân dài
Nguồn ảnh: OntheNet

Khi gần như tất cả phụ nữ mại dâm bậc thấp là dân quê lên tỉnh thì những gái đi khách như Linh thường là con nhà - nghèo theo tiêu chuẩn đô thị - ở thành phố nhưng vẫn khá giả hơn gia đình của những phụ nữ mại dâm bậc thấp. Họ, những gái đi khách bậc trung, biết những vùng phục vụ những người da trắng nước ngoài muốn tìm kinh nghiệm Việt Nam thực sự, và tất cả đều biết nói chút tiếng Anh. Tất cả những phụ nữ này làm việc tại những quán bar địa phương, trá hình là chiêu đãi viên. Tuy nhiên, họ không lãnh lương chiêu đãi viên, mà chỉ kiếm sống bằng tiền tip và qua những quan hệ tình dục với khách hàng. Những phụ nữ này học tiếng Anh bằng cách nói chuyện với đàn ông ngoại quốc trong quán bar; nhiều tham vọng hơn, một số khác còn ghi tên theo học các lớp Anh văn. Đầu tư vào việc chỉnh sửa thân hình và khả năng Anh ngữ đã giúp Linh mở đường và đặt quan hệ với người da trắng với tiềm năng kinh tế từ các nước tiên tiến.
Vào một buổi chiều, một người khách từ New York, tên Jeff, trạc hơn năm mươi tuổi vào ngồi ở quán Pink Star. Jeff mặc quần kaki ngắn, áo sơ mi ngắn tay, chân mang dép. Jeff đang mướt mồ hôi. và Linh bước đến lấy khăn ướt lau mặt cho Jeff, một việc Linh thường làm để tỏ ra mình chăm sóc khách. Hai người ngồi nói chuyện vãn bất chấp tiếng Anh bập bẹ của Linh. Họ trao đổi những câu hỏi bình thường như “Anh từ đâu đến?” “Anh ở đây bao lâu?” “Anh làm nghề gì?” “Anh bao nhiêu tuổi?” “Gia đình anh ở đâu?” Sau năm chầu rượu, Linh xà vào, thúc vào người Jeff, và nói, “Anh đưa em về nhà với anh.” Jeff cười, nói, “Okay.” Sau đó Linh nói, “Anh trả em trăm đô-la chứ?” Jeff lại cười, “Nhiều thế... Anh trả em năm mươi thôi.” Họ mỉm cười với nhau trong im lặng; vài phút sau Linh nói “Được rồi, sáu mươi.” Họ đứng dậy bước đi khỏi quán Pink Star.
Sáng hôm sau Linh gọi rủ tác giả cùng đi vườn chơi với Linh và con gái. Sau vài giờ tản bộ ở vườn chơi, họ ngồi xuống ăn trưa trong khi con gái Linh chợp mắt. Linh kể với tác giả rằng việc làm ở Pink Star chỉ là cơ hội để Linh gặp khách người nước ngoài. Khi biết khách sẽ ở lại Việt Nam một thời gian ngắn, Linh hỏi thẳng xem họ có muốn ngủ với Linh giá từ năm mươi đến bảy mươi đô-la một đêm không. Tuy nhiên, với những khách sẽ ở lại Việt Nam một thời gian lâu hơn Linh sẽ cố gắng phát triển quan hệ lâu dài đôi khi trở thành quan hệ bồ bịch phức tạp.
Hầu hết phụ nữ mại đam bậc trung đề có nhiều “bồ” một lúc. Trả lời câu hỏi nếu đã yêu người khách nào chưa, Linh nói:
“Khi mới vào nghề, em còn trẻ và không khôn lắm. Em đã yêu rất dễ rồi thương đau khi việc không thành. Bây giờ, em không để cho mình yêu nữa. Em nghĩ rằng tình yêu của em sẽ có thể đến với người đàn ông chăm lo cho em tốt nhất tại Việt Nam hay ở xứ khác. Em muốn đổi đời trước và sau đó mới yêu.”
Trong cả hai loại, quan hệ ngắn hạn và quan hệ lâu dài, Linh đều cố gắng làm cho những người đàn ông đó gởi tiền về sau khi rời Việt Nam. Linh cũng có nhiều nhân tình một lúc, nếu người này không muốn đưa Linh đi [khỏi Việt Nam] thì đã có người khác có thể làm việc đó.


Một quán bar khu “Tây ba lô” Tp HCM
Nguồn ảnh: OntheNet

Sau khi rời vườn chơi của trẻ, Linh đã nhờ tác giả giúp dịch điện thư đầu trong một loạt hàng trăm email giữa Linh và James, một thương gia người Úc, sáu mươi bảy tuổi đã là chủ công ty trước khi nghỉ hưu. Linh gặp James vào tháng Mười Hai, 2005 tại quán Pink Star khi James sang Việt Nam nghỉ hè. Hai người, ban đầu, liên lạc bằng text chat trên điện thoại di động; sau đó Linh đổi sang email vì text chat quá tốn kém.
Trong những điện thư tác giả giúp dịch cho Linh, trong khoảng tháng Sáu 2006 đến tháng Ba 2007, Linh đã vẽ lên nhiều màn kịch khủng hoảng. Thí dụ, Linh kể chuyện cha sắp chết, món nợ phải trả cho mafia nếu còn muốn sống, chuyện có thể mất nhà, ước muốn mở quán cà phê, thêm vào đó là ba trăm đô-la mỗi tháng để đi học Anh văn và trường dạy thẩm mỹ. Qua những emai loại này, đến tháng Tám 2006, Linh đã nhận được khoảng bảy trăm đô-la từ ba “người tình” nước ngoài, hai ở Úc, và một từ Mỹ. Linh thuyết phục cả ba người đó họ đều là những người đàn ông duy nhất trong đời Linh. Linh thực sự đã đi học Anh văn và học phí của một khóa đó lại do ba người đàn ông gời về chi trả. Với ngoại tệ rủng rỉnh, Linh có tiền đi sửa sắc đẹp hay mua thêm quần áo đẹp hơn, sắm điện thoại di động hiện đại hơn. Đàn bà như Linh đã tư bản hóa mối liên lạc toàn cầu bằng cách đặt ra hàng loạt chuyện hư cấu về cuộc đời của họ tại Tp HCM.
