Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012


TRUNG QUỐC - HOA KỲ -
Bài đăng : Chủ nhật 06 Tháng Năm 2012 - Sửa đổi lần cuối Chủ nhật 06 Tháng Năm 2012


Bắc Kinh và Washington chơi trò dọa dẫm nhau


Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đảo (phải) tiếp Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh, 04/05/2012
REUTERS

Minh Anh
Sự phát triển như vũ bão của Trung Quốc đang thúc bách bộ máy chính quyền và làm cho mối quan hệ với Mỹ trở nên phức tạp nghiêm trọng. Washington phản ứng lại thông qua các biện pháp được cho trước hết là thế dự phòng nhưng cũng có thể được hiểu là trong thế tấn công. Các biện pháp này đang thúc đẩy Bắc Kinh lao vào cuộc đua.

Quan sát mối quan hệ phức tạp Mỹ - Trung, ông Trầm Đinh Lập, viện trưởng Viện nghiên cứu quốc tế và là giám đốc Trung tâm nghiên cứu về Hoa Kỳ, thuộc trường đại học Phục Đán tại thượng Hải có bài viết nhận định đề tựa « Bắc Kinh và Washington chơi trò hù dọa lẫn nhau », đăng trên nguyệt san Le Monde Diplomatique số ra tháng 5/2012.
Một cách tổng quát, Trung Quốc sở hữu đầy đủ các yếu tố để có thể trở thành một siêu cường trong tương lai : tăng trưởng kinh tế cao (tăng gấp 10 lần trong vòng một thập niên), ngân sách quốc phòng đứng hàng thứ hai trên thế giới (cao hơn của Nhật Bản đến 80% và của Ấn Độ là 200%). Trong lãnh vực này, cách biệt với Mỹ đã được rút ngắn xuống từ tỷ lệ là 1:20 trong năm 2000 thì nay chỉ còn có 1/7.
Như vậy, trong bối cảnh này, quan hệ Mỹ - Trung đã có nhiều thay đổi kể từ năm 2000. Điển hình là kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính năm 2008, Bắc Kinh không ngừng tự khẳng định mình trên trường quốc tế và ngay cả trong quan hệ với Mỹ. Nhiều vụ va chạm đã xảy ra từ việc phản đối nhau trên hồ sơ giảm khí thải carbon tại thượng đỉnh Copenhague, va chạm nhỏ giữa hải quân hai nước trên vùng Biển Đông, cho đến hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên và Iran.
Điều đó cũng không cản trở việc mở rộng quan hệ hợp tác của hai quốc gia trên nhiều lãnh vực : Chống khủng bố, chống tăng cường vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Nhưng nó cũng không có nghĩa là không có tranh chấp.
Trên phương diện kinh tế, Washington chỉ trích Bắc Kinh là « đánh cắp » việc làm của người Mỹ và cạnh tranh gian lận qua việc hạ giá đồng nhân dân tệ và vi phạm quy luật thị trường.
Về mặt chiến lược, Hoa Kỳ lo ngại khi thấy Trung Quốc đang lao vào một cuộc chạy đua vũ trang và biểu thị sức mạnh của mình trên toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, tác giả lập luận rằng, nếu xã hội Mỹ bị xói mòn do mất việc làm và việc di dời các xưởng sản xuất gia công, đấy cũng là do những đòi hỏi về hiệu suất tối đa của chủ nghĩa tự do kinh tế và chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, cạnh tranh không chỉ xảy ra giữa Trung Quốc và Mỹ, mà còn một phần là giữa toàn bộ các nước công nghiệp hoá và một phần khác là giữa các nước đang phát triển . Tác giả cho rằng, ai cũng biết rõ luận điểm này, nhưng mỗi bên sẽ chơi phần nhạc của mình ngay trong năm bầu cử tổng thống Mỹ này.
Quan hệ đối tác kỳ lạ
Theo một quan điểm chiến lược, rõ ràng Mỹ tỏ ra không mấy thích thú khi thấy Trung Quốc ngày càng đi lên thành cường quốc : từ việc quốc gia này hiện đại hoá quân đội, tăng cường các chương trình không gian cho quốc phòng cho đến việc trang bị cho hải quân các loại vũ khí hiện đại và tên lửa hạt tầm xa.