Hôm đó, tác giả đã gặp James trên Yahoo Mesenger. Linh giới thiệu với James tác giả là một người nghiên cứu về quan hệ vượt phạm vi quốc gia. Một điều ngạc nhiên là James lại tỏ ra quan tâm đến dự án nghiên cứu của tác giả. Cả hai đã giữ liên lạc qua emai, chat trên mạng, và thư qua bưu điện hơn sáu mươi lần trong khoảng tháng Bảy 2006 đến tháng Tám 2007. Vào tháng Tám 2007, tác giả đã gặp mặt James ở một quán cà phê tại Quận Nhất. Người đàn ông sau mươi bảy tuổi người Úc đã quyết định làm “Tây ba lô” suốt quãng đời còn lại.
Trong những lần trò chuyện, James mô tả về Linh như sau.
“Cô ấy là một người lương thiện, cứng cỏi, chính trực. Cô biết không, Linh mới học tới lớp sáu, nhưng biết nói tiếng Anh khá thông thạo. Chúng tôi trao đổi với nhau về nhiều chuyện. Tôi yêu Linh nhiều lắm và tôi muốn sự tốt lành nhất cho Linh. Cô ấy là một phụ nữ tinh nhanh, thông minh sống ở một nước nghèo không có được nhiều cơ hội. Tôi muốn giúp Linh mở thương vụ riêng, tự lập, không phải đi làm ở quán bar nữa.”
Qua những điện thư trao đổi, James không hề nói tới chuyện lấy tiền mua khoái lạc mà coi quan hệ vói Linh là tình yêu thực sự. James khẳng định mình yêu Linh và tin rằng Linh yêu mình thực sự. James tin chắc rằng chính James sẽ là người “cứu” Linh ra khỏi cuộc đời cô gái bán bar.
Tất cả những đức tính James gắn cho Linh như lương thiện, cần cù, liêm chính đã khuyến khích James gởi một số tiền lớn cho Linh mà không đặt câu hỏi về những câu chuyện cần tiền Linh đã kể. James thông cảm với Linh vì, như James nói, “là một đàn ông ở nước tiên tiến với quá nhiều đặc quyền, tôi cảm thấy giúp người là điều quan trọng.”
Quan hệ khách-gái đi khách ở khu mại dâm bậc trung diễn ra ở nhiều nơi như tại quán bar, tiệm cà phê, nhà hàng, khách sạn, và trên mạng Internet. Những quan hệ loại này có thể ngắn hạn như chuyện bán sex lấy đô-la hay những quan hệ dài hạn. Tác giả gọi hoạt động mại dâm loại này là “làm việc quan hệ riêng tư” vì cả hai bên, khách và gái đi khách, đều chia sẻ với nhau những câu chuyện về cuộc đời riêng của họ (dù thực hay không thực). Trong đa số các cuộc gặp gỡ giữa khách và gái đi khách, ngay từ đầu, giá cả đã rõ ràng cho dịch vụ tình dục. Tuy nhiên, khi quan hệ đôi bên phát triển, sự quan tâm riêng tư và phục dịch tình dục trở nên tròng chéo một cách phức tạp với quan hệ kinh tế. Khi những quan hệ này chuyển từ khách-gái đi khách sang nhân tình-nhân tình, gái đi khách không tiếp tục dùng bao cao su là một hình thức bày tỏ sự chăm sóc người tình. Về mặt khách mua dâm, những dịch vụ nào đáng hậu đáp bằng tiền hay tặng vật là điểm không rõ ràng lắm. James thường mua quần áo, nữ trang cho Linh; tuy nhiên, một phần rất lớn những sự giúp đỡ vật chất cuả James cho Linh là gởi tiền như là để đưa Linh ra khỏi sự nghèo đói.
Tác giả gặp lại Linh vào tháng Tám, 2009 tại Tp HCM để tìm hiểu xem đời Linh đã thay đổi thế nào. Linh và James lấy nhau vào năm 2007, Linh đã có chiếu khán xuất cảnh đi Úc sau một năm rưỡi chờ đợi. Trong bữa tiệc tiễn đưa, tác giả hỏi, “Chị có yêu James không?” Trả lời, bằng tiếng Việt trộn lẫn tiếng Anh như Linh thường thực tập để chuẩn bị xuất ngoại:
“Tụi em đã trải qua bao nhiêu là khó khăn và anh ấy làm hết sức để em có được visa. Dạ, bây giờ thì em yêu anh ấy. Trong đời này hên xui thôi, em cảm thấy rất may mắn.”
Trong dự án nghiên cứu của tác giả, đa số khách và gái đi khách ít nhất đều có cố gắng giữ mối quan hệ như tình nhân cách xa, nhưng chỉ có một số nhỏ có thể giữ được quan hệ vượt không gian, thời gian, và nhiều rào cản quốc gia - cấm đoán việc di cư. Tính đến tháng Sáu, 2009 chỉ có năm trên ba mươi mốt phụ nữ trong nghiên cứu của tác giả đã có giấy xuất cảnh đi lập gia đình. Mười sáu ngươi khác tiếp tục làm việc ở những quán bar hay về quê lấy chồng. Tác giả không liên lạc được với 10 người còn lại.
Mối quan hệ của Linh và James cho thấy gái đi khách bậc trung, trong khi hành nghề, đã qua lại hai vùng kinh tế và tình cảm một cách có ý thức. Tác giả cho rằng chính sự không cân bằng kinh tế-xã hội - và cả những thảo luận đạo đức về vấn đề này - đã làm cho đường biên giới kinh tế-tình cảm có nhiều lỗ hổng. Linh và James ban đầu gặp nhau như gái đi khách-khách, Linh cùng lúc đã có nhiều nhân tình đến khi có giấy xuất cảnh, và cuối cùng Linh đã yêu James. Cái nhãn “nghèo” của nước Việt Nam cho phép Linh và những phụ nữ cùng cảnh ngộ, đóng vai nạn nhân của sự đói nghèo trên thế giới, gây được sự cảm thông, và nhận được tiền giúp đỡ đều đặn từ vài người đàn ông nước ngoài như James. Biết nói tiếng Anh, thông thạo đường đi trong không gian lạ, đóng được vai người hướng dẫn du lịch, và đưa cả tình yêu và sự cảm thông đến với khách là những nhân tố đã gầy dựng và giữ được mối quan hệ xuyên quốc gia loại này. Có nhiều tình nhân một lúc là điều kiện cho phép Linh chọn lựa người mình sẽ phục vụ và chọn lựa cả nước nào Linh muốn di cư đến sinh sống trong tương lai. Tương tự, James dựa vào những bất bình về sự không công bằng kinh tế-xã hội toàn cầu để giải thích cho việc Linh đi vào đường mại dâm. James và những người đàn ông như ông đã biết tận dụng những khả năng về quan hệ và tình dục tại một quốc gia đang phát triển như Việt Nam ở đó họ biết tiền có thể mua cả hai, nhiều tình dục hơn và giúp được những phụ nữ họ xét là đáng được giúp đỡ.
Những câu chuyện giữa những người đàn ông và đàn bà như James và Linh đã chứng minh những phụ nữ tưởng như hoàn toàn bất lực có thể khai thác được những hệ thống áp bức trên toàn cầu và tại bản xứ bằng cách tư bản hóa được những liên hệ vượt phạm vi quốc gia và hoạt động tình dục có quan hệ với niềm hy vọng sẽ di cư sang sống ở một quốc gia khác có nhiều cơ hội hơn, và nếu “may mắn” họ còn có thể biết yêu.
Còn tiếp
Phần I; Phần II
© DCVOnline
DCVOnline minh họa.
Hồ Gươm gửi hôm Thứ Tư, 23/05/2012
Trần Giao Thủy - Em không phải là hạng gái nhơ nhớp thấp hèn (IV)
Trần Giao Thủy

Khu mại dâm cao cấp: “Cô ấy không phải là một phụ nữ nhơ nhớp thấp hèn”

Quan hệ của gái đi khách và khách hàng trong khu vực mại dâm cao cấp là những trao đổi riêng tư làm ranh giới giữa quan hệ kinh tế và tình cảm riêng tư lu mờ hơn cả ranh giới này ở khu mại dâm bậc trung. Đối với tác giả, đây là khu mại dâm khó đến gần nhất vì tác phong gái đi khách của những phụ nữ hành nghề trong khu vực này không hiển thị rõ rệt. Những phụ nữ mại dâm cấp bậc này này thường lai vãng các quán bar, quán rượu hạng sang như là khách hơn là chiêu đãi viên. Hơn nữa, quan hệ khách - gái đi khách ở khu vực này giống như quan hệ của nhân tình, bồ bịch. Vì thế tác giả khó nhận ra ai là gái đi khách ai là khách hàng của quán rượu. Tác giả đã gặp nhiều phụ nữ giới trung lưu tại các quán rượu sang trọng mà họ không phải là phụ nữ mại dâm. Tuy nhiên, vì thường một mình lai vãng đến những quán bar đó nên một số phụ nữ ngỡ rằng tác giả là một cô gái đi khách, và mời tác giả lại cùng bàn uống. Qua thời gian, tác giả trở thành người quen biết với nhiều phụ nữ khác nhau trong quán và nói chuyện với họ về đề tài đang nghiên cứu. Cuối cùng, một số đã thổ lộ cho ta giả biết họ là gái đi khách cao cấp.






Bar Chill (Quận Nhất Tp HCM)
Nguồn ảnh: flickr.com

Khách mãi dâm ở khu vực cao cấp giao du với gái đi khách ở tầm mức kinh tế và vốn văn hóa tương đương với họ. Khách loại này không đi tìm để cứu vớt những phụ nữ nghèo mà chỉ muốn tìm những thiếu nữ trẻ, đẹp và có nhiều lựa chọn. Không như những phụ nữ mại dâm ở bậc trung, gái đi khách Việt kiều giàu có không thuộc thành phần nghèo khó trong xã hội. Trên thực tế, nhiều phụ nữ trong số gái đi khách cao cấp là con nhà tương đối giàu, có kinh doanh nhỏ và có một mạng lưới xã hội và nhiều phương tiện để thoải mái lui tới những quán xá đắt tiền nhất ở Tp HCM. Dù gái đi khách cao cấp thường nhận tiền từ khách, nhưng họ coi những số tiền đó là quà tặng và không khi nào là thù lao, và nhất định không phải là cách để cứu phụ nữ ra khỏi hoàn cảnh đói nghèo.
Trong câu chuyện sau đây, tác giả minh họa những loại vốn khác nhau từ kinh tế đến văn hóa, và thể xác mà phụ nữ đi khách cao cấp có được. Tác giả gặp Ngọc, một thiếu nữ cao, mảnh dẻ, hai mươi bốn tuổi, vào tháng Năm, 2007 tại quán Con Chuồn Chuồn một trong những quán bar đắt nhất Tp HCM. Một ly nước ở đây giá rẻ nhất là bảy đô-la. Một chai Rémy Martin, loại cognac khách Việt Nam ưa chuộng, giá từ một trăm đến năm trăm đô-la. Vào một tối, tác giả đến quán Con Chuồn Chuồn khoảng 9 giờ, coi như là còn sớm. Ngọc và tác giả là hai người duy nhất trong quán, ngồi ở hai bàn khác nhau. Nửa giờ sau, tác giả lại bàn của Ngọc và tự giới thiệu. Hai người ngồi trò chuyện, uống nước, hút thuốc. Trong mùa hè đó, tác giả đã bỏ vài đêm theo Ngọc đi quanh thành phố. Gia đình Ngọc có một tiệm nhỏ bán đồ điện tử ở Quận Nhất. Ngọc mới bắt đầu làm việc với Star Capital, một công ty đầu tư có trụ sở quốc tế ở Hoa Kỳ. Thu nhập của Ngọc khoảng sáu trăm đô la mỗi tháng, làm phụ tá cho một quản lý. Như Ngọc, đa số những phụ nữ đề tài nghiên cứu trong khu vực mại dâm cao cấp này đều tốt nghiệp cao đẳng hay đại học. Cùng với nghề nghiệp vững chắc, mức thu nhập tương đối cao so với tiêu chuẩn của Tp HCM, Ngọc còn được cha mẹ giúp thêm về mặt tài chánh.