Chính vì thế, càng triển khai thêm quân ở châu Á – Thái Bình Dương, chính quyền Washington càng rút bớt quân ở Irak và Afghanistan. Đồng thời, Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ với các đồng minh và các đối tác mới để trắc nghiệm khả năng của hải quân Trung Quốc nhất là ngay trên vùng Biển Đông.
Ngay từ khi mới đặt chân vào Nhà Trắng, tổng thống Mỹ Barack Obama đã từng mong muốn ưu tiên con đường ngoại giao hơn là đối đầu. Và phương pháp này, ít nhiều cũng đã gặt hái được một số thành công, nhất là trong trường hợp Miến Điện. Về phần các hợp tác quân sự hiện nay với Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Việt Nam, tác giả cho rằng chiến lược này của Mỹ không hẳn là không có dụng ý chiến lược và tư tưởng đằng sau.
Trên phương diện kinh tế, tác giả nhắc lại Trung Quốc đi theo hướng kinh tế thị trường vào thời điểm mà toàn cầu hóa đã bắt đầu giúp cho con người, dòng vốn tư bản và thông tin được lưu thông tự do hơn. Các nhà đầu tư của Mỹ vào thời điểm đó đã tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt tại Trung Quốc để tìm kiếm lợi nhuận. Vào thời điểm này, Bắc Kinh đang cố gắng phát triển nền công nghiệp đất nước, còn Mỹ thì tiêu thụ với giá hời và để lại cho Trung Quốc vô số nhà máy gây ô nhiễm.
Trong bối cảnh này, theo nhận xét của tác giả, Bắc Kinh và Washington đã thắt chặt một mối quan hệ đối tác vừa kỳ dị mà cũng vừa không thể nào tách rời ra được. Trung Quốc gây ô nhiễm môi trường của mình để cho phép Mỹ kiếm lợi. Nhưng đồng thời, Trung Quốc cũng mua các công trái phiếu của Hoa Kỳ để cho phép quốc gia này đi phung phí tài sản của mình tại Iraq hay tại Afghanistan. Theo nhận định của tác giả, nếu Trung Quốc cũng gánh vác một phần trách nhiệm trong thảm họa tài chính lần này, thì bản thân họ cũng là nạn nhân. Số công trái phiếu trị giá 1150 tỷ đô-la do Bắc Kinh nắm giữ góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng khủng hoảng tài chính và cho phép Washington có thể tiêu xài trên chiến trường Afghanistan. Tuy nhiên, việc Ngân hàng Trung ương Mỹ phát hành tiền cho phép nước này có thêm vốn, nhưng lại làm giảm đi giá trị của số đô-la mà Trung Quốc đang nắm giữ.
Khủng hoảng tài chính kéo dài buộc đôi bên phải nghĩ đến việc cần thiết phải thực hiện tái cân bằng. Từ lợi ích quốc gia, Trung Quốc buộc phải phát triển tiêu thụ nội địa, quan tâm đến vấn đề môi sinh và giảm thặng dư mậu dịch.
Đối với Mỹ, đã đến lúc phải đưa một phần sản xuất về lại trong nước nhằm tạo một cán cân mới giữa tài chính và công nghiệp. Các nhà lãnh đạo Mỹ cũng nhìn nhận, đành rằng thành lập các xí nghiệp tại Trung Quốc sẽ thu lợi cao, nhưng nó cũng đào sâu thêm chênh lệch xã hội và cũng va chạm đến những giá trị đạo đức.
Hơn nữa, tác giả cũng nhận thấy rằng cả hai quốc gia đều không có cùng qui mô chiến lược. Hoa Kỳ có một ý chí bá chủ toàn cầu và sở hữu lực lượng quân sự duy nhất có khả năng triển khai nhanh chóng trên cả hành tinh. Một khả năng mà Trung Quốc phải còn rất lâu mới có thể có được.
Đài Loan, điểm chú tâm theo dõi của cả Trung Quốc và Mỹ
Kể từ bây giờ cả hai nước lại đặt mình trong một lô-gích xung đột. Việc bán vũ khí cho Đài Loan đẩy Trung Hoa đại lục phải hiện đại hoá quân đội. Ngược lại, việc Trung Quốc thúc đẩy tiến trình quân sự hoá cũng làm cho Washington nghi ngờ Bắc Kinh có mưu đồ chiến lược vượt ra ngoài phạm vi ảnh hưởng của mình.
Bởi vì Trung Quốc chế tạo các máy bay mà tầm bay không hề được giới hạn trong khu vực. Các chiến đấu cơ này đậu trên các chiến hạm trong vùng vịnh Aden và xác nhận mong muốn có được các khu căn cứ hỗ trợ ở nước ngoài.
Các tín hiệu này đã khiến cho Mỹ phải tăng cường các đợt trinh sát trong các vùng lãnh hải và không phận Trung Quốc. Do đó, để bảo vệ cho các chiến dịch trong trường hợp can thiệp quân sự lên Đài Loan, Trung Quốc đã phiêu lưu đến mức hộ tống các chiến hạm và máy bay chiến đấu của Mỹ ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Một số báo cáo còn nêu rõ dụng tâm của Bắc Kinh xem Biển Đông như là một phần lợi ích quốc gia mình. Thái độ này cũng như là chính sách của họ đối với Nhật Bản và vùng bán đảo Triều Tiên giải thích rõ phần nào sự trở lại của Hoa Kỳ tại châu Á. Bởi lẽ Trung Quốc đã cung cấp cho họ một cái cớ về tự do lưu thông hàng hải tại Biển Đông.
Chọn lựa này tuân theo hai mục tiêu : Tăng cường sự hiện diện của Mỹ trong khu vực và dự báo mọi sự vi phạm luật quốc tế tại Thái Bình Dương. Trên thực tế, liên quan đến việc lưu thông ngoài khơi, quyền lợi của cả đôi bên là trùng nhau. Bên này và bên kia đều phải có được sự tự do lưu thông hàng hải. Không có lý do gì để thúc đẩy sự hiện diện của Mỹ, nếu như không có bên nào có ý định chặn con đường lưu thông huyết mạch. Vấn đề là tốt hơn hết nên thiết lập quyền và nghĩa vụ của từng bên. Hoa Kỳ cũng cần phải cam kết không gây cản trở về các quyền cơ bản của Trung Quốc. Như vậy, việc tái cân bằng lại quyền lực giữa đôi bên sẽ là một ván cờ quan trọng trong thập niên tới.
Liên minh Đại Tây Dương muốn châu Âu phải đóng góp nhiều hơn nữa
Cũng liên quan đến lãnh vực ngoại giao, Le Monde Diplomatique quan tâm đến Hội nghị Thượng đỉnh Chicago của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương sắp diễn ra vào các ngày 20 và 21/5/2012. Theo quan sát của tác giả bài viết thì « Liên minh Đại Tây Dương muốn châu Âu phải đóng góp nhiều hơn nữa ».
Trong khi khủng hoảng tinh thần trong nội bộ sẽ đè nặng lên các cuộc tranh luận tại Chicago, thì thêm vào đó là áp lực của bầu cử tổng thống Mỹ. Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh của khối kể từ 13 năm nay. Về mặt lô-gích, chính quyền Obama mong muốn đưa ra các thông cáo kiên quyết và mang tính chất cải tổ cơ cấu. Họ cũng muốn trình bày các vấn đề dưới một góc nhìn tiến bộ, với mục tiêu là tránh sự chỉ trích của đối thủ là phe Cộng hoà. Điều đơn giản nhất cho ê-kíp của ứng viên phe Dân chủ là chứng tỏ rằng khối NATO hậu Afghanistan vẫn là một việc « quốc sự » đối với Washington về mặt chiến lược, nhất là trên phương diện công nghiệp và công nghệ - một lập luận nặng ký vào lúc ngân sách quốc phòng sẽ bị cắt giảm đến hơn 400 tỷ đô la trong vòng 10 năm tới.
So với mức 600 tỷ đô la chi cho quốc phòng hàng năm, thì viễn cảnh của sự thiếu hụt này đang gây ra phản ứng mạnh mẽ trong hàng ngũ các nghị sĩ thuộc các đơn vị bầu cử nơi có các nhà máy của Boeing, Lockheed Martin, General Dynamics hay Raytheon.
Vì vậy, dưới áp lực của bầu cử sắp đến, các cố vấn của Nhà Trắng có ý định sẽ biến Thượng đỉnh Chicago lần này thành nơi trưng bày giới thiệu vũ khí của Hoa Kỳ.