Ngọc luôn luôn diện quần áo hợp thời trang, có vài cái xách tay hàng hiệu, vài cái điện thoại di động.
Một hôm tại một spa tại thành phố, Ngọc kể cho tác giả biết những loại giải phẫu thẩm mỹ đã nâng cấp thân hình mình. Ngọc khoe với tác giả đôi vú đã nâng cao và nói bằng tiếng Việt:
“Chị coi có đẹp không nè? Em sửa ngực ở Thái Lan với một bác sĩ chuyên sửa cho mấy người đổi hệ: đàn ông muốn thành đàn bà đó chị. Ông bác sĩ khuyên em lấy cỡ C vì như vây nó coi tự nhiên hơn và đầu vú em coi đẹp hơn. Chị đừng có xài đồ rẻ ở Việt Nam như mấy cô ở Việt Nam sửa [vì] nó coi như đồ giả.”
Ngoài việc nâng vú khi hai mươi bốn tuổi, Ngọc còn nâng sống mũi, mổ cho mắt thành hai mí, hút mỡ đùi, mỡ bụng và chích botox trên trán. Ngọc làm tất cả những phẫu thuật này, trừ chuyện chích botox, tại Thái Lan - một nhãn hiệu độc đáo phân biệt Ngọc với những cô gái bản xứ khác chỉ có tiền làm phẫu thuật ở Việt Nam. Ngọc đã tốn cho những trùng tu thẩm mỹ này hơn mười hai ngàn đô-la. Ngọc còn đi spa mỗi tuần để được xoa bóp. Ngọc tốn vài giờ làm tóc, trang điểm ở tiệm trước khi đi chơi tối. Đối với Ngọc, đi làm phẫu thuật thẩm mỹ, mặc quần áo hàng hiệu, bỏ cả ngày ở spa, đi làm tóc, làm móng tay đã phân biệt Ngọc với những phụ nữ Việt Nam nghèo hơn - những người phục vụ khách hàng da trắng.


Spa (Việt Nam)
Nguồn ảnh: greentrailtours.com.vn

Tác giả và Ngọc đã bỏ vài đêm ở một số quán cà phê, nhà hàng, và quán bar và giới thiệu tác giả với nhiều bạn bè là chủ nhà hàng, chủ bar. Những người đàn ông này thường giới thiệu khách cho Ngọc. Trong những lần đi chơi với tác giả, một số đại gia Việt Nam đã đề nghị với Ngọc. Ngọc luôn luôn từ chối, vì như Ngọc nói, “Họ sẽ biết ngay là em hành nghề, và nếu có sự không may xảy ra, mọi người sẽ biết em làm gái.” Tác giả hỏi, “Còn đàn ông da trắng thì sao?” Ngọc nói, “Những người đó dành cho các cô gái quê muốn di cư. Nếu em đi với một người da trắng, mọi người sẽ biết em là gái hành nghề.” Ngoài những đại gia Việt Nam và những thương nhân da trắng, Ngọc cũng đã từ chối một số đàn ông Việt kiều. Trả lời câu hỏi tại sao lại từ chối nhiều khách hàng trong cả hai tuần lễ không có nhiều khách, Ngọc giải thích:
“Chị phải biết chọn khách. Nhiều anh Việt kiều về Việt Nam để nổ thôi, thực ra họ là những người đàn ông nghèo. Chị có thể biết đàn ông giàu và đàn ông nghèo bằng cách quan sát quần áo họ mặc, đồng hồ họ đeo, và nơi họ lui tới. Những ông Việt kiều ít tiền sẽ đi ăn ở những quán rẻ tiền, nhưng đàn ông có tiền sẽ biết đến những tiệm ăn ngon.”
Việt kiều chắc chắn biết sử dụng sức mạnh của đồng đô-la để tiêu xài được nhiều ở Việt Nam hơn là tại Mỹ nhưng Ngọc biết phân biệt Việt kiều giàu có với Việt kiều giới lao động qua cách ăn tiêu của họ.
Những gái đi khách như Ngọc tránh phát triển quan hệ với đàn ông mà họ nghĩ là Việt kiều trong giới lao động vì những người phụ nữ mại dâm này không muốn có những quan hệ đi đên hôn nhân và di cư. Như Ngọc nói:
“Em yêu Việt Nam và ở đây em thấy thoải mái. Em không muốn sống ở đâu khác. Ở Việt Nam, khi có tiền, chị có thể có tất cả. Em có các cô, các bác bên Mỹ, và chị biết đó, ở Mỹ người ta phải tự đi chợ, tự lau dọn nhà cửa, và tự nấu ăn. Em nói được tiếng Anh nhưng em biết em không thể tìm được việc có lương đủ cho em sống như vầy. Cuộc sống ở đây dễ dàng hơn nhiều nếu chị có tiền. Nếu gia đình em nghèo, Em nghĩ em sẽ muốn lấy chồng đưa em đi Mỹ để sống sướng hơn. Em không nghèo. Tại sao em lại từ bỏ lối sống này?”
Khả năng sống một cuộc sống trưởng giả quanh năm đã giúp Ngọc có những quan hệ ngắn hạn, không ràng buộc, với vài đàn ông Việt kiều, những người tiêu tiền không tiếc cho Ngọc khi họ ở Việt Nam. Ngọc biết rằng di dân Việt Nam sang các nước phát triển hiếm khi tìm được việc làm tốt trong thị trường lao động hàng đầu có những công việc vững chắc, có phúc lợi tốt, thu nhập cao. Thường thì di dân Việt Nam làm việc thấp kém với đồng lương thấp. Ngọc không muốn lấy chồng, rồi xuất ngoại vì khả năng đời sống bị xuống cấp quá lớn. Vào một lúc khác, trả lời câu hỏi của tác giả, “Nếu em đã có đủ tiền, và em không muốn sống ở Mỹ, thì tại sao em lại bỏ thì giờ với những người đàn ông đó?” Ngọc nói [bằng tiếng Anh]:
“Em nay hai mươi sáu tuổi và em chưa muốn lập gia đình. Đời sống gia đình ở đây không dễ dàng. Em thấy quá nhiều ông chồng phụ rẫy vợ đi theo những cô gái trẻ, đẹp hơn và em muốn vui sống càng lâu càng tốt. Đó chỉ là tạm bợ. Mấy anh (Việt Kiều) đó rồi sẽ trở về Mỹ, và được chiều chuộng bằng quà tặng và có thêm tiền là điều sung sướng. Em thấy vui khi làm những việc này. Em còn trẻ, tại sao không, đúng không chị?” Em không thể làm thế này nữa khi vào tuổi ba mươi, đó là lúc em sẽ lấy chồng.
Những thuận lợi về mặt xã hội, văn hóa, kinh tế, và sắc đẹp thể chất đã cho phép Ngọc di chuyển trong thế giới những Việt kiều giàu có lui tới. Vốn thể xác, tiềm năng kinh tế, và khả năng chuyển đạt một hình ảnh phụ nữ cao sang đã khiến cho Ngọc có thể dùng sức mạnh với khách mãi dâm của mình. Trong một câu chuyện về hai người tình, Ngọc kể:
“Đôi lúc em phải nhanh trí lắm. Lắm lúc có nhiều đàn ông quá để em kịp xếp đặt. Em không muốn họ nghĩ là em đi [khách] với tất cả mọi người vì thế có lúc em phải nói láo là em bận đi làm việc ở Hà Nội, em bận đám giỗ trong gia đình, hay em có nhiều việc ở sở quá. Em kiếm được nhiều tiền hơn khi em có thể xắp đặt nhiều mối quan hệ nhưng giống như em chạy show vậy [Chạy từ khách này sang tiếp khách khác trong cùng đêm].”
Những phụ nữ như Ngọc cẩn thận thu xếp những quan hệ với khách hàng bằng cách làm như họ bận rộn, quan trọng, và được nhiều người theo đuổi. Sức mạnh mà những phụ nữ này có thể dùng với khách hàng khiến họ có thu hút thêm nhiều sự chú ý và cho phép chọn lựa chọn khách kỹ càng. Hơn nữa, vì Ngọc không cần tiền nhận được từ khách hàng, Ngọc lại càng có thể sáng tạo hơn nữa khi đòi hỏi những tặng vật đắt tiền. Điều này cho phép Ngọc chiến lược hóa cách làm thế nào lấy tiền của khách. Những gái đi khách trong khu vực mại dâm cao cấp không khi nào hỏi thẳng khách hàng về tiền bạc như phụ nữ mại dâm ở hai khu vực thấp hơn. Thay vào đó họ chỉ nhẹ nhàng nói họ muốn có tiền đi mua sắm hay mua đồ mới. Nếu khách hàng không mặc nhận, những phụ nữ đi khách sẽ không trả lời điện thoại hay tin nhắn của khách nữa. Tác giả quan sát thấy một vài mối quan hệ tan đi vì khách không đền bù xứng đáng những người tình của họ.
Vào tháng Sáu, 2007, Ngọc giới thiệu, với tác giả, Tuấn, một Việt kiều Pháp, đã hành nghề bác sĩ chỉnh răng 15 năm trước khi trở về mở phòng mạch ở Việt Nam. Tại một trong bốn cuộc phỏng vấn không chính thức, Tuấn nhận định:
“Tôi ba mươi chín, sắp đến tuổi bốn mươi và tôi chưa định lập gia đình với ai cả nhưng tôi cũng không muốn cô đơn suốt ngày. Đây là một thành phố đi chơi đêm rất lý thú. Tôi không muốn bị ràng buộc vì thế tôi đi chơi với những cô gái - như là gái đi khách - Tôi biết mình phải mua quà và tiêu tiền cho cô ấy. Và tôi cũng không thể đi chơi với bất kỳ cô nào. Tôi cần đi với những cô trẻ, và đẹp. Đi chơi ở Việt Nam, người ta dòm ngó mình. Nếu mình có tiền thì không thể đi chơi với gái rẻ tiền được.”
Đàn ông Việt kiều tìm đến với phụ nữ bản xứ không chỉ vì tình dục. Những người đàn ông này mua dịch vụ của những gái đi khách mà sự khéo léo và sắc đẹp phải khác những phụ nữ mãi dâm bậc thấp hơn phục vụ ngoại kiều da trắng. Những người đàn ông như Tuấn muốn ở quanh những người đàn bà giúp họ trưng bày tính đàn ông của họ ở những nơi rất công cộng. Gái đi khách cao cấp đóng vai nhân tình của khách hàng sành sõi hơn những phụ nữ mại dâm các bậc thấp hơn vì họ không làm việc trá hình như những chiêu đãi viên quán bar. Họ có thể trả tiền mua nước và dịch vụ tại những quán bar, quán cà phê hạng sang dành cho người nước ngoài. Khách cấp cao như Tuấn tiêu nhiều tiền cho đàn bà như Ngọc, vì, như Tuấn nói [bằng tiếng Anh]:
“Sài Gòn là một thành phố nhỏ. Ở Paris, tôi có thể bước vào một quán bar và chi hàng ngàn đô-la và không ai để ý đến. Ở Pháp, người giàu dấu tiền của họ. Ở đây, Sài Gòn, là chuyện khác. Khi tôi vừa đến quán bar thì mười người trước cửa đến đưa tôi vào bàn. Khi tôi bỏ năm trăm đô-la cho một chai Rémy [Martin], mọi người để ý ngay. Đối với đàn bà cũng vậy. Khi tôi đi với một thiếu nữ trẻ đẹp mà nhiều đàn ông khác thèm muốn, tôi không ngại tiêu tiền mua quà đắt tiền cho cô ấy. Cô ấy không phải là hạng gái nhơ nhớp thấp hèn. Ngòai ra khi người ta thấy cô ấy đeo xách tay và dùng điện thoại đắt tiền thì người ta lại thấy tôi ngon lành.”