Theo Le Monde Diplomatique, kể từ những năm 1960, lãnh đạo Lầu Năm Góc cảm thấy bực bội vì các khoản đóng góp ngân sách quốc phòng yếu kém từ phía châu Âu. Tâm trạng này được thể hiện ngày càng rõ trong thời gian gần đây. Nhiều tín hiệu đã được gửi đến các đồng minh, đề nghị phải có một nỗ lực thật sự trên phương diện trang thiết bị. Một hình thức kêu gọi các « quốc gia tham gia liên minh miễn phí » trong hệ thống phòng thủ chung mua các thiết bị hiện đại của Hoa Kỳ. Bởi vì, phần đông các quốc gia trong khối không có ngành công nghiệp quốc phòng.
Le Monde Diplomatique nhắc lại vào năm 2002, tại Thượng đỉnh Praha, Mỹ đã từng có ý định ấn định « tham gia theo khả năng ». Nghĩa là, mỗi quốc gia, trong một lãnh vực cụ thể (máy bay tàng hình, vệ tinh, tàu tiếp tế, viễn thông…) cam kết điều hành một chức năng và mua sắm trang thiết bị chung cần thiết tùy theo khả năng tương tác và tính hiệu quả cho cả khối.
Thế nhưng, tham vọng này vẫn như là tờ giấy trắng, mà bằng chứng là cuộc chiến Libya. Trong chiến dịch này chỉ có ba nước là đóng vai trò chủ chốt : Pháp cung cấp các chiến đấu cơ Rafale, Anh đưa các chiến hạm và Mỹ ở đằng sau, hậu thuẫn về mặt cung cấp các tàu tiếp vận, tình báo, đài chỉ huy và kiểm soát.
Theo Le Monde Diplomatique, qua chiến dịch Libya, khi cố tình ở lại phía sau, Washington đã muốn nhân cơ hội này đưa ra một thông điệp : Có thể trong tương lai, Mỹ sẽ ít tham gia các hoạt động trong khối. Trong tài liệu Tổng quan Chiến lược Quốc phòng (Defense Strategic Review, DSR), do chính tổng thống Mỹ Barack Obama công bố hồi tháng Giêng năm nay, cho thấy, Hoa Kỳ sẽ tái triển khai quân tại vùng châu Á-Thái Bình Dương và tuyên bố rằng kể từ giờ, sứ mạng lịch sử của khối NATO tại châu Âu đã hoàn thành.
Trước các thông điệp của Mỹ đưa ra, để không bị rơi vào trạng thái « mồ côi », quả thật các quốc gia châu Âu trong khối buộc phải đầu tư với sự phối hợp về kỹ thuật và tác chiến của Hoa Kỳ. Đấy cũng chính là nền tảng của khái niệm « phòng thủ thông minh » (smart defense) do ông Rasmussen, tổng thư ký NATO người Đan Mạch đưa ra vào hồi tháng 2/2011. Theo ông, đây là cách tốt nhất để đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế đang làm suy kiệt các nguồn lực của các nước thành viên châu Âu. Theo đó, chỉ cần tập trung vào các khả năng quân sự theo cơ cấu và cùng nhau hỗ trợ về mặt tài chính. Đồng thời chiến lược này cũng kêu gọi các nước thành viên nào đã có sẵn nền công nghiệp quốc phòng thì nên chuyên môn hoá để tránh tình trạng dư thừa.
Thế nhưng, theo nhận định của bài báo, dự án « smart defense » chứa đựng rất nhiều mối nguy hiểm. Bởi lẽ, những nước nào đã có sẵn một nền công nghiệp quốc phòng như Pháp chẳng hạn sẽ dần dần mất đi tính tự chủ về công nghiệp và chiến lược của mình.
Tại Trung Quốc, trẻ em ở các tỉnh nghèo bị suy dinh dưỡng trầm trọng
Trở lại Trung Quốc với chủ đề xã hội, tuần san Courrier International số ra tuần này có đăng trích dịch một bài viết trên tờ Tâm Kinh báo tại Bắc Kinh đề tựa « Tôi, Tú Lệ (Xiuli), 12 tuổi, bị thiếu ăn và là nạn nhân của căng-tin ». Theo Tâm Kinh báo thì tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn còn đang hoành hành tại các tỉnh nghèo. Tuy nhiên, chương trình quốc gia nhằm đẩy lùi « cái đói » lại bị xói mòn vì tham nhũng.