Hơn nữa, những quan hệ mật thiết hẳn phải có chuyện tình dục ở những không gian riêng tư, đồng thời với những quan hệ khách - gái đi khách xảy ra tại những nơi rất công cộng như quán bar, cà phê, nhà hàng, khách sạn, và trên đường phố. Lao động mật thiết xảy ra ở nhiều nơi cùng lúc với những hình tức đền bù khác nhau. Những người khách này thường chi những món tiền lớn mua điện thoại di động đắt tiền, xe máy, xách tay và áo quần hàng hiệu cho gái đi khách, tất cả những thứ đó đều là dấu hiệu độc đáo. Những khách hàng thường sẵn sàng chi tiêu tùy tiện mua tặng vật cho phụ nữ mại dâm vì - như Thanh, một chuyên viên sửa máy điện tính ở Paris giải thích - “Tôi không đi với những cô gái thấp hèn, nhơ nhớp. Những cô này đều trẻ đẹp, và những đàn ông khác đều muốn họ. Họ tinh nhanh, biết nói tiếng Anh, và là con của những gia đình tốt.”Tóm lại, chuyện mua dâm từ những gái đi khách cao cấp liên quan đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, và vốn thể xác. Trả lại, khách hàng đền bù phụ nữ mại dâm băng tặng vật đắt giá và tiền mặt. Tuy nhiên, tiền mặt luôn luôn được xem là quà tặng chứ không phải là phương tiện để thỏa mãn một nhu cầu như đối với gái đi khách ở những bậc thấp hơn.
Đàn ông Việt kiều còn tìm đến với những phụ nữ bản xứ có nét đàn bà Việt Nam lý tưởng của họ. Khi tác giả hỏi Tuấn tại sao ông lại thích phụ nữ Việt Nam hơn phụ nữ Việt Kiều, Tuấn nói:
“Những nhân tình cũ của tôi ở Paris đều là phụ nữ có sự nghiệp. Một người là luật sư. [Cô ấy] yêu tôi rất nhiều, nhưng cô ấy quá độc lập, và như một người đàn ông, tôi chỉ muốn cảm thấy mình có thể bảo vệ được cô ấy. Tôi không cảm thấy điều đó. Tôi không cảm thấy mình là người đàn ông có thể chăm lo cho cô ấy, vì cô ấy độc lập quá.”
Như Tuấn nói, phụ nữ Việt Nam có thể làm Tuấn cảm thấy thoải mái, không như phụ nữ ở phương Tây, họ biết làm nổi bật sự phụ thuộc của họ vào đàn ông và đưa tự do ý chí vào hậu cảnh để cho đàn ông cảm thấy mình quan trọng.
Đàn ông Việt kiều, không như đàn ông da trắng, có vốn ngôn ngữ và văn hóa để tham gia vào khu mại dâm cao cấp. Trong khi tại những khu mại dâm thấp hơn, khách hàng và gái đi khách nói chuyện thẳng thừng hơn về hình thức trả thù lao, thì ở khu mại dâm cao cấp quan hệ khách-gái đi khách là những trao đổi kín đáo và gián tiếp. Thực vậy, vì những phụ nữ mại dâm cao cấp trong nghiên cứu của tác giả ngụy trang nghề nghiệp hay đến nỗi có nhiều khách hàng người da trắng không biết làm thế nào để đi đến với họ. Trái lại, đàn ông Việt Kiều lại rất thoải mái trong những điệu nhảy quanh co phức tạp giữa hai người mà gái đi khách hạng sang chờ đợi. Điều này hiển nhiên nhất vào lúc tuyệt giao, khi quan hệ hai bên đang trở nên bất ổn. Khách hàng hiểu rằng họ cần phải đề bù người tình của họ bằng cách nào đó; nếu không thì quan hệ sẽ tan biến. Trung, một Việt kiều từ Quận Cam ở California, nhận xét:
“Tôi đang đi chơi với một cô. Cô ấy tuyệt vời! Khi chúng tôi đi chơi với nhau cô ấy xin tôi quà tặng này nọ, tôi bèn mua quần áo, nước hoa bebe [một loại hàng hiệu của Mỹ]. Tôi đưa tiền để cô ấy đi mua sắm, và những chuyện khác vân vân. Tôi biết tôi phải tặng quà cho cô ấy nếu không cô ấy sẽ đi với người khác giàu hơn. Rồi một hôm, cô ấy muốn tôi mua một chiếc xe máy. Tôi nói tôi sẽ mua cho cô ấy chiếc Attila [giá hai ngàn đô-la], nhưng cô ấy nói với tôi một người phụ nữ như cô ấy không thể để người ta thấy lái xe rẻ tiền đi vòng vòng, vì người đời sẽ nhìn vào và đánh giá cô ấy. Cô ấy muốn tôi mua cho cô ấy một chiếc Dylan hay một chiếc SH. Những hiệu xe máy này giá chín ngàn đô-la. Tôi nói không. Thế là hết - chúng tôi chia tay. Cô ấy ngừng trả lời điện thoại và tin nhắn của tôi.”
Trung không có khả năng mua xe máy đắt tiền cho tình nhân đã chấm dứt quan hệ giữa hai người. Không cần cô gái [đi khách] nói thẳng, Trung cũng hiểu khi tiền và tặng vật không tới thì quan hệ cũng không còn.
Trong những trao đổi với khách hàng và gái đi khách cao cấp tác giả ghi nhận hành động làm tình vừa là cách để phụ nữ mại dâm xếp họ vào loại gái hạng sang và còn làm cho khách hàng cảm thấy quan hệ mật thiết hơn nữa. Những gái đi khách trong khu vực cao cấp thường không chịu quan hệ tình dục để ra vẻ mình không phải là hạng gái “dễ”, ai cũng đi. Khi quan hệ tình dục, gái đi khách thường nói với khách là họ chỉ có một người tình và vì thế không cần phòng ngừa khi có mây mưa. Tuy vậy, đa số khách hàng trong nghiên cứu của tác giả cho biết họ dùng bao cao su vì không muốn vô tình làm đàn bà mang bầu. Như Huy nói, “Nếu tôi làm cô ấy mang thai thì tôi sẽ phải đưa tiền cho cô ấy một thời gian dài, và tôi không muốn người đàn bà nào nắm đầu tôi như thế.”
Quan hệ kinh tế và quan hệ mật thiết trong khu mại dâm cao cấp tròng chéo trong nhau, vì cả hai, khách và gái đi khách, đều cố hết sức phân biệt họ thuộc giới sang trọng. Thói quen tiêu dùng của gái đi khách cao cấp đã khiến những đàn ông như Tuấn có thể phân biệt họ với đàn ông da trắng mãi dâm ở thị trường bậc trung. Một số đàn ông da trắng cũng tiêu rất nhiều tiền cho gái đi khách bậc trung nhưng họ minh giải bằng những cách khác. Đàn ông da trắng quan hệ với gái mại dâm “cần” được giúp đỡ trong khi đàn ông Việt kiều đi với gái đi khách - những người giúp họ xác định một địa vị nào đó ngoài công cộng. Cái lô gíc văn hóa của sự ao ước đã gắn liền không chỉ trong khả năng quan hệ của khách với gái đi khách cao cấp mà còn thấy ở khả năng của gái đi khách để tách biệt họ với những phụ nữ mại dâm bậc trung và thấp - những người không có những loại vốn thể xác, văn hóa, xã hội, và tượng trưng. Phụ nữ mại dâm như Ngọc là thuộc giới gái đi khách thạo đời bậc nhất vì họ có tiền, có kỹ năng, và ngoại hình để ngụy trang nghề bán dâm của họ. Khách mua dâm ở khu cao cấp được chi trả cho những mối quan hệ mô tả rõ rệt bằng một tập hợp kín của lao động mật thiết tròng chéo với một thỏa ước kinh tế. Phụ nữ mại dâm bậc thấp phục vụ tình dục cho khách là chính, trong khi gái đi khách cao cấp cung cấp cho khách hàng những cuộc hẹn hò ngắn hạn ở mặt thể chất, tình dục, và tình cảm riêng tư.
(Còn tiếp)
© DCVOnline
Hồ Gươm gửi hôm Thứ Sáu, 25/05/2012
Trần Giao Thủy - Em không phải là hạng gái nhơ nhớp thấp hèn (Kết)
Trần Giao Thủy

Kết luận

Sau dự án nghiên cứu về các khu vực mại dâm tại Tp HCM, tác giả Kimberly Hoàng đưa ra một số nhận định tổng quan như sau.
Sự kiện đàn ông và đàn bà, trong mạch toàn cầu của nghề mại dâm, tìm đến nhau xuyên biên giới quốc gia đã làm thay đổi sâu sắc cấu trúc xã hội của việc mua bán tình dục. Những nghiên cứu về mại dâm trong nền kinh tế toàn cầu cho thấy những phụ nữ nghèo tại các nền kinh tế của các nước chậm tiến, trong mạch sinh tồn, ở vòng ngoài của hệ thống toàn cầu đó, đang phấn đấu để vượt thoát khỏi cuộc sống nợ nần, nghèo khó. Những nghiên cứu này cũng quá chú trọng đến số đàn ông da trắng từ các nước phương Tây đi mua dâm rẻ tiền của phụ nữ ở các quốc gia đang phát triển. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã phức tạp hoá cơ cấu tổ chức của nghề mại dâm toàn cầu bằng cách phân tích kỹ nghệ mại dâm tại Việt Nam, một nước đang phát triển, ở đó không phải tất cả phụ nữ hành nghề mại dâm đều là những người nghèo hay người bị bóc lột; và cũng trong nghiên cứu đó tác giả đã chứng minh đàn ông da trắng không phài là khách hàng của khu vực mại dâm giá đắt nhất.
Trở lại Tp HCM, tác giả biện luận rằng sự toàn cầu hóa không sinh ra một thị trường tách biệt người giàu của thể giới với người nghèo bản xứ. Tác giả cho rằng giới nghiên cứu cần xét đến sự khác biệt ngay trong những loại mại dâm khác nhau vì sự toàn cầu hóa đã khai triển kỹ nghệ mại dâm tạo thành nhiều thị trường không như nhau, và có nhiều thành phần tương tự như trong các ngành nghề khác. Nghề mại dâm trong bối cảnh toàn cầu hiện nay trông giống như một nền công nghiệp có tổ chức và phân tầng theo tiềm năng kinh tế, vốn văn hóa và vốn thể xác của người trong nghề.
Rút tỉa từ lý thuyết về vốn của Bourdieu và khái niệm quan hệ riêng tư của Zelizer, tác giả đã góp phần vào công trình nghiên cứu chung của thế giới bằng cách chú trọng đặc biệt đến vị trí kết cấu của cả người mua và người bán dâm. Tác giả đã giải thích làm thế nào một số phụ nữ mại dâm đã có thể hành nghề trong khu vực đắt tiền trong một số gái đi khách khác vẫn không ra khỏi khu mại dâm bậc thấp và do đó không có nhiều chọn lựa về mặt khách hàng.
Trái ngược với nghiên cứu của Rosen and Venkatesh, không phải tất cả phụ nữ hành nghề trong khu kinh tế [mại dâm] không chính thức này vì không có việc làm trong những khu vực kinh tế chính thức. Phụ nữ có tiền và sắc đẹp đã quan hệ với Việt kiều như Tuấn, cùng lúc phụ nữ mại dâm nghèo thường chỉ có khách như Khoa.
Bài viết của tác giả trên tạp chí “Contemporary Ethnography” chứng minh làm thế nào khách và phụ nữ mại dâm, bằng nhiều cách khác nhau, đã lợi dụng được vị trí của Tp HCM - một thành phố quốc tế đang lên trong nền kinh tế chính trị toàn cầu. Tp HCM cho phép những người đàn ông ở bên lề các xã hội tiên tiến có thể mở rộng quan hệ xuyên quốc gia và đóng vai người cung cấp về mặt kinh tế cho phụ nữ của các nước nghèo. Cùng lúc, cái nhìn của phương Tây về phụ nữ Việt Nam là những người đang vùng vẫy để thoát cảnh đói nghèo của xứ chậm tiến đã cho phép phụ nữ mại dâm bậc trung khai thác tiền đều đặn từ những khách hàng da trắng ở Mỹ, Úc, và châu Âu. Trớ trêu thay, chính sự phát triển kinh tế hiện nay tại Việt Nam xác định rõ cơ cấu tổ chức của khu vực mại dâm cao cấp. Khi Việt Nam đang trở thành một nền kinh tế “rồng bay” thì Việt kiều hồi hương hàng loạt, không chỉ chạy đuổi theo việc làm và cơ hội đầu tư trong nước mà còn vì địa vị xã hội, để thỏa nỗi nhớ nhà và để chung đụng với các phụ nữ thạo đời. Khu mại dâm ở Tp HCM đã tạo những không gian công cộng cho đàn ông Việt kiều có chỗ hãnh diện, và công khai tranh đoạt những thứ bậc chủng tộc toàn cầu bằng cách tiêu thụ đặc thù của họ.