Bé Lương Tú Lệ, 12 tuổi, nhưng chỉ cao có 1,30m, tức chỉ cao bằng một bé gái 8 tuổi ở thành thị. Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính của sự tăng trưởng chậm trễ là do suy dinh dưỡng. Bé Tú Lệ là học sinh lớp 4, học nội trú tại một trường tiểu học ở huyện Na Pha (Napo), thuộc tỉnh Quảng Tây.
Trên thực tế, nhà trường chỉ cung cấp hai bữa ăn cho học sinh nội trú. Các em phải tự xoay sở cho bữa ăn sáng và bé Tú Lệ hầu như không có thói quen dùng bữa sáng. Bé Tú Lệ không chỉ là trường hợp duy nhất. Trong lớp học của bé gồm 50 học sinh, thì chỉ có 3 hay 4 em là có dùng bữa sáng.
Trong suốt học kỳ 2 năm 2010, Quỹ nghiên cứu về phát triển của Trung Quốc đã tiến hành một điều tra tại các vùng nông thôn thuộc các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Ninh Hạ, và Thanh Hải. Qua việc đo chiều cao của các học sinh tiểu học, các nhà điều tra nhận thấy tình trạng thiếu ăn trầm trọng và tăng truởng chậm ở các trẻ nông thôn.
Hơn nữa, việc đo chiều cao của các học sinh tiểu học từ lớp 4 đến lớp 6 tại huyện Độ Ngạn (Du’an) tỉnh Quảng Tây, kết quả cho thấy ở 13 tuổi, có rất nhiều em trai ở nông thôn có chiều cao và trọng lượng bằng trẻ 10 tuổi ở thành thị, so với mức trung bình trên toàn quốc. Thêm vào đó, hầu hết các em đều không được bổ sung thêm chất vitamine C và 72% học sinh bị đói trong các giờ học.
Vào mùa thu năm rồi, chính quyền Bắc Kinh đã đưa ra kế hoạch cải thiện điều kiện dinh dưỡng cho các học sinh đi học trong khuôn khổ giáo dục bắt buộc ở các vùng nông thôn, với một ngân sách hàng năm khoảng 16 tỷ tệ , tức khoảng 3 tệ/ ngày/ em cho hơn 680 huyện thử nghiệm.
Tuy nhiên, theo bài báo, số tiền hỗ trợ của chính phủ trước khi đến được tay của các em cũng đã bị gặm nhắm một phần. Các trường gọi các nhà thầu cung cấp thực phẩm với giá cao hơn với giá bán sỉ ngoài thị trường. Một hiệu trưởng cơ sở đào tạo tại Na Pha cho biết, nếu khéo thương lượng với các nhà thầu thì ông ta cũng có được một chút ít tiền hoa hồng.
Mặt khác, tác giả bài viết cũng ghi nhận rằng nhiều trường học tại các tỉnh An Huy, Quý Châu, Quảng Tây và Thanh Hải đã gọi các doanh nghiệp tư nhân để cung cấp thức ăn dự trữ cho học sinh.
Thậm chí, bữa ăn chiều của các em học sinh còn được làm từ các loại thực phẩm rẻ tiền bán trong các tiệm tạp hoá ở gần trường học như xúc-xích hay bánh quy. Một số trường học khác thì chọn cách đưa trực tiếp cho các em 2 tệ/ngày, nhưng nhà trường không nói rõ sẽ làm gì với số tiền còn lại.
Các nhà điều tra còn khám phá ra rằng trong nhà ăn của các trường học, khoai tây bị mọc mầm và nhà bếp thì nằm trong các nhà vách rách nát tối tăm được trang bị rất nghèo nàn.
Nhiều trường học còn trữ gạo và rau cũ chung với nhau do thiếu chỗ để bảo quản. Ngoài ra, tại nông thôn, các trường học còn không thể nào tránh được tình trạng chuột và sâu bọ. Do đó, có nhiều vị hiệu trưởng đã chọn giải pháp chỉ mua bánh mì và sữa cho học sinh. Tuy nhiên, có nhiều em đã cho các nhà điều tra biết là có nhiều hôm các em dùng phải trứng có mùi thối và sữa bị ôi.
(ngườn RFI)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001