Về mặt lý thuyết và phương pháp thì dự án của tác giả Kimberly Hoàng một trong những nghiên cứu đầu tiên xét về cả hai mặt của quan hệ giữa khách và phụ nữ mại dâm. Những tài liệu hiện có chú trọng quá nhiều về phía phụ nữ mại dâm và không xét đến những động lực khác nhau của những người khách mua dâm. Hơn nữa, dữ kiện rút được từ những cuộc phỏng vấn cho phép người ta hiểu được những động lực cá nhân cùng cách giải thích rõ những quan hệ của họ, khách và gái đi khách, cùng lúc những nghiên cứu về nghề mại dâm được lợi nhờ bề dày của khoa dân tộc học nắm bắt được những quan hệ năng động giữa khách hàng và phụ nữ mại dâm trong khu kinh tế phân tầng.
Cấu kết công trình của Bourdieu và Zelizer với nhau, tác giả đã tô đậm những nhân tố cấu trúc đưa đến ba loại trao đổi: kinh tế, quan hệ, và tình dục. Nghiên cứu của tác giả là một thách đố với quan điểm cho rằng nghề mại dâm chỉ là những hoạt động bán dâm lấy tiền. Khách và gái đi khách ở khu vực mại dâm cấp thấp trao đổi về mặt kinh tế: dùng tiền trong việc mua bán dâm, trong khi khách và phụ nữ mại dâm ở bậc trung và cao cấp đến với nhau vì những trao đổi quan hệ và tình dục bằng cách tạo ra và giữ bền những liên hệ với nhau. Vì khách và gái đi khách thương lượng trong phạm vi giao dịch và tình dục bằng quan hệ đôi bên trong bối cảnh kinh tế mại dâm toàn cầu, việc mua dâm không phải chỉ có tình dục, vì một số lớn tốn phí cho dịch vụ này không phải chỉ có tiền.
Qua loạt bài này, người viết mong rằng đã giới thiệu được với bạn đọc những thông tin, dữ liệu và dữ kiện cũng như những nhận định, phân tích mà tác giả đã trình bày trong luận văn nghiên cứu về chủ đề mại dâm tại Tp HCM đóng góp vào sự tiến bộ của kiến thức xã hội.
Một số người đọc cũng có thể đặt câu hỏi và tiếc rằng tác giả đã không có nghiên cứu về mặt xuất cảng mại dâm, hay đưa ra giải pháp cho vấn đề mại dâm tại Việt Nam.
Nghiên cứu khoa học là việc làm chung của nhiều học giả khắp nơi trên thế giới, và tất cả đều có chọn lựa cũng như giới hạn trong chủ đề nghiên cứu ở mọi thời điểm của sự nghiệp cá nhân.
Giải pháp cho vấn đề mại dâm tại Việt Nam hay tại những quốc gia khác trên thế giới không phải là chưa có. Sau đây là một số những chính sách khác nhau của một vài quốc gia dùng như những đáp án cho vấn đề mại dâm.
Loại bỏ mại dâm bằng cách xem các hoạt động này là bất hợp pháp, như Việt Nam hiện nay.
Loại bỏ luật hình sự về mại dâm, điển hình như New Zealand (Tân Tây Lan).
Hợp pháp hóa mại dâm như tại bang Victoria của Úc. Cùng lúc, thủ đô Canberra lại áp dụng chính sách bỏ luật hình sự về mại dâm và có kiểm soát. Tương tự, Hoa Kỳ dùng chính sách loại bỏ mại dâm (Californa) đồng thời cũng hợp pháp hóa mại dâm (Nevada).
Giải phóng mại dâm như tại Anh Quốc, Canada. Tại đây hành động tình dục với khách không phải là hoạt động phạm pháp, nhưng các hoạt động xung quanh như chào mời khách hay thương lượng với gái đi khách làm cản trở lưu thông là những hoạt động vi phạm pháp luật.
Giải phóng mại dâm kiểu mới như tại Sweden; luật pháp ở đây truy tố khách mãi dâm thay vì kết tội phụ nữ mại dâm.





Ánh sáng cuối đường hầm?
Nguồn ảnh: mindthis.ca

Nói chung, không có đồng thuận về những giải pháp cho vấn đề mại dâm trên thế giới – một hiện tượng xã hội đã có tự ngàn xưa; hiện nay chưa có một chính sách hay giải pháp nào đáp ứng thỏa đáng được ngay các mục tiêu đã đề ra. Kết quả cho thấy mại dâm không thể giải quyết được chỉ bằng luật pháp, hay chính sách. Như tác giả và những học giả khác đã phân tích, đây là một vấn đề xã hội kinh tế phức tạp. Có chính sách và những can thiệp xã hội cũng chưa đủ để giúp đạt được kết quả. Như thế, người ta khó có thể chờ đợi tác giả hay bất kỳ học giả nào khác hoặc một chính quyền nào trên thế giới đưa ra đáp án giải quyết dứt điểm vấn đề mại dâm – dù có thể gây bất bình cho khách mua dâm và phụ nữ tự chọn hành nghề.
Một đáp án giải quyết tận cùng và toàn mỹ vấn đề mại dâm toàn cầu, có lẽ, sẽ mãi mãi là điều không thể có được vì tính đa nguyên của vấn đề và sự khác biệt về nhiều mặt, xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa, của mỗi quốc gia.
© DCVOnline
_____________________________
Tham khảo:
– Kimberly Kay, Hoang, Economies of Emotion, Familiarity, Fantasy, and Desire: Emotional Labor in Ho Chi Minh City’s Sex Industry, Sexualities 13(2): 255-272. 2010.
– Kimberly Kay, Hoang, She's Not a Dirty Low Class Girl: Sex Work in Ho Chi Minh City, Journal of Contemporary Ethnography 40(4): 367-396. 2011.
– Karen Hindle, Laura Barnett and Lyne Casavant, Prostitution: A Review of Legislation in Selected Countries, 20 November 2003 – Revised 19 November 2008. Legal and Legislative Affairs Division, Parliament of Canada.
DCVOnline minh họa         
(nguồn danluan)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